Trước cuộc thi một ngày, sáu người giám khảo mỗi người ra một đề. Trần Khác tuy cũng là giám khảo, nhưng với cuộc thi ở cấp độ này, đội hình giám khảo cũng đủ doạ chết người rồi, thế nên không tới lượt hắn ra đề.
Tham Tri Chính Sự Âu Dương Tu ra luận đề "Vương giả không trị di địch", lấy từ bản ghi "Xuân Thu Công Dương truyện"của Hà Hưu.
Tham Tri Chính Sự Vương Khuê ra luận đề "Ký túy bị vạn phúc", lấy từ chú giải "Kinh Thi, Đại Nhã, Sinh Dân" của Trịnh Huyền.
Xu Mật phó sứ Ngô Khuê ra luận đề "Lễ Nghĩa Tín đủ là Đạo Đức", lấy từ bản ghi "Luận Ngữ, Tử Lộ Thiên" của Bao Hàm.
Long Đồ Các Trực Học Sĩ Dương Điền ra luận đề "Hình thế không bằng phẩm hạnh", lấy từ "Sử ký, Ngô Khởi liệt truyện".
Quyền Ngự Sử Trung Thừa Vương Trù ra luận đề "Dạy người lấy lễ làm gốc", lấy từ "Hán Thư, Lễ Nhạc Chí".
Tri Chế Cáo Vương An Thạch ra luận đề "Lưu Khải Đinh Hồng ai có tài", lấy từ "Hậu Hán Thư, Đinh Hồng truyện" và "Hậu Hán thư, Lưu Khải truyện".
Trong sáu đề gồm ba kinh ba sử, ba chính văn ba chú giải, yêu cầu cực kỳ nghiêm khắc. Người dự thi phải chỉ rõ từng luận đề được lấy từ đâu, sau đó trích dẫn toàn bộ văn tự trong luận đề, hoàn thành hết mới được gọi là ‘thông’. Người không biết nguồn gốc của luận đề không được chấm ‘thông’; người biết rõ nguồn gốc mà không trích dẫn được toàn bộ luận đề cũng không được chấm thông, chỉ được để ‘thô’. Người dự thi làm sáu luận, mỗi phần phải hơn ba ngàn chữ, cho nên ghi ít nhất phải một vạn tám ngàn chữ, yêu cầu hoàn thành trong một ngày một đêm.
Năm mươi người dự thi, tuy tất cả đều có thể hoàn thành, nhưng có không ít người vì nhanh mà làm qua loa.
Bài thi được thu lấy, Thư sử dán tên rồi ghi chép lại, sau đó chuyển đến Trần Khác. . . Vì quan sơ khảo chỉ có một mình hắn cho nên tất cả bài thi đều phải qua tay của hắn, hắn chỉ việc tuyển những người làm được bốn thông trở lên đưa cho sáu vị giám khảo mà thôi. Sau đó sáu vị giám khảo sẽ phân chia cấp bậc, chia những người bốn thông trở lên làm năm bậc, đến bậc bốn lại chia trên dưới, theo như lệ cũ, bậc một, bậc hai không cần xét, bậc ba xét tốt, bậc bốn trở lên mới có tư cách tham gia thi Ngự.
Nói chung, Trần Khác không có quyền hạn gì trong này, bởi vì ‘thông’, ‘thô’ hay ‘không thông’ đều rất rõ ràng. Nếu hắn làm sai, bị Ngự Sử vạch tội thì còn nhẹ, khó khăn tạo dựng hình tượng đại nho cũng sẽ bị sụp đổ trong chốc lát, vì vậy hắn không được phép sơ suất chút nào.
Nhưng điều này không có nghĩa rằng hắn không thể tác động lên kết quả. Trên thực tế, Trần Khác sử dụng một biện pháp khá khéo léo, khiến tất cả những người hắn muốn bảo vệ đều thuận lợi thông qua.
Người Trần Khác muốn bảo vệ, tất nhiên là bạn học cùng khoá với hắn ở Gia Hữu Học Xã, hắn rất quen thuộc văn phong của những người này, vì vậy không cần thông đồng với người khác, hắn vẫn có thể nhận ra bài thi cũng những vị bạn học này.
Trong đó, hắn không lo lắng Nhị Tô và Tằng Củng, bài viết của tám Đại Gia Đường Tống không qua được Các, đây mới là việc đáng cười nhất trong thiên hạ.
Người hắn muốn bảo vệ là Tứ Lang, Lâm Hi và Lã Huệ Khanh.
Hắn sử dụng chiến thuật quanh co, trước hết lấy bài thi của Nhị Tô và Tằng Củng đặt ở dưới cùng, đem tất cả ‘bài thi qua loa’ đặt ở trên cùng, bỏ bài thi của Tứ Lang vào giữa, phía dưới lại để vài bài thi ‘qua loa’. Như thế, sáu vị giám khảo sau khi loại bỏ kha khá các bài thi ‘qua loa’ phía trước, nhìn thấy bài thi cũng khá cẩn thận của Tứ Lang liền cảm thấy không tệ, vì đã loại hơi nhiều, chưa kể mấy bài thi kế tiếp cũng quá khó coi, tỷ lệ Tứ Lang được chọn tự nhiên tăng cao.
Lâm Hi và Lã Huệ Khanh cũng tương tự, bởi vì những bài thi ưu tú như Nhị Tô với Tằng Củng đều đặt ở cuối cùng, cho nên ba người được Trần Khác làm nổi bật lên được ‘qua Các’ không có gì lạ. Đến khi thấy mấy bài thi cuối cùng, cho dù mấy vị giám khảo biết trình độ của những người này cao, cũng sẽ không thay đổi kết quả phía trước.
Bởi vì sáu người cùng nhau chấm bài, cho nên người nào muốn thay đổi kết quả phía trước, chẳng khác nào không đồng ý với quyết định của năm người còn lại. Không đâu đi đắc tội với người khác, ngay cả Vương An Thạch cũng không điên đến mức này.
Kết quả được công bố, tổng cộng mười lăm người qua Các, trong đó có Tứ Lang, Lâm Hi và Lã Huệ Khanh, tất nhiên Nhị Tô với Tằng Củng cũng không bị vùi dập. Trừ sáu người bọn họ, Đặng Oản cũng qua được. Trong tất cả những người qua Các, có tới một nửa thuộc Gia Hữu Học Xã, ngay lập tức danh tiếng của Gia Hữu Học Xã một lần nữa được triều đình và dân chúng biết đến... Cuộc thi Ngự điện Sùng Chính bắt đầu một ngày sau, sáng sớm, quan gia tự mình chủ trì ra một đề sách. Lần ra đề này, có vẻ Triệu Trinh rất muốn nói điều gì đó, nên trong phần đề sách dùng tới mấy trăm chữ, mà đa số ý đều là cái nhìn của lão đối với các loại tệ nạn trong nước:
“Từ khi Trẫm lên ngôi đến nay. . . Đức có chỗ chưa đủ, giáo dục có chỗ chưa tốt, quản lý còn thiếu sót, hòa khí cũng ít. Dù ban ruộng đất, dân chúng cũng buồn chán. Biên cảnh dù yên ổn, binh lính không được rút lui. Lợi nhập vào quá sâu, chi phí di chuyển cũng càng lớn. Quân đội lộn xộn không có kinh nghiệm, quan cũng rối ren không rõ ràng. Trường học mở nhiều, lễ nghĩa chưa đủ; ít nhà được phong quan, kẻ sĩ bị bỏ qua. . . Người tại vị không cảm hoá dân tâm, người trị dân lấy pháp luật bắt bớ. Lệnh cấm nhiều, dân không biết tránh. Lợi dụng pháp luật, quan không sợ. Dân chúng mệt mỏi, người than thở nhiều. Đến tận năm này, đại nạn cũng dần thấy được . . .”
Tệ nạn Đại Tống được nhắc mấy lần, nếu viết ở trường hợp khác, đây chính là một chiếu thư tự kể tội.
Sau đó mới yêu cầu "đại phu ai cũng biết, sau nạn không cần thương tiếc".
Đây là tự làm khổ.
Quan Tường Định Tư Mã Quang chép đề sách, đầu đầy mồ hôi, sau khi chép xong cũng không dám nhận lệnh, nói:
- Bệ hạ nghĩ lại, nếu đề sách này phát ra, chắc chắn khiến thiên hạ đại náo!
- Có gì liên quan?
Triệu Trinh nửa cười nửa không hỏi.
- Vâng, là có liên quan.
Tư Mã Quang tự nhiên hơn rất nhiều so với những người khác khi ở cạnh hoàng đế, trầm giọng nói:
- Thánh nhân nói, thiên hạ không ai không phải cha mẹ, suy ra rộng khắp, cũng không ai không phải quân vương. Ngàn sai vạn sai, đều là thần sai. Bệ hạ chính là vua Đại Tống, người làm vua không thể sai, nếu không lòng dân không yên, ý xấu sẽ trỗi dậy!
- Quân Thực, ngươi đọc sách quá nhiều.
Quan hệ giữa Triệu Trinh và Tư Mã Quang rõ ràng càng lúc càng thân, dùng từ tương xứng nói:
- Tệ nạn trong thiên hạ đề ở đề sách này, cho dù ngươi không cho ta nói, ta làm hoàng đế bốn mươi năm, chẳng lẽ không có liên quan? Nếu không mượn cơ hội này nói ra, lại khiến cho người trong thiên hạ nghĩ Triệu Trinh ta tự gạt mình không gạt được người, lẩm cẩm như thế . . .
Nói xong cười nhạt một tiếng tiếp:
- Ngươi không nghe tục ngữ nói "gió mạnh mới biết cỏ cứng, hỗn loạn mới ra anh hùng" sao? Quả nhân muốn là gió mạnh, thổi tung khoang thuyền, để cho Đại Tống ta tìm được mấy cọng cỏ cứng, mấy vị anh hùng!
- Bệ hạ, ngài đã biết như thế, tại sao không đại chấn thiên uy, ra sức chấn chỉnh?
Bây giờ Tư Mã Quang đã nhận thức được, vị hoàng đế thoạt nhìn có chút yếu ớt vô lực này là người có đại trí tuệ.
Triệu Trinh sững sờ một lúc, hơi gục đầu xuống, thở dài nói:
- Quả nhân suýt chết hai lần, thân thể đã không còn được như lúc trước, khi vào triều nghe đại thần tấu, chỉ cần thời gian hơi dài thì tay chân liền run rẩy, đầu óc choáng váng, mặt mũi nhăn nhó. Nếu quả nhân tự thân chỉnh đốn. . . Giả như trên đường thân thể có biến, vị vua tương lai khó có thể thừa kế. Điều quả nhân có thể làm là chuẩn bị tốt nền móng cho vị vua tương lai, dọn dẹp chướng ngại. Ngươi rõ chưa Quân Thực?
Những lời giải bày tâm can thật đau khổ. Tư Mã Quang rơi lệ, khóc nức nở, nói:
- Thần rõ rồi, rất rõ...
- Cho nên quả nhân muốn cho những anh hùng này nổi lên, nếu bọn họ ẩn mình, làm sao ta có thể ra tay?
Hai mắt Triệu Trinh luôn lộ vẻ ôn hoà, ngay lúc này lộ ra lạnh lùng:
- Ngươi chờ xem sau Ngự thí này, có bao nhiêu trò hay sẽ trình diễn!
Tuy bây giờ là tháng tư, nhưng Tư Mã Quang vẫn cảm thấy một hồi lạnh lẽo. . .
‘Thi Ngự sách Chế Khoa’ yêu cầu hơn ba ngàn chữ, hoàn thành trước khi trời tối.
Nội dung đề sách rộng rãi như thế, khó trả lời hơn luận đề rất nhiều, cũng may chỉ có một đề, kiểu gì cũng có thể trả lời xong.
Trời tối liền thu bài, tuy chỉ có mười lăm bài nhưng vẫn niêm phong ống quyển, sao chép lại. Sau đó do quan sơ khảo, Quan Tường Định xét duyệt thứ tự hai lần rồi trình lên cho quan gia ngự lãm.
- Khoa này có hiền tài được xếp bậc ba không?
Triệu Trinh mỉm cười hỏi. Không phải lão xem thường sĩ phu nước mình, do bậc một bậc hai vốn không được phong quan, bậc ba là cấp cao nhất. Hơn nữa triều đình quy định ‘bậc ba Chế Khoa cũng như đứng đầu Tiến sĩ, trừ việc chọn hai chức quan Bình sự và Thiêm thư của Đại Lý Tự’, có nghĩa là đứng bậc ba Chế Khoa tương đương với Trạng Nguyên khoa Tiến Sĩ. Chưa kể từ khi dựng nước đến nay chỉ có Ngô Dục được bậc ba, ngoài ra không còn ai khác, còn hiếm hơn ba năm một Trạng Nguyên.
- Chúc mừng bệ hạ.
Tư Mã Quang cung kính nói:
- Kết quả khoa này rất khá, có sáu người đứng trên bậc bốn, nhất là bài của ‘Thần’, ‘Chiên’, lý lẽ diễn đạt đều tốt, tuyệt đối ngang nhau, dự tính đều được bậc ba.
‘Thần’, ‘Chiên’ là tên ký hiệu bài thi sau khi chép lại.
- Thế à.
Nghe có tới hai người đạt bậc ba, Triệu Trinh liền cảm thấy hứng thú, nói:
- Đưa quả nhân xem.
- Vâng.
Tư Mã Quang mang hai bài thi “dự tính bậc ba” trình lên.
Triệu Trinh cầm lên một bài, nheo mắt nhìn qua:
“Thần trịnh trọng trả lời: thần nghe thiên hạ không có việc gì, thì các bậc quyền quý nói nhẹ như lông hồng; thiên hạ xảy ra chuyện, thì người bình thường nói nặng như Thái Sơn. Không có trí tuệ tức không có năng lực, nơi bộc lộ công khai lại không quan sát kỹ, tình thế khó khăn lại càng đặc biệt vậy. . .”
Triệu Trinh cảm giác được câu từ bài này hoàn toàn tự nhiên, nhiều màu sắc phong phú. Giữa những hàng chữ ẩn chứa sức sống và tài văn chương vô tận, đáng quý ở chỗ, tác giả thể hiện một trái tim chân thành, không hề có chút khoe khoang trước mặt mình.
“Bởi vì ngày trôi qua, nên khoẻ mạnh, năm tháng đi tới, nên rõ ràng; dòng nước chảy hàng ngày, nên vô tận; tay chân con người hoạt động, nên không tật; bộ máy dùng hàng ngày, nên không mọt; thiên hạ, là đại vật (vật ở đây ý chỉ các loài trong trời đất). Để lâu không dùng, thì là đồ vô dụng, như thế chỉ càng tệ hơn mà thôi.’
Triệu Trinh vừa lớn tiếng đọc vừa khen:
- Văn chương của người này có thể sánh bằng Hàn Liễu.
Khi đọc đến ‘Thiên hạ, không vua sẽ hoang. Sứ quân thiên hạ đều ở bên vua’, người bên cạnh đều biến sắc, Triệu Trinh cất tiếng cười to nói:
- Dám nói thẳng!
Đọc xong, cuốn lại bài thở dài:
- Đại Tống thật may mắn khi có người này, chấm bậc hai!
- Xin bệ hạ nghĩ lại, từ trước tới nay bậc hai không hề có tác dụng gì, dù là kỳ tài ngút trời cũng không nên phá lệ.
Tư Mã Quang nói khẽ:
- Đừng quên tấm gương Trần Trọng Phương, người này có thể có năng lực như Trần Trọng Phương...
Những năm này, đã bao nhiêu lần Trần Khác chịu cảnh đối xử không công bằng? Ngân đài ti thu các tấu chương buộc tội hắn có thể xếp đầy một căn phòng. Tuy được quan gia che chở, nhưng nếu không phải hắn lập đại công nhiều lần, lại luôn cảnh giác, chỉ sợ mười Trần Khác cũng bị xé thành từng mảnh.
Triệu Trinh suy nghĩ một lát, cũng thấy không thể đỡ lên rồi đạp xuống nhân tài, nên không kiên trì nữa:
- Vậy thì chấm bậc ba.
Nói xong lấy bài tiếp theo.
- Xin bệ hạ tha thứ.
Trán Tư Mã Quang đổ chút mồ hôi, nói:
- Từ ngữ bài thứ hai này có chút thẳng thắn, bệ hạ cần phải chuẩn bị. . .
- Ha ha. . .
Triệu Trinh không quá để ý cười nói:
- Quả nhân mở khoa này gọi là “khoa Cực ngôn trực gián” (can gián thẳng thắn), không thẳng thắn làm sao can gián?
Nói rồi chỉ vào bài còn lại tiếp:
- Quả nhân ngay cả lời nói “thiên hạ, không vua sẽ hoang. Sứ quân thiên hạ đều ở bên vua” nghe rồi, còn điều gì không thể tiếp thu chứ?
- Vâng.
Lúc này Tư Mã Quang mới tạm thấy an tâm một chút.
Triệu Trinh từ từ mở bài thi lấy tên hiệu ‘Chiên’ ra, liền thấy một kỳ văn kinh tâm động phách hiện ra trước mắt:
“Thần trịnh trọng trả lời. . . Tính thần vốn cuồng ngu, không biết kiêng kị. . . Bệ hạ viết đề sách: ‘Trẫm thừa kế ngôi vị tổ tông, tiên đế để lại, hết sức mờ mịt, chỉnh lý không rõ ràng.’ Thoạt nhìn có vẻ bệ hạ đang lo sợ nên nói như vậy. Nhưng thần cho rằng bệ hạ không có việc gì để lo sợ.”
“Nếu bệ hạ muốn thần nói thẳng can gián, những lời như thế thật không dễ nghe, có chỗ nào phạm huý, mong bệ hạ thứ cho. Bệ hạ nói bệ hạ lo lắng quốc sự, thần cảm thấy bệ hạ không thật sự lo lắng!”
“Từ năm Bảo Nguyên đến Khánh Lịch, Tây Khương làm khó, ban ngày bệ hạ toạ bất an, ban đêm nghỉ bất an. Lúc này, khắp thiên hạ đều kêu bệ hạ lo lắng như Chu Văn Vương. Nhưng mà khi phía tây giải binh, bệ hạ bỏ sự lo lắng qua một bên, không trả thù, giờ đã hai mươi năm.”
“Năm đó, khi Lý Nguyên Hạo làm loạn, bệ hạ sợ tới mức ban ngày ngồi không yên, buổi tối ngủ không được. Lúc đó bệ hạ mới thật sự lo lắng. Nhưng sau khi nghị hoà Khánh Lịch, ngừng chiến tranh với Tây Hạ, vết sẹo của bệ hạ liền hết đau, thoáng cái trôi qua hai mươi năm.”
“Nay bệ hạ không có chuyện thì không lo, có chuyện thì rất sợ. Thần cho rằng bệ hạ sống không yên ổn. Không có chuyện gì thì tỏ ra vô tâm, có chuyện liền lo âu thấp thỏm, cho nên thần mới nói, căn bản bệ hạ không thật sự lo lắng.”
Tiếp đến, tác giả lại chỉ trích hoàng đế sa vào nữ sắc, cũng kể ra sáu vị vua gây hoạ trong lịch sử cảnh cáo, nói: “Sáu vị vua này, không lo lắng trị an thiên hạ, luôn không cảnh giác, đắm chìm trong rượu, hoang đắm trong sắc, lên triều muộn bãi triều sớm, ngủ sớm dậy muộn, đại thần không thể nói, tiểu thần không cố can. Trước sau trái phải, lúc nào cũng bị bao quanh bởi các phu nhân, người nói lời ngay thẳng không nghe, chỉ nghe vợ.”
- Người này nói ta thích làm gì thì làm, giống như những vị vua gây hoạ.
“Bệ hạ đến tuổi này, quý cơ trong cung dùng ngàn mà tính, ca múa uống rượu, sung sướng thất tiết, lên triều không nghe báo cáo, biệt điện không hề chú ý. Ngài là một gã dâm lạc không biết kiềm chế tửu sắc, lên triều vô tình, tâm không yên chính sự!”
“Lão đại ngài đừng tưởng chỉ làm mấy vị phụ nhân sẽ không ảnh hưởng đại sự quốc gia, hiện tại ‘trong nước khốn cùng, dân sinh than khổ’, nếu ngài làm bừa... chỉ sợ ngài sẽ khiến ‘dân tâm không còn hướng về’!”
Ngoài việc chỉ trích hoàng đế trầm mê nữ sắc hưởng lạc, người này còn chỉ trích hoàng đế: “Bệ hạ chọn quan không tốt, khiến dân chúng ở dưới chịu hại, không biết tố ai; bệ hạ thu thuế nặng nề, dân chúng ngày thêm nghèo khó, quần áo không đủ che thân. Quan lại vô tâm, còn có thể đổi người; thu thuế vô tâm thì trách tội ai?”
Trách tội ai? Đương nhiên là ngài!
Người này còn chỉ trích hoàng đế lãng phí, đặt sưu cao thế nặng, dân sinh khốn khổ.
Lại chỉ trích hoàng đế ‘vì hư danh mà không biết làm chính sự’, nói: “Thần xem ý bệ hạ, có lẽ muốn Sử Quan lưu lại danh tiếng đẹp cho người đời sau, vậy thần cho rằng bệ hạ quá chú ý hư danh. . .”
Đọc thầm đoạn này, Triệu Trinh chảy mồ hôi đầm đìa, mặt mo đỏ bừng. Người này thật sự không biết kiêng nể gì cả, thà nói chuyện giật gân còn được, có vài chỗ chỉ trích như ngấm sâu vào trong xương tuỷ, vạch trần chút tâm tư bí ẩn của Triệu Trinh, phê phán vô cùng tinh tế!
Tuy Triệu Trinh cố gắng làm cho phẩm chất của mình thật tốt, nhưng ngày xưa đám đại thần chỉ trích không đến nơi đến chốn, có ai dám vạch trần lão thanh tĩnh không làm gì, đeo mặt nạ đi can gián, mang một bụng truy cầu danh tiếng, qua loa hưởng nhàn lộ rõ ra giữa thiên hạ?
Người này có thể nói là người đầu tiên trong trăm năm qua!
Một lúc lâu, Triệu Trinh mới lấy lại tinh thần, nhưng không dám nhìn bài thi này nữa, hỏi Tư Mã Quang:
- Ngươi cho rằng bài này đáng chấm bậc ba?
Trước đó Tư Mã Quang có chút hiểu ý nghĩ của vua mới lựa bài thi này ra, nhưng bây giờ thấy mặt hoàng đế đỏ như đít khỉ, trong lòng lại không chắc chắn, liền nói khẽ:
- Vi thần cho rằng, bên trong cái ngôn từ đạm mạc mênh mông của bài thi này có chứa một tác phong chính trực, tuy người này nói có hơi bất công, nhưng là thí sinh duy nhất thể hiện ‘hết sức nói thẳng can gián’, một trái tim khẩn thiết can gián bệ hạ, cho nên thần nghĩ đáng chấm bậc ba, biểu thị tấm lòng cầu người can gián của bệ hạ!
Dừng một lát nói:
- Nhưng Đường Trung Thừa không tán thành, cho rằng người này đang nói xấu vua, thẳng thừng gạt sang không chọn.
Tuy nhìn qua là để cho hoàng đế chọn, nhưng Triệu Trinh có thể nói “Không thể lấy tên này, gã mắng ta quá thảm” sao? Đem mặt mũi hoàng đế đặt đâu?
Nhưng nếu chọn bài thi này, tức phải phát ra thiên hạ, mấy chục năm mình cố gắng tạo dựng thanh danh chẳng phải liền huỷ trong chốc lát?
Nghĩ vậy, Triệu Trinh không khỏi tự giễu, ta quả đúng là người mua danh cầu lợi . . .
- Vi thần muốn chúc mừng bệ hạ.
Tư Mã Quang thấy hoàng đế chậm chạp không chịu mở miệng, liền chắp tay trầm giọng nói:
- Năm xưa Đường Thái Tông có Nguỵ Chinh mới thành Trinh Quán (niên hiệu vua Đường Thái Tông), bây giờ bệ hạ vì con cháu, tìm được Nguỵ Chinh của Đại Tống!
Được Tư Mã Quang nhắc nhở, Triệu Trinh mới nhớ tói nguyện vọng của mình, sắc mặt có chút dịu đi nói:
- Đúng vậy, quả nhân mở khoa thi này, không phải hi vọng có người hết sức nói thẳng can gián sao? Bây giờ đã có người như thế, quả nhân không phải tìm được “rồng Diệp Công thích” rồi!
Nói xong khoát tay:
- Nhưng ngươi cùng Đường Giới tính lại, xem xem phù hợp bậc mấy?
- Vâng.
Tư Mã Quang cầm lấy bài thi lui ra, không khỏi âm thầm cảm thán, bệ hạ thật sự rất có hàm dưỡng, nếu đổi một vị hoàng đế khác, chắc Tô Triệt cũng đã bị tống vào ngục. . . Vị hoàng đế này thật tốt, không hề tức giận.
Có đại sư chào hàng Tô Tuân, tất nhiên Tư Mã Quang không xa lạ gì văn phong của anh em Tô gia, so với ngôn từ bừa bãi, khách quan, không quá câu nệ của Đại Tô, y lại thích cái ngôn từ hơi kém một chút nhưng có phong thái quân tử của Tiểu Tô, hơn nữa cách làm người của Tiểu Tô cũng giống như y. Tư Mã Quang thầm nghĩ, nếu như chính mình tham gia cuộc thi lần này..., cũng sẽ trả lời như thế.
Trở lại Điện Sùng Chính, Tư Mã Quang bàn bạc với Đường Giới, hai người đều lùi một bước, vì vậy đổi thành bậc bốn.
Đã sắp xếp được thứ tự, khoa này lấy sáu người. Nhưng khi ghi bảng vàng, quan sơ khảo Hồ Túc không làm. Y kiên trì cho rằng Tô Triệt trả lời không đúng đề, đến nỗi làm loạn cả thời thịnh của hoàng thượng, tận lực yêu cầu huỷ bỏ kết quả!
‘Thần’, ‘Chiên’ là tên ký hiệu bài thi sau khi chép lại.
- Thế à.
Nghe có tới hai người đạt bậc ba, Triệu Trinh liền cảm thấy hứng thú, nói:
- Đưa quả nhân xem.
- Vâng.
Tư Mã Quang mang hai bài thi “dự tính bậc ba” trình lên.
Triệu Trinh cầm lên một bài, nheo mắt nhìn qua:
“Thần trịnh trọng trả lời: thần nghe thiên hạ không có việc gì, thì các bậc quyền quý nói nhẹ như lông hồng; thiên hạ xảy ra chuyện, thì người bình thường nói nặng như Thái Sơn. Không có trí tuệ tức không có năng lực, nơi bộc lộ công khai lại không quan sát kỹ, tình thế khó khăn lại càng đặc biệt vậy. . .”
Triệu Trinh cảm giác được câu từ bài này hoàn toàn tự nhiên, nhiều màu sắc phong phú. Giữa những hàng chữ ẩn chứa sức sống và tài văn chương vô tận, đáng quý ở chỗ, tác giả thể hiện một trái tim chân thành, không hề có chút khoe khoang trước mặt mình.
“Bởi vì ngày trôi qua, nên khoẻ mạnh, năm tháng đi tới, nên rõ ràng; dòng nước chảy hàng ngày, nên vô tận; tay chân con người hoạt động, nên không tật; bộ máy dùng hàng ngày, nên không mọt; thiên hạ, là đại vật (vật ở đây ý chỉ các loài trong trời đất). Để lâu không dùng, thì là đồ vô dụng, như thế chỉ càng tệ hơn mà thôi.’
Triệu Trinh vừa lớn tiếng đọc vừa khen:
- Văn chương của người này có thể sánh bằng Hàn Liễu.
Khi đọc đến ‘Thiên hạ, không vua sẽ hoang. Sứ quân thiên hạ đều ở bên vua’, người bên cạnh đều biến sắc, Triệu Trinh cất tiếng cười to nói:
- Dám nói thẳng!
Đọc xong, cuốn lại bài thở dài:
- Đại Tống thật may mắn khi có người này, chấm bậc hai!
- Xin bệ hạ nghĩ lại, từ trước tới nay bậc hai không hề có tác dụng gì, dù là kỳ tài ngút trời cũng không nên phá lệ.
Tư Mã Quang nói khẽ:
- Đừng quên tấm gương Trần Trọng Phương, người này có thể có năng lực như Trần Trọng Phương...
Những năm này, đã bao nhiêu lần Trần Khác chịu cảnh đối xử không công bằng? Ngân đài ti thu các tấu chương buộc tội hắn có thể xếp đầy một căn phòng. Tuy được quan gia che chở, nhưng nếu không phải hắn lập đại công nhiều lần, lại luôn cảnh giác, chỉ sợ mười Trần Khác cũng bị xé thành từng mảnh.
Triệu Trinh suy nghĩ một lát, cũng thấy không thể đỡ lên rồi đạp xuống nhân tài, nên không kiên trì nữa:
- Vậy thì chấm bậc ba.
Nói xong lấy bài tiếp theo.
- Xin bệ hạ tha thứ.
Trán Tư Mã Quang đổ chút mồ hôi, nói:
- Từ ngữ bài thứ hai này có chút thẳng thắn, bệ hạ cần phải chuẩn bị. . .
- Ha ha. . .
Triệu Trinh không quá để ý cười nói:
- Quả nhân mở khoa này gọi là “khoa Cực ngôn trực gián” (can gián thẳng thắn), không thẳng thắn làm sao can gián?
Nói rồi chỉ vào bài còn lại tiếp:
- Quả nhân ngay cả lời nói “thiên hạ, không vua sẽ hoang. Sứ quân thiên hạ đều ở bên vua” nghe rồi, còn điều gì không thể tiếp thu chứ?
- Vâng.
Lúc này Tư Mã Quang mới tạm thấy an tâm một chút.
Triệu Trinh từ từ mở bài thi lấy tên hiệu ‘Chiên’ ra, liền thấy một kỳ văn kinh tâm động phách hiện ra trước mắt:
“Thần trịnh trọng trả lời. . . Tính thần vốn cuồng ngu, không biết kiêng kị. . . Bệ hạ viết đề sách: ‘Trẫm thừa kế ngôi vị tổ tông, tiên đế để lại, hết sức mờ mịt, chỉnh lý không rõ ràng.’ Thoạt nhìn có vẻ bệ hạ đang lo sợ nên nói như vậy. Nhưng thần cho rằng bệ hạ không có việc gì để lo sợ.”
“Nếu bệ hạ muốn thần nói thẳng can gián, những lời như thế thật không dễ nghe, có chỗ nào phạm huý, mong bệ hạ thứ cho. Bệ hạ nói bệ hạ lo lắng quốc sự, thần cảm thấy bệ hạ không thật sự lo lắng!”
“Từ năm Bảo Nguyên đến Khánh Lịch, Tây Khương làm khó, ban ngày bệ hạ toạ bất an, ban đêm nghỉ bất an. Lúc này, khắp thiên hạ đều kêu bệ hạ lo lắng như Chu Văn Vương. Nhưng mà khi phía tây giải binh, bệ hạ bỏ sự lo lắng qua một bên, không trả thù, giờ đã hai mươi năm.”
“Năm đó, khi Lý Nguyên Hạo làm loạn, bệ hạ sợ tới mức ban ngày ngồi không yên, buổi tối ngủ không được. Lúc đó bệ hạ mới thật sự lo lắng. Nhưng sau khi nghị hoà Khánh Lịch, ngừng chiến tranh với Tây Hạ, vết sẹo của bệ hạ liền hết đau, thoáng cái trôi qua hai mươi năm.”
“Nay bệ hạ không có chuyện thì không lo, có chuyện thì rất sợ. Thần cho rằng bệ hạ sống không yên ổn. Không có chuyện gì thì tỏ ra vô tâm, có chuyện liền lo âu thấp thỏm, cho nên thần mới nói, căn bản bệ hạ không thật sự lo lắng.”
Tiếp đến, tác giả lại chỉ trích hoàng đế sa vào nữ sắc, cũng kể ra sáu vị vua gây hoạ trong lịch sử cảnh cáo, nói: “Sáu vị vua này, không lo lắng trị an thiên hạ, luôn không cảnh giác, đắm chìm trong rượu, hoang đắm trong sắc, lên triều muộn bãi triều sớm, ngủ sớm dậy muộn, đại thần không thể nói, tiểu thần không cố can. Trước sau trái phải, lúc nào cũng bị bao quanh bởi các phu nhân, người nói lời ngay thẳng không nghe, chỉ nghe vợ.”
- Người này nói ta thích làm gì thì làm, giống như những vị vua gây hoạ.
“Bệ hạ đến tuổi này, quý cơ trong cung dùng ngàn mà tính, ca múa uống rượu, sung sướng thất tiết, lên triều không nghe báo cáo, biệt điện không hề chú ý. Ngài là một gã dâm lạc không biết kiềm chế tửu sắc, lên triều vô tình, tâm không yên chính sự!”
“Lão đại ngài đừng tưởng chỉ làm mấy vị phụ nhân sẽ không ảnh hưởng đại sự quốc gia, hiện tại ‘trong nước khốn cùng, dân sinh than khổ’, nếu ngài làm bừa... chỉ sợ ngài sẽ khiến ‘dân tâm không còn hướng về’!”
Ngoài việc chỉ trích hoàng đế trầm mê nữ sắc hưởng lạc, người này còn chỉ trích hoàng đế: “Bệ hạ chọn quan không tốt, khiến dân chúng ở dưới chịu hại, không biết tố ai; bệ hạ thu thuế nặng nề, dân chúng ngày thêm nghèo khó, quần áo không đủ che thân. Quan lại vô tâm, còn có thể đổi người; thu thuế vô tâm thì trách tội ai?”
Trách tội ai? Đương nhiên là ngài!
Người này còn chỉ trích hoàng đế lãng phí, đặt sưu cao thế nặng, dân sinh khốn khổ.
Lại chỉ trích hoàng đế ‘vì hư danh mà không biết làm chính sự’, nói: “Thần xem ý bệ hạ, có lẽ muốn Sử Quan lưu lại danh tiếng đẹp cho người đời sau, vậy thần cho rằng bệ hạ quá chú ý hư danh. . .”
Đọc thầm đoạn này, Triệu Trinh chảy mồ hôi đầm đìa, mặt mo đỏ bừng. Người này thật sự không biết kiêng nể gì cả, thà nói chuyện giật gân còn được, có vài chỗ chỉ trích như ngấm sâu vào trong xương tuỷ, vạch trần chút tâm tư bí ẩn của Triệu Trinh, phê phán vô cùng tinh tế!
Tuy Triệu Trinh cố gắng làm cho phẩm chất của mình thật tốt, nhưng ngày xưa đám đại thần chỉ trích không đến nơi đến chốn, có ai dám vạch trần lão thanh tĩnh không làm gì, đeo mặt nạ đi can gián, mang một bụng truy cầu danh tiếng, qua loa hưởng nhàn lộ rõ ra giữa thiên hạ?
Người này có thể nói là người đầu tiên trong trăm năm qua!
Một lúc lâu, Triệu Trinh mới lấy lại tinh thần, nhưng không dám nhìn bài thi này nữa, hỏi Tư Mã Quang:
- Ngươi cho rằng bài này đáng chấm bậc ba?
Trước đó Tư Mã Quang có chút hiểu ý nghĩ của vua mới lựa bài thi này ra, nhưng bây giờ thấy mặt hoàng đế đỏ như đít khỉ, trong lòng lại không chắc chắn, liền nói khẽ:
- Vi thần cho rằng, bên trong cái ngôn từ đạm mạc mênh mông của bài thi này có chứa một tác phong chính trực, tuy người này nói có hơi bất công, nhưng là thí sinh duy nhất thể hiện ‘hết sức nói thẳng can gián’, một trái tim khẩn thiết can gián bệ hạ, cho nên thần nghĩ đáng chấm bậc ba, biểu thị tấm lòng cầu người can gián của bệ hạ!
Dừng một lát nói:
- Nhưng Đường Trung Thừa không tán thành, cho rằng người này đang nói xấu vua, thẳng thừng gạt sang không chọn.
Tuy nhìn qua là để cho hoàng đế chọn, nhưng Triệu Trinh có thể nói “Không thể lấy tên này, gã mắng ta quá thảm” sao? Đem mặt mũi hoàng đế đặt đâu?
Nhưng nếu chọn bài thi này, tức phải phát ra thiên hạ, mấy chục năm mình cố gắng tạo dựng thanh danh chẳng phải liền huỷ trong chốc lát?
Nghĩ vậy, Triệu Trinh không khỏi tự giễu, ta quả đúng là người mua danh cầu lợi . . .
- Vi thần muốn chúc mừng bệ hạ.
Tư Mã Quang thấy hoàng đế chậm chạp không chịu mở miệng, liền chắp tay trầm giọng nói:
- Năm xưa Đường Thái Tông có Nguỵ Chinh mới thành Trinh Quán (niên hiệu vua Đường Thái Tông), bây giờ bệ hạ vì con cháu, tìm được Nguỵ Chinh của Đại Tống!
Được Tư Mã Quang nhắc nhở, Triệu Trinh mới nhớ tói nguyện vọng của mình, sắc mặt có chút dịu đi nói:
- Đúng vậy, quả nhân mở khoa thi này, không phải hi vọng có người hết sức nói thẳng can gián sao? Bây giờ đã có người như thế, quả nhân không phải tìm được “rồng Diệp Công thích” rồi!
Nói xong khoát tay:
- Nhưng ngươi cùng Đường Giới tính lại, xem xem phù hợp bậc mấy?
- Vâng.
Tư Mã Quang cầm lấy bài thi lui ra, không khỏi âm thầm cảm thán, bệ hạ thật sự rất có hàm dưỡng, nếu đổi một vị hoàng đế khác, chắc Tô Triệt cũng đã bị tống vào ngục. . . Vị hoàng đế này thật tốt, không hề tức giận.
Có đại sư chào hàng Tô Tuân, tất nhiên Tư Mã Quang không xa lạ gì văn phong của anh em Tô gia, so với ngôn từ bừa bãi, khách quan, không quá câu nệ của Đại Tô, y lại thích cái ngôn từ hơi kém một chút nhưng có phong thái quân tử của Tiểu Tô, hơn nữa cách làm người của Tiểu Tô cũng giống như y. Tư Mã Quang thầm nghĩ, nếu như chính mình tham gia cuộc thi lần này..., cũng sẽ trả lời như thế.
Trở lại Điện Sùng Chính, Tư Mã Quang bàn bạc với Đường Giới, hai người đều lùi một bước, vì vậy đổi thành bậc bốn.
Đã sắp xếp được thứ tự, khoa này lấy sáu người. Nhưng khi ghi bảng vàng, quan sơ khảo Hồ Túc không làm. Y kiên trì cho rằng Tô Triệt trả lời không đúng đề, đến nỗi làm loạn cả thời thịnh của hoàng thượng, tận lực yêu cầu huỷ bỏ kết quả!
Theo như quy định, nếu quan sơ khảo không kí tên, bài thi sẽ không được chấp nhận, không được chấp nhận thì không được ghi tên lên bảng vàng. Vì thế, Tư Mã Quang đã tranh luận kịch liệt với Hồ Túc. Hồ Túc là quan Tu khởi cư chú tiền nhiệm, tự cho mình là tiền bối, căn bản không cần xem mặt, cuối cùng không có biện pháp, chỉ có thể bàn giao lên trên.
Triệu Trinh tự đánh mặt mình một lần là đủ rồi, sẽ không có lần thứ hai, nếu không cũng có chút hèn. Vì vậy y lệnh cho các mệnh quan triều đình xác định thứ tự người này.
Kết quả ý kiến của Trung Xu là tùy theo quan sơ khảo, cũng chính là ý kiến của Hồ Túc - truất bỏ bài thi này…
Biết Trung Xu không đồng ý xếp bậc cho Tô Triệt, Tư Mã Quang lập tức thượng tấu nói:
“Thần thiết nghĩ quốc gia tổ chức thi đại khoa là muốn tìm được những người tri thức có tài trí sâu rộng, không dùng văn từ hoa mỹ, là bậc hiền đức với kiến thức uyên bác. Thần không dám nói về văn từ của thí sinh ‘Chiên’, nhưng thần thấy người này không hề băn khoăn mà chỉ ra chỗ sai chỗ dở của triều đình, là người nói thẳng nhất trong tất cả các thí sinh. Nay nếu dùng lý do đấy mà đánh giá, thần sợ mọi người trong thiên hạ đều nghĩ triều đình tổ chức một khoa thi nói thẳng can gián chỉ để làm bộ. Còn thí sinh ‘Chiên’ bị truất bài thi chỉ vì nói thẳng, nếu từ nay về sau khắp nơi khi nói đều sợ phạm huý thì thật sự làm tổn hại đến phẩm hạnh và sự công minh của thánh thượng!”
Tấu chương của Tư Mã Quang dâng lên, Hồ Túc cũng dâng thư với từ ngữ ác liệt, nói người này mượn cớ công kích hoàng thượng, công kích tình hình chính trị bây giờ mà nâng chính mình lên, rõ ràng có mưu đồ mua danh chuộc tiếng, những người như thế không chém đầu là còn may, tất nhiên càng không thể trúng tuyển.
Sự việc còn kinh động đến cả Trung Xu, Hàn tướng công, Tằng tướng công cũng ủng hộ Hồ Túc, cho rằng không thể phá lệ, nếu không ngày sau sẽ ‘có nhiều tội đồ nói xấu quân thượng, mượn núi Chung Nam làm đường tắt lên làm quan*’!
(*Một tích của Trung Quốc, thời Đường, một người vì muốn làm quan nên giả vờ làm ẩn sĩ dọn đến ở núi Chung Nam gần kinh đô Trường An, sau này đã lừa được vua mời ra làm quan.)
Nhưng người ủng hộ Tư Mã Quang cũng không ít, Phú tướng công, Âu Dương Tu, Bao Chửng, đều cho rằng trăm năm qua vì việc “nói không bị trị tội” mới tạo thành tính nói thẳng can gián của sĩ phu. Hôm nay lấy lý do đó mà truất bài của thí sinh, sợ rằng sẽ làm tổn hại thánh đức!
Vì thế hai phe không ngừng tranh chấp, theo lệ cũ của triều đình Bắc Tống, khi một phe không thể thuyết phục một phe khác, cũng không bị một phe khác thuyết phục, thì đành phải đá quả bóng sang chân Triệu Trinh.
Triệu Trinh đành phải ngự phê: “Cầu nói thẳng mà lại chối bỏ, thiên hạ xem ta ra gì!’
Vì vậy bài thi được xếp vào bậc bốn.
Nhưng tranh đấu vẫn tiếp tục, Tri Chế Cáo Vương An Thạch đã lên tiếng. Cho dù người này thi đậu, cũng đừng mơ lấy được chiếu thư bổ nhiệm trong tay y!
Trong cái cảnh ồn ào này, vua và dân vô cùng tò mò muốn biết cái người trẻ tuổi dám lên án cả thiên hạ này là ai, nhất thời, không còn ai chú ý đến bốn thí sinh bậc bốn còn lại, ngay cả danh tiếng của thí sinh bậc ba thứ hai trong vòng trăm năm qua cũng bị y chiếm hết.
Dưới sự chú ý của hơn vạn người, tên của thí sinh này cuối cùng cũng được bộc lộ, thì ra vị tiên sinh không sợ chết này họ Tô tên Triệt tự Tử Do!
Mà thí sinh được xếp bậc ba chính là anh trai ruột của y, Tô Thức, bốn người còn lại là Vương Giới, Trần Thung, Đặng Oản, Lã Huệ Khanh. . . Trong đình hoa viên Trần phủ, Trần Khác và Tô Triệt ngồi đối diện nhau.
Anh em Tô gia đều đậu cao, có thể nói là giai thoại thiên cổ, thật đáng mừng, nhưng trên mặt hai người lúc này lại không hề có nửa phần vui mừng.
- Dù nói gì đi nữa, trong sáu người được xếp bậc thì Gia Hữu Học Xã chúng ta có năm người, tóm lại là toàn thắng.
Tô Triệt mặc một chiếc nho bào màu xanh da trời, sắc mặt không được tốt lắm.
- Đúng vậy
Trần Khác gật đầu cười nói:
- Khoa này đối với chúng ta là một bước tiến.
Nói xong nhẹ giọng hỏi:
- Bây giờ nhạc phụ thế nào?
- Cha ta tức điên lên.
Tô Triệt cười khổ nói:
- Ta ở nhờ nhà ngươi mấy ngày, đợi ông ấy hết giận rồi trở về.
- Cứ thoải mái.
Trần Khác gật đầu, nói khẽ:
- Việc lần này khá ồn ào nhưng thật ra là có người mượn cớ gây chuyện. Ngươi xem đi, sự việc càng về sau càng lớn, ngươi phải cố chịu qua khoảng thời gian này.
- Hắc. . .
Tô Triệt xoa mặt nói:
- Ta không vào địa ngục, ai vào địa ngục?
- Cũng không cần quá lo lắng. Ngươi chỉ cần tĩnh tâm đọc sách, không phải để ý chuyện bên ngoài, không học người bình thường tìm phiền phức.
Trần Khác cười nói:
- Chuyện còn lại cứ giao cho ta đi.
- Ừm.
Tô Triệt gật đầu, cười nói:
- Hi vọng ta ‘chết’ có chút giá trị.
- Rất có giá trị!
Trần Khác gật đầu quả quyết, nói:
- Chúng ta rất muốn cảm ơn ngươi!
Hiện tại Triệu Tông Tích còn ở Quảng Tây. Trần Khác ở kinh thành bước đi rất khó, mặc kệ là ai nhìn vào, bọn họ sẽ không chủ động khiêu khích trước.
Nhưng nếu biết không thể tránh được tranh đấu, hơn nữa đối phương nhất định sẽ chủ động gây khó dễ, vậy biện pháp tốt nhất chính là ra tay trước để chiếm ưu thế. Tại nơi mà mình chiếm ưu thế, đánh một trận chiến mà mình chắc thắng!
Lúc trước sau khi cân nhắc lợi và hại, Trần Khác đồng ý phương châm nói thẳng can gián của Tô Triệt. Hắn biết rõ tại thời điểm nhạy cảm như vậy, với thân phận của Tô Triệt ở trong thi Ngự làm sách luận nói thẳng quân thượng, công kích tình hình chính trị bấy giờ, tất nhiên đối phương cho rằng đây là cơ hội tốt trời cho, sẽ đuổi đánh tới cùng!
Không hi sinh một đứa trẻ thì không bắt được sói. Sở dĩ Trần Khác dám lấy cậu em vợ làm mồi là vì có Tư Mã Quang cung cấp tình báo quý giá, hắn biết rõ tâm cảnh của Triệu Trinh bị đan xen bởi trách nhiệm cùng tự trách nên mới ra đề sách như chiếu thư nhận tội.
Nhưng hai vào hai ra của Trung Xu lại công kích khiến đảng Triệu Tông Thực lâm vào sợ hãi cùng phẫn nộ, bọn họ muốn làm gì đó thật gấp để thay đổi tình trạng suy sụp này, đồng thời chứng minh với người trong thiên hạ rằng mọi thứ vẫn được nắm giữ!
Cho nên bọn họ không có tâm tư đâu mà suy nghĩ đến nỗi khổ tâm của Triệu Trinh, bọn họ chỉ thấy Tô Triệt là cậu em vợ Trần Khác, cho rằng bài luận của Tô Triệt là ý của đảng Triệu Tông Tích, tụ tập những người bất mãn về triều chính, không có được lợi ích từ Triệu Tông Thực. Cho nên họ đến tranh luận, giống như một con bò đực thấy vải đỏ liền hung dữ đâm vào!
Bọn họ hoàn toàn không để ý câu ngự phê của Triệu Trinh, ‘cầu nói thẳng mà lại chối bỏ, thiên hạ xem ta ra gì’, cho rằng hoàng đế chỉ nói mấy câu lấy mặt mũi. Họ không biết, Triệu Trinh đã quyết tâm thay đổi cái không khí sống được ngày nào hay ngày ấy của Đại Tống suốt hai mươi năm qua, vì vị vua tương lai thúc đẩy cải cách, trải phẳng đường.
Trong tình huống này, lưu lại Tô Triệt không phải vì vấn đề cá nhân của Triệu Trinh, mà nó quan hệ đến hướng đi của quốc sách.
Tiếp tục sống tạm hay bắt đầu tỉnh lại? Cho dù Triệu Trinh có mềm yếu cũng không thể giống xe tuột xích ngay từ đầu được. Nên dù khó chịu, Triệu Trinh cũng kiên định che chở Tô Triệt.
Dưới tình hình như thế, khó tránh khỏi Triệu Trinh nghĩ việc bọn họ không buông tha một nhân vật nhỏ như Tô Triệt là để bảo vệ dấu hiệu ‘hưng thịnh’ giả tạo, ngăn cản chính mình trải đường cho cải cách.
Chỉ cần một ngày bọn Triệu Tông Thực chưa ý thức đến điểm này thì sẽ tiếp tục tấn công Tô Triệt. Bọn họ không biết đối thủ của họ đã theo phe Trần Khác, lặng lẽ biến thành hoàng đế Triệu Trinh!
Bọn họ cho rằng công kích cờ hiệu giữ gìn tôn nghiêm hoàng đế thì có thể đuổi đánh tới cùng, nhưng lại quên chính mình đã khiêu khích quyền uy hoàng đế trước. Tô Triệt là người quan gia ngự phê, bọn họ lại nhất định phải làm Tô Triệt xong đời, đây không phải là bỏ qua quyền uy của quan gia thì là gì?
Trần Khác thi triển ‘vật đổi sao dời’ là năng lực từ trước tới nay hắn đắc ý nhất.
Đương nhiên chỉ có một mình hắn thì không thể hoàn thành chiến dịch này được. Ngoại trừ Tô Triệt với tư cách mồi nhử, Tư Mã Quang người được hoàng đế tin cậy có tác dụng cực kỳ quan trọng.
Không có tin tức Tư Mã Quang đưa thì Trần Khác không thể lập kế hoạch; không có quan Tường Định Tư Mã Quang, Tô Triệt sẽ không được tuyển chọn; không có Tư Mã Quang dùng từ ngữ khéo léo giảng giải cho hoàng đế, Triệu Trinh sẽ không xem Tô Triệt thành người mở rộng tiêu chí ngôn luận và cầu biến ích lợi cho mình.
Có thể thấy năm đó kết giao Tư Mã Quang là một nước cờ trọng yếu như thế nào. . . Theo như quy chế, sau khi tuyển chọn Chế Khoa liền trao quan, không được kéo dài.
Hơn nữa cấp bậc nào được chức quan gì đều đã định sẵn. Ý chỉ truyền xuống rất nhanh, Tô Thức được làm Bình sự Đại Lý, Phán quan thiêm thư phủ Phượng Tường. Năm người Tô Triệt thì làm Bí thư tỉnh Hiệu thư lang, đẩy Tô Triệt đến Thương Châu làm quan, bốn người Vương Giới thì ở lại Biện Kinh chờ phân công.
Bởi vì quan viên triều Tống nhất định phải có kinh nghiệm địa phương thì mới có thể nhậm chức ở triều đình. Tô Thức và Tô Triệt thiếu kinh nghiệm này nên cần phải bổ sung, ý muốn bảo vệ Tô Triệt đứng phía trước chịu trận rất rõ ràng.
Chiếu thư của năm người khác truyền xuống rất nhanh nhưng đến Tô Triệt lại bị ngăn chặn, Tri Chế Cáo Vương An Thạch cho là lão bao che Tể tướng, chủ định tấn công người, không chịu viết.
Hoàng đế tự mình hạ lệnh bổ nhiệm lại bị chính thư ký ngăn cản, ở triều đại khác là chuyện không tưởng nhưng ở triều Tống lại quá quen thuộc.
Bởi vì ngày trước lúc Triệu Khuông Dận và Triệu Phổ đặt ra chế độ, không chỉ tập trung quản thúc văn võ, cũng nghĩ về việc xuất hiện một vị hôn quân làm chủ. Để tránh giang sơn của mình bị con cháu chà đạp, Triệu Khuông Dận dùng hoàng quyền đặt ra hạn chế nặng nề, đại biểu lớn nhất là giao cho hai Chế Quan quyền lực “phong hoàn từ đầu”.
Cái gọi là “từ đầu” chính là thủ dụ của hoàng đế. Trên lý luận, “từ đầu” không có hiệu lực về pháp luật, chỉ có hai Chế Quan từ “từ đầu” ghi thành chiếu thư chính thức mới cóhiệu lực. Nếu hai Chế Quan cảm thấy ý chỉ không ổn, họ có quyền đem “từ đầu” phong trả, không ghi chiếu thư, để cho lời nói của hoàng đế biến thành không khí.
Tất nhiên không phải ai cũng có dũng khí dùng cái quyền phong trả này, đây là gọt mặt mũi hoàng đế, vả miệng hoàng đế. Cái quyền lực này chỉ có ở trong tay khúc xương cứng Vương An Thạch mới có thể phát huy tác dụng của nó.
Chỉ là chẳng ai ngờ Vương An Thạch lại tiêu diệt Tô Triệt. Mọi người đều biết quan hệ giữa con trai y với Nhị Tô và Trần Khác không tệ, cộng thêm người đảng Tân Học luôn tạo thế cho Triệu Tông Tích, rất nhiều người đều suy đoán có phải là Vương An Thạch đã trở thành người bên Triệu Tông Tích?
Ai có thể ngờ y lại đập chết Tô Triệt không chút lưu tình. Đây cuối cùng là nội chiến hay thật ra y không hề kết đảng?
Nhìn “từ đầu” bị trả về, Triệu Trinh cười nói với Tư Mã Quang:
- Người bạn tốt của ngươi thật đúng là không cho ngươi mặt mũi.
- Vương Giới Phủ là quân tử đạo đức...
Tư Mã Quang lộ ra một nụ cười khổ nói:
- Trong mắt y, dù là nhân tình thể diện, nhưng so với pháp luật triều đình thì không đáng nhắc tới.
- Y là quân tử đạo đức, vậy ngươi là gì?
Triệu Trinh cười thưởng thức, hỏi.
- Vi thần cũng luôn lấy tiêu chuẩn quân tử đạo đức...
Trí tuệ của Tư Mã Quang đủ cho y đối phó bất cứ điều khó dễ nào:
- Để yêu cầu chính mình.
- Vậy thì lạ thật...
Triệu Trinh cười nói:
- Hai quân tử đạo đức tại sao lại đấu đá lẫn nhau?
- Điều này rất bình thường.
Tư Mã Quang thản nhiên nói:
- Chính kiến bất đồng mà thôi.
- Ha ha.
Triệu Trinh cười đầy ẩn ý nói:
- Rất nhiều người còn nghĩ các ngươi chung một đảng đây này.
- Đạo của quân tử, bầy mà không đảng.
Tư Mã Quang nghiêm mặt nói:
- Nhìn lòng người lâu ngày, lời đồn sẽ tự sụp đổ!
- Không sai.
Triệu Trinh thoả mãn gật đầu nói:
- Quả nhân đối với Quân Thực ngươi vẫn rất yên tâm.
Nói xong cười tiếp:
- Còn Vương Giới Phủ, tuy gan lớn lại bướng bỉnh, nhưng hẳn y cũng không dám loạn pháp làm bậy...
- Nghe nói Vương An Thạch từ chối viết chế từ?
Trong phòng Chính Sự Đường Tập Hiền Tướng, Hàn Kỳ đang hỏi vị Tri Chế Cáo Thẩm Cấu.
Thẩm Cấu là Bảng Nhãn năm Hoàng Hữu thứ nhất. Y nhỏ hơn Vương An Thạch năm tuổi, con đường làm quan cũng tươi sáng hơn rất nhiều. Thẩm Cấu nghe thấy vậy liền cung kính nói:
- Vâng, “từ đầu” đã phong trả Hoàng thượng rồi.
- Có chút thú vị.
Trong suy nghĩ của những người không rõ chân tướng, Hàn Kỳ những năm gần đây dường như giấu tài, vô thanh vô tức. Kỳ thực ở trong Chính Sự Đường, ông ta vẫn giữ được vị thế vững chắc.
Có lẽ sống trong quân đội quá lâu, chịu ảnh hưởng từ tính cách thô dã của binh lính, cho nên dù đã lên làm chức Tể tướng, Hàn Kỳ nói chuyện vẫn tràn đầy ngữ điệu của binh nghiệp. Ngay cả trước mặt cấp trên của ông ta là Thủ tướng Phú Bật cũng không có ý kiềm chế.
Có một lần ở trong Chính Sự Đường, hai người vì một việc mà tranh cãi không dứt. Theo lý thuyết Phú Bật là thượng cấp, ngươi và thượng cấp tranh chấp, bản thân đã là sai, nhưng Hàn Kỳ lại không cho là như vậy. Tranh cãi đến đỉnh điểm, đột nhiên ông ta thốt ra một câu:
- Lải nhải điếc cả tai!
Phú Bật ngay lập tức thay đổi sắc mặt. Những từ này chỉ dùng cho phố phường cãi nhau, người có học sẽ không nói, vậy mà lại xuất hiện trong miệng của đường đường Tể tướng Đại Tống. Như vậy chính phủ cao nhất của quốc gia chả phải thành cái chợ sao? Dù Phú tướng công là người giỏi kiềm chế cũng phải tức giận đến đỏ mặt, quát một tiếng:
- Ngươi vừa nói cái gì?
Hàn Kỳ chỉ bĩu môi, không giải thích thêm…
Kỳ thực, những người quen biết Hàn Kỳ đều biết rằng, khi Hàn tướng công ở Xu Mật Viện không phải là người như vậy. Khi đó ông ta thanh cao giống như chim bay trên trời, băng tuyết trên đỉnh núi, làm người còn quân tử hơn cả Phú Bật. Chỉ khi chuyển tới Đông phủ mới bắt đầu bị lây nhiễm tính cách của quân đội.
Tú tài gặp binh, có lý nhưng không nói ra được. Có lẽ Hàn tướng công là rơi vào trong trường hợp này.
……
Hiện tại, Hàn tướng công đang ngồi ở sau bàn làm việc, khoanh tay híp mắt nói:
- Ngươi cảm thấy thế nào?
Thẩm Cấu cung kính nói:
- Vương Giới Phủ làm người bướng bỉnh, đã nhận thức đúng cái gì, khó mà có thể thay đổi.
- Hừ…
Hàn Kỳ cười lạnh nói:
- Ngươi thực sự tin rằng, những việc mà con trai y làm không có liên quan gì tới y sao?
- Con của y đã làm cái gì?
Thẩm Cấu sửng sốt hỏi.
- Không có gì.
Hàn Kỳ mới ý thức được đối phương cũng không hiểu rõ tình hình. Chỉ lắc đầu, trầm giọng nói:
- Vương An Thạch không đơn giản như ngươi nghĩ. Lý do y không chịu soạn từ là vì Tô Triệt Bao che Tể tướng, công kích nhân chủ’. Nói xong thở hắt:
- Sách luận của tên kia ta cũng đã nhìn qua. Y nói ‘Tể tướng không đủ dùng, muốn có Lâu Sư Đức, nên dùng Hách Xử Tuấn’ (*). Sao có thể nói là bao che cho Tể tướng đây?
(*) Lâu Sư Đức và Hách Xử Tuấn đều là đại thần thời Đường, làm quan thanh liêm, qua đời trong sự yên bình, vì thế hai người luôn được nhắc tên cùng với nhau.
- Đúng vậy.
Thẩm Cấu chưa từng nghĩ qua vấn đề này, nghe vậy kỳ quái hói:
- Vì sao y phải nói như vậy?
- Một là thể hiện bản thân là người không thuộc về đảng phái nào.
Hàn Kỳ lạnh lùng nói:
- Hai là, đơn giản muốn kéo lão phu xuống nước.
Thẩm Cấu không phải là kẻ ngu dốt, nghe vậy liền hiểu ý tứ của Hàn tướng công. Phong trả “từ đầu” chỉ là bắt đầu, không có khả năng cứ như vậy bị bác bỏ, nếu không quyền uy của Hoàng đế ở nơi nào? Gặp phải tình huống này, nên đến lượt Chính Sự Đường phối hợp.
Mà cách làm của Vương An Thạch là để cho Chính Sự Đường không thể che chở Tô Triệt. Bằng không song phương trở thành đồng mưu, đem nguyên nhân loạn trong giặc ngoài hết thảy đổ lên người Hoàng đế.
Dựa vào tính cách của Phú tướng công, tuyệt đối sẽ không đáp ứng, cũng sẽ không gây ra loại chuyện thị phi như vậy. Cuối cùng vẫn phải do Hàn tướng công đến xử lý.
- Cũng may tướng công phản đối Tô Triệt trúng tuyển, đây là điều thiên hạ đều biết.
Thẩm Cấu hạ giọng nói:
- Vừa lúc thuận nước đẩy thuyền…
- Trong này có trá…
Hàn Kỳ nhíu mày. Trải qua bao nhiêu năm sống trong quan trường chìm nổi, khiến cho ông ta dự cảm được nguy hiểm. Đứng dậy thong thả đi vài bước trong phòng, Hàn Kỳ dùng một tay đấm xuống mặt bàn, căm hận nói:
- Chu Du đánh Hoàng Cái!
- A?
Thẩm Cấu cả kinh hỏi:
- Vì sao tướng công nói ra lời ấy?
- Hừ…
Hàn Kỳ hừ lạnh một tiếng nói:
- Lão phu xem qua các bài văn của Tô Triệt, cảm thấy người này rất bảo thủ. Trong Tam Tô, người này là kém nhất, vậy mà y lại viết ra một bài sách luận gan lớn trùm trời như thế. Ngươi cảm thấy có kỳ quái hay không?
- Rất kỳ quái.
- Tư Mã Quang là người theo tư tưởng nói nhiều, làm nhiều không bằng yên lặng, lại đột nhiên như bị ma ám một mực cổ vũ Tô Triệt?
Hàn Kỳ càng nói, sắc mặt càng khó coi:
- Còn có chuyện Vương An Thạch bất ngờ phong trả “từ đầu”, ngươi không cảm thấy việc này từ đầu đến cuối đều có vẻ quỷ dị sao?
- Tướng công nói như vậy, hạ quan cũng cảm thấy kỳ lạ!
- Đây rõ ràng là bọn họ đang đóng kịch, dùng khổ nhục kế để bẫy chúng ta.
Hàn Kỳ căm hận nói.
- Bọn họ tính toán làm thế nào?
Thẩm Cấu vẫn khó hiểu hỏi.
- Dụ chúng ta công kích Tô Triệt!
- Một Tô Triệt địa vị nhỏ nhoi, dù chúng ta giết y thì có làm sao?
- Chúng ta đã không chú ý tới Quan gia, bài sách luận này là có thâm ý.
Hàn Kỳ đã nghĩ thông suốt, sắc mặt âm trầm nói:
- Sách luận của Tô Triệt, lúc đầu quan gia cũng không coi trọng, nhưng người của chúng ta vừa đánh hội đồng Tô Triệt, quan gia liền coi cuốn sách luận đó đại biểu cho ý kiến của ngài. Chúng ta đả kích Tô Triệt, chính là chúng ta đang đả kích quan gia.
- A….
Thẩm Cấu cũng thay đổi sắc mặt nói:
- Nói như vậy, chúng ta đã trúng gian kế của bọn họ?
Không khỏi may mắn nói:
- Cũng may tướng công đoán ra kịp thời, khiến cho âm mưu của bọn họ không thực hiện được!
- Có thể âm mưu này đã thực hiện được rồi…
Hàn Kỳ âm trầm nói:
- Năm nay là năm thành lập đảng của Thái tử. Dưới tình hình rối loạn như hiện tại, một khi khiến cho quan gia có ấn tượng xấu thì sẽ rất khó xoay chuyển!
- Không đến mức như vậy đâu, phải không tướng công?
Thẩm Cấu run giọng nói. Vậy còn tiền đồ của mình….
- Đương nhiên không đến mức như vậy.
Hàn Kỳ khinh miệt liếc y một cái, ngồi lại sau bàn làm việc:
- Y có kế Trương Lương, ta có kế qua cầu. Yên tâm, có lão phu ở đây, bọn họ cũng không lật trời được.
- Đúng vậy. Có tướng công ở đây, chúng ta còn phải lo lắng sao?
Thẩm Cấu cười nói.
- Nhưng cũng không thể khinh thường.
Hàn Kỳ nhìn y nói:
- Nếu Vương An Thạch không chịu viết chiếu, vậy ngươi đến viết thay.
- Mong tướng công chỉ bảo.
Trong phòng của Tể tướng, giấy tờ bút mực đều chuẩn bị đầy đủ, Thẩm Cấu lập tức tiến vào trạng thái công tác.
- Vẫn có câu yêu cho roi cho vọt, tên Tô Triệt này mặc dù có chút cuồng ngạo, nhưng cũng là người yêu nước. Quả nhân tha thứ cho vị cuồng nhân trực tính này, coi như một việc thiện.
Hàn Kỳ suy nghĩ một chút, chậm rãi nói.
Trong căn phòng, Thẩm Cấu dùng chế từ viết theo lời của Hàn Kỳ. Viết xong, y đưa cho Hàn Kỳ duyệt: “Trẫm phụng mệnh tiên thánh, thống trị thiên hạ. Mặc dù ngủ quên trong cảnh thái bình, không dám hưởng lạc, thường lo sợ mình có điều sai quấy làm hỏng cơ nghiệp của tổ tiên.. Việc triều chính không hề bỏ bê, luôn lắng nghe ý kiến của các đại thần. Nay có Tô Triệt thẳng thắn khuyên gian, tuy tài văn chương chưa giỏi lắm, chưa nghiên cứu kỹ, nhưng nể tình y có tấm lòng ái quân. Trẫm viết ra những lời này để tỏ rõ sự khen ngợi y.”
- Không tồi.
Hàn Kỳ hài lòng vuốt cằm nói:
- Chính là ý này.
Quyển chiếu này được viết vô cùng khéo léo. Đầu tiên là nói về lời phê bình của Tô Triệt hướng tới quan gia, nhưng quan gia vẫn tỏ thái độ khoan dung rộng lượng, đồng thời phê bình sách luận của Tô Triệt ‘Tài văn chương chưa được, chưa nghiên cứu kỹ’ nhằm trấn an đám người Hồ Túc phản đối Tô Triệt. Kế đến lại nhằm vào lời của Vương An Thạch là ‘che chở Tể tướng, chuyên chính nhân chủ’, khen ngợi Tô Triệt ‘Biết ái quân’, dĩ nhiên lời nói ‘che chở Tể tướng’ cũng không tồn tại nữa.
Quyển cáo văn này vừa dâng lên, Hàn Kỳ lại nói chuyện với đám phe cánh, khiến cho âm thanh chê trách Tô Triệt mới dần dần lắng xuống.
Nhưng trải qua những lời chê trách nặng nề đến thế, mà Tô Triệt cứ như vậy vui vẻ lĩnh mệnh nhậm chức thì coi như cái danh ‘Chửi chủ cầu tiến’ là xác định rồi. Bởi vậy y lấy cớ phụ thân đang sửa sang lễ thư, huynh trưởng thì đi làm quan ở Phượng Tường, gia tộc không có ai quản lý, liền xin lưu lại kinh dưỡng thân, từ chối nhậm chức.
Triều đình liên tục ba lần hạ chỉ, y đều cự tuyệt, không tiếp nhận bất cứ bổ nhiệm gì. Ai khuyên, Tô Triệt cũng không nghe, vì vậy họ đành mặc kệ y.
Tô Triệt làm vậy là để trốn tránh danh xấu là chửi chủ, làm như vậy cũng có thể nói là cao minh. Ai ngờ lại lại làm cho Tô Lão Tuyền rất hận Vương An Thạch, ông ta cho rằng là do họ Vương ghen tị Tô gia quấy phá nên mới chặt đứt con đường làm quan của con ông ta. Từ ngày đó trở đi, liền nổi lên ý định trả thù, đương nhiên đây là nói sau.
Bất kể như thế nào, trận phong ba Chế khoa này, dưới sự chủ động của Hàn tướng công đã dần dần sắp xếp ổn thỏa…
Đối với việc này, Trần Khác cảm thấy cực kỳ đáng tiếc. Nhưng ngẫm lại, đối thủ là Hàn Kỳ nổi danh đã lâu, xem như hai bên cũng cân sức.
……..
Đảo mắt tới tháng năm, sứ giả của Lý Lượng Tộ tới kinh thành, dâng lên một phong thư tỏ vẻ khiêm tốn ăn năn. Lý Lượng Tộ còn thề thốt, nguyện ý không xâm lấn biên giới nhà Tống, từ nay về sau hai nước sống chung hòa thuận.
Triệu Trinh nhận được tin tức này rất là cao hứng, cười nói với Trần Khác:
- Quả nhiên như khanh sở liệu.
Hiện tại Trần Khác xem như là quan cố vấn., có thể cố vấn cho hoàng đế, tham dự việc quân cơ bất cứ lúc nào.
Vì thế Hoàng thượng phái Trần Khác đàm phán về việc biên giới giữa Tây Hạ và Đại Tống, hắn dành toàn bộ mùa hè đều ở biên giới cùng người Đảng Hạng tranh giành từng mẩu đất. Ở trên bàn đàm phán, hắn kiên quyết từ chối các yêu cầu quá đáng của Tây Hạ. Trải qua một thời gian dài đàm phán buồn chán và gian khổ, hai tháng sau song phương rốt cuộc ký kết điều khoản. Một là, song phương dựa vào cột mốc biên giới để phân chia lãnh thổ hai nước, quân dân của hai nước không được đi qua cột mốc này để cày ruộng hay trồng trọt.
Hai là, ở biên cảnh của triều Tống có thiết lập ba mươi ba tòa thành trại không được sửa chữa lại, Tây Hạ không được khai khẩn ở lãnh thổ bờ tây sông của Đại Tống. Đất khong trồng trọt thì cho phép dân chúng song phương tới đây chặt cây, chăn thả, nhưng không được xây nhà. Kẻ nào trái với quy định, sẽ bị quan phủ trị tội.
Ba là, lính tuần tra của song phương không được mang theo vũ khí. Mỗi lần tuần tra, nhân số không được vượt quá ba mươi người. Nếu có người vi phạm thì coi như xúc phạm hiệp ước, chấm dứt giao thương và ban thưởng .
Thoạt nhìn, triều Tống dường như không chiếm được tiện nghi gì, nhưng nhóm quân thần của Biện Kinh cảm thấy như vậy là đủ. Bọn họ hiểu rõ rằng người Tây Hạ thích chiếm tiện nghi, Trần Khác làm được như vậy coi như là rất giỏi rồi.
Quân chủ của song phương đối với hiệp ước này không hề có dị nghị, vì thế hai bên ký tân ước. Cuối cùng hai nước kết thúc chiến tranh biên giới kéo dài liên tục mấy năm, hòa bình trở lại.
Ở thời điểm Trần Khác khua môi múa mép đàm phán với người Tây Hạ, sứ giả của người Ấp La cũng đi tới Biện Kinh, còn mang theo rất nhiều lễ vật quý hiếm.
Lúc trước đã nói qua, Triệu Tông Tích thành lập một mặt trận dân tộc thống nhất ở châu Tây Bình, khiến cho người Ấp La không thể tiếp tục tùy ý xâm lấn, đành phải hướng Đại Tống cúi đầu xưng thần.
Quốc vương của Ấp La là Lý Nhất Tồn, phái em trai của mình dẫn theo đoàn sứ giả tới kinh thành Biện Lương đệ trình quốc thư, đồng thời mang theo các lễ vật trân quý tới hiến dâng. Ấp La là vùng thâm sơn cùng cốc, tưởng như đồ vật mang tới không đủ cho Thiên triều vừa mắt, nhưng lần này lễ vật mà bọn họ mang tới lại hấp dẫn rất nhiều.
Không ngờ bọn họ mang tới lại là một đôi kỳ lân.
Đây chính là thánh thú kỳ lân, nghe nói chỉ có ở thời thịnh thế có thánh thiên tử tại triều thì mới xuất hiện!
Đây là dấu hiệu trời ban điềm lành, là đại sự của triều Tống. Dân chúng Đại Tống nghe xong tin tức này đều rất là hưng phấn, cả ngày nhìn bức vẽ kỳ lân, hiện tại có thể nhìn thấy kỳ lân bằng xương bằng thịt rồi.
Quan gia cũng có chút hưng phấn. Tâm tình gần đây của lão rất là kém, nếu có điềm lành an ủi y một chút thì đúng là việc tốt.
Đương nhiên làm con của Chân Tông, lão vẫn có rất cảnh giác với cái gọi là điềm lành. E sợ dẫm phải vết xe đổ của cha, Triệu Trinh phái người tới xác nhận trước, xem đồ vật kia thực là kỳ lân hay chỉ là một loại đồ chơi gì đó.
Vì thế, vài vị quan viên nổi tiếng bác học đều được phái Dương Châu, giả trang là quan viên Lễ Bộ tiếp đón sứ đoàn Ấp La, nhân cơ hội này cũng có thể nhìn thấy Kỳ lân trong truyền thuyết.
Chỉ thấy con vật kia có hình dáng như con trâu, trên mình có những điểm lấm tấm như nổi mụn, da rất dày, đầu to, còn có một cái sừng lớn trên đầu.
- Con này…
Bọn quan viên đều ngơ ngẩn cả người, không khỏi ngơ ngác nhìn nhau. Đây là con gì vậy? Trông không giống kỳ lân trong truyền thuyết!
Nhìn đôi mắt nhỏ như hạt đậu, cái đầu lại rất to, trông có vẻ ngu xuẩn, nào có nửa điểm giống thánh thú kỳ lân uy phong?
Nhưng nhóm người Ấp La này đều một mực chắc chắn đây là kỳ lân! Ngươi xem nó có bốn chân, cả thân như mặc giáp, quan trọng nhất còn có một cái sừng! Không phải là kỳ lân thì là con gì?
Kỳ lân tuy là thần thú, thấy đầu không thấy đuôi, nhưng ngay cả đứa trể ba tuổi đều biết rõ các đặc điểm này của nó. Mà con vật này có rất nhiều đặc điểm giống kỳ lân, chẳng lẽ kỳ lần lại có bộ dáng như thế này? Mọi người đều tỏ vẻ không tin tưởng cái điềm lành này lắm, nhưng mấy vị đại nhân cũng tìm không ra lý do phản bác, đành phải ậm ừ cho có lệ rồi trở về đóng cửa bàn bạc lại.
- Chư vị thấy thế nào?
Hồ Túc đứng đầu Hàn Lâm Học Sĩ hỏi.
- Ta chưa từng thấy con vật nào như vậy!
Một người quan viên hạ giọng nói:
- Đến cùng có phải hay không, thực sự nói không rõ ràng.
Mọi người đều nhìn y tỏ vẻ khinh thường. Quan gia phái ngươi tới đây làm gì? Không phải là xác định thật giả hay sao? Nếu không có kết luận, mọi người còn có mặt mũi gì trở về bẩm báo?
Chỉ là những vị quan viên này, tuy rằng đọc sách đã đọc nát, nhưng kiến thức thực tế đều rất là ít ỏi. Ngươi để bọn họ tới tìm hiểu, quả thực là làm khó bọn họ.
- Trong sách cổ miêu tả kỳ lân là như thế nào?
Bất kể thế nào cũng phải đưa ra ý kiến, Hồ Túc hỏi.
- Sách cổ có ghi, Kỳ lân là con vật sinh sống ở Trung Quốc, có một sừng và da cực kỳ cứng rắn, đao thương không thể xuyên thủng.
Có người lập tức đáp.
- Cái này thì con vật kia cũng có.
Hồ Túc vuốt cằm nói:
- Còn gì nữa không?
- Trong ‘Nhĩ Nhã – Thích thú’, ‘Tuyết uyển – Biện vật’, ‘Thuyết văn’ viết là có phần giống hươu, ‘Tả truyện’ có viết kỳ lân có đuôi giống đuôi trâu.
Lập tức có người nói:
- Phần đuôi của dị thú mà hôm nay chúng ta thấy có điểm giống.
- Cổ văn còn nói kỳ lân có móng tròn như ngựa.
Lại có người nói:
- Cái này cũng giống.
- Sách cổ viết kỳ lân có màu vàng, có lân quang quanh thân.
Lại có người bổ sung:
- Điểm này cũng giống.
Lại có người đưa ra ý kiến phản đối:
- Trong “Luận hành – Giảng thụy” có nói: “Hán Vũ Đế lúc đi phía tây tuần thú, nhìn thấy một con kỳ lân màu trắng, có một sừng và năm ngón chân”. Một sừng thì giống, còn năm ngón chân thì lại không giống.
- Vậy con vật kia có móng tròn như ngựa, lại nói như thế nào?
Một người phản bác hỏi.
Nói đi nói lại, mọi người phát hiện không có sách nào phủ định con vật kia không phải kỳ lân. Ngược lại, càng khảo chứng càng phát hiện con vật kia rất không tầm thường, chẳng lẽ hình dạng của kỳ lân là như vậy? Chắc do ở Trung Nguyên đã lâu lắm rồi không có người nhìn thấy kỳ lân, cho nên tranh vẽ mới thay đổi như vậy.
Cuối cùng, ánh mắt của mọi người đều nhìn về phía Hồ Túc. Đến cùng là đúng hay không, còn phải do lãnh đạo định đoạt.
- Như vậy…
Hồ Túc trầm ngâm thật lâu sau mới khó khăn nói:
- Đi ngủ trước đã.
Mọi người suýt nữa ngã chổng vó xuống mặt đất, nhưng cũng đành phải giải tán.
Hô Túc hiện tại là Hàn Lâm Học Sĩ, tiến thêm một bước nữa thì có thể đứng vào hàng ngũ trung tâm triều đình, nhưng một bước này có khả năng vĩnh viễn cũng không thể bước qua. Ông ta biết rõ nếu nhìn sai con vật này thì sẽ trở thành trở cười thiên cổ, vậy thì giấc mộng Tể tướng của mình đến nghĩ cũng đừng nghĩ, cho nên ông ta không thể không cẩn thận.
Sáng sớm hôm sau, Hồ Túc lại tới chỗ sứ đoàn Ấp La muốn xác nhận lại một lần nữa. Ai ngờ chính gặp phải dị thú kia đang bài tiết, mùi phân hôi thối bốc lên ngút trời.
- Trời ơi, đây mà là kỳ lân sao?
Tâm tình của Hồ Túc nhất thời nguội lạnh hơn nửa. Sau khi trở về nghĩ trái nghĩ phải, cảm thấy vẫn là bảo thủ có vẻ tốt hơn, vì thế liền viết một bản tấu trình miêu tả chi tiết con vật khi tận mắt nhìn thấy, lại nói có sách, mách có chứng phân tích một phen. Cuối cùng đưa ra một cái kết luận nhìn như cẩn thận nghiêm túc, kỳ thực lại rất khéo đưa đẩy. Nói rằng con vật này có nhiều đặc điểm rất giống kỳ lân, nhưng bởi vì chưa từng có ai nhìn thấy qua kỳ lân, cho nên cũng không dám khẳng định con này là kỳ lân…
Bản tấu trình nhanh chóng được đưa lên Chính Sự Đường. Phú Bật và Hàn Kỳ là Tể tướng, việc gì cũng phải qua tay bọn họ trước. Chuyện này hiện tại chính là quốc gia đại sự, liên quan đến thể diện ngoại giao, đương nhiên muốn xen vào.
- Tên Hồ Túc này thật dối trá!
Nhìn thấy bản báo cáo của Hồ Túc, Hàn Kỳ tức giận nói:
- Nói đông nói tây, cuối cùng cũng không có kết luận gì!
- Ý kiến của ngươi thì sao?
Phú Bật hỏi.
Hàn Kỳ lắc đầu nói:
- Ta chỉ học đạo của thánh nhân.
Ngụ ý chính là ta không có học qua động vật học… thiếu chút nữa khiến cho Phú tướng công nghẹn chết. Cũng may Hàn Kỳ chuyển đề tài:
- Nếu có thể xác định đây là thụy thú (vật tốt lành). Như vậy một sừng thụy thú chỉ có hai loại, một là kỳ lân, hai là Thiên Lộc (thú cát tường trong truyền thuyết, một sừng, giống hươu nhưng lông dài), nhưng Thiên Lộc không có giáp, cho nên con vật này hẳn là kỳ lân.
- Nhưng bản tấu có nói, con vật này nhìn rất là ngu ngốc, phóng uế bừa bãi, không chịu nổi…
Phú Bật cau mày nói.
- Hình dung khờ ngốc, cũng có thể là đại trí giả ngu.
Hàn tướng công lơ đễnh nói:
- Về phần thối thì rửa sạch đi là được.
- Xem ra ngươi cũng tán thành nó là kỳ lân.
Phú Bật nhìn ông ta hỏi.
- Ta không nói như vậy.
Hàn Kỳ nhún nhún vai, không chịu trách nhiệm nói.
- ….
Đối với lão du côn này, Phú Bật đành bó tay, đành buồn bực nói:
- Nếu đã nhận định con này là kỳ lân, tất nhiên phải cử hành lễ nghi long trọng để tiếp đón, lấy đãi ngộ cao nhất để phụng dưỡng. Vua và sĩ phu, dân chúng đều phải cung phụng. Vạn nhất chứng minh không phải kỳ lân, chả phải khiến cho các nước nhỏ chê cười chúng ta sao?
- Ai có thể chứng minh là không phải?
Hàn Kỳ trừng to mắt nói:
- Thì để người khác chứng minh đi!
- Cũng tốt.
Phú tướng công suy nghĩ một chút. Dù sao đoạn đường sứ giả Ấp La tới Biện Kinh còn mất một tháng, trong thiên hạ có nhiều người tài ba dị sĩ, chắc phải có người nhận ra con vật này. Nếu đều không nhận ra, vậy thì thừa nhận nó là kỳ lân cũng không sao…
Vì thế liền xin chỉ thị quan gia chiếu cáo thiên hạ. Bất kỳ là ai, đều đến phân biệt dị thú, người nào có thể nhận ra với lý lẽ xác đáng thì sẽ được trọng thưởng!
Trong thành Biện Kinh, người rảnh rỗi là nhiều nhất. Không nhận ra cũng tới nhìn một cái, dù sao tất cả mọi người đều không nhận ra nên không sợ mất mặt. Vì thế mọi người liên tục tới thăm sứ đoàn Ấp La để nhìn thấy phong thái của dị thú.
Một tháng trôi qua, vẫn không có ai nhận ra con vật này là con gì.
Nếu mọi người đều đã không nhận ra, như vậy coi nó là kỳ lân cũng không sao. Mắt thấy con vật kia sắp tới kinh thành, dưới sự chủ trương của Hàn tướng công, quyết định lấy lễ nghi cao nhất nghênh đón điềm lành.
Lễ Bộ và Hồng Lư Tự khẩn trương giở sách tra tìm lễ tiết nghênh đón điềm lành, cũng không cần phải tìm tra sách cổ, bởi các triều đại tiên đế đều có xuất hiện các hoạt động nghênh đón điềm lành.
Những quan viên khác cũng đều tận tâm tận lực, tìm tòi mọi câu chữ để tuyên dương lễ đón kỳ lân vào kinh thành.
Trong ngày nghỉ, Tư Mã Quang không dễ gì được ở tại phủ của mình. Y đang ở trong thư phòng viết văn, Tư Mã Khang liền dẫn theo Vương Bàng đi vào.
Hai nhà là thông gia, Tư Mã Quang từ trước đến nay đều coi Vương Bàng - vị thanh niên tuấn tú thông minh này như con cháu. Thấy y tiến vào, Tư Mã Quang cũng không để bút xuống mà nói:
- Nguyên Trạch tùy tiện ngồi đi, đợi ta viết xong bài văn chương này đã!
Vương Bàng liền đứng ở bên cạnh y, chờ một mạch đến khi Tư Mã Quang viết xong, mới cười nói:
- Vốn tưởng rằng thúc thúc là đang viết tấu thư, ai ngờ là thúc thúc đang viết “Thông chí”. Quả nhiên là bát phong bất động! ( Bát phong trong phật giáo là lợi, suy, hủy, dự, xưng, ki, khổ, nhạc. Bốn điều lành, bốn điều xấu, gặp bất kỳ điều nào đều bất vi sở động, không hề chịu ảnh hưởng)
- Cái gì mà bát phong bất động.
Tư Mã Quang lắc đầu cười nói:
- Ta từ xưa tới nay đều không tin điềm lành gì hết, nên không muốn quan tâm tới việc kia.
- Kỳ thực rất nhiều người cũng không tin.
Vương Bàng thản nhiên cười nói:
- Kỳ lân là thần thú, giống như rồng, phượng vậy. Thần thú có thể đằng vân giá vũ, bay liệng cửu thiên, làm sao có thể giống như gia súc, bị người bắt tới đây được?
- Nói không sai.
Tư Mã Quang gật đầu nói:
- Đáng tiếc, không có ai có thể chứng minh được điều đó. Hiện tại Đông phủ đang cho quan lại chuẩn bị nghênh đón điềm lành, coi như là chấp nhận con vật kia rồi.
- Chỉ sợ là dụng tâm kín đáo
Vương Bàng lạnh lùng nói.
- Vì sao nói như vậy?
Tư Mã Quang biết người trẻ tuổi này có tâm cơ sâu, trên đời hiếm thấy, có lẽ chỉ có Trần Trọng Phương là có thể so sánh với y.
- Xin hỏi thúc phụ, là ai chủ trương thúc đẩy việc này?
Vương Bàng hỏi.
- Hàn tướng công.
- Chả phải người này từ trước đến nay chỉ biết bo bo giữ mình hay sao?
Vương Bàng truy vấn:
- Vì sao có thể mạo hiểm làm việc như vậy?
- Cái này…
Tư Mã Quang nghĩ lại cũng có lý, liền nói:
- Ngươi đừng có thừa nước đục thả câu nữa!
- Thúc phụ bác học, dĩ nhiên biết kỳ lân đại biểu cho cái gì…
Vương Bàng gằn từng chữ nói.
-A…
Tư Mã Quang vừa nghe đã hiểu.
Trong truyền thuyết, kỳ lạn có thể khiến con người có được con nối dõi. Tương truyền lúc Khổng Tử chuẩn bị sinh ra, có kỳ lân phun ra ngọc thư giao cho nhà này., ở trên có viết ‘Thủy tinh chi tử tôn, suy Chu nhi Tố vương’ (con của Thủy Tinh, nối nhà Chu suy làm vua không ngôi, ý chỉ có đức của đến vương nhưng vẫn chưa được tại vị). Đây chính là bản gốc của truyền thuyết ‘Kỳ lân tống Tử’, mà một khi kỳ lân xuất hiện, chẳng những có ý nghĩa Thánh chủ có đức, còn có ý quốc gia có phúc lộc lâu dài.
- Ý của ngươi là?
Tư Mã Quang thấp giọng hỏi.
- Đúng vậy.
Vương Bàng gật đầu nói:
- Cháu hoài nghi, Hàn Kỳ mượn điềm lành này để gán ghép cho việc lập Thái tử.
Nói xong y hạ thấp giọng:
- Vị kia của chúng ta còn đang ở Quảng Tây, đây là cơ hội tốt nhất của ông ta!
- Không sai…
Tư Mã Quang ngưng trọng nói:
- Quả thật có khả năng này.
- Không phải khả năng, mà là nhất định.
Vương Bàng quả quyết nói:
- Cháu dám đánh cuộc, những bản tấu kia giấu không ít mưu đồ riêng!
Lúc này Tư Mã Quang mới ý thức tới tình thế nghiêm trọng. Hiện giờ Triệu Tông Tích còn tại Quảng Tây, tuy rằng nơi đó đã ngưng chiến. nhưng vẫn chưa chính thức ký hiệp ước thì y vẫn không thể trở lại kinh thành. Mà ngay cả Trần Khác cũng bị điều ra khỏi Biện Kinh, phe mình đang đứng ở thời kỳ yếu kém nhất.
Tuy Vương Bàng thường xuyên đưa ra nhiều ý tưởng, nhưng ngay cả chính Vương Bàng cũng phải thừa nhận, chỉ có Trần Khác mới có thể đem các quân cờ rời rạc dưới tay của Triệu Tông Tích ghép lại cùng nhau.
- Trọng Phương biết việc này chưa?
Tư Mã Quang hỏi.
- Lúc đầu chỉ cho rằng đây là một việc nhỏ bàn bên lề, cho nên không thông tri cho hắn, hiện tại đối phương lại dùng việc này làm âm mưu nên không kịp hồi âm cho hắn nữa.
Vương Bàng ước gì mình có thể độc lập đứng ra chống đỡ toàn cục, như vậy mới có thể bày ra năng lực xoay chuyển tình thế của mình.
- Ừ.
Tư Mã Quang chậm rãi gật đầu nói:
- Trước khi điện hạ trở về kinh thành, chúng ta phải nghĩ cách kéo dài.
Nói xong, trong lòng chỉ cười khổ, cho dù về rồi thì làm được cái gì chứ?
Nói thật là, hiện tại y có chút hối hận.
Hiện giờ đại thế của Triệu Tông Thực đã thành, bên y cho dù có thu hoạch nhỏ nhưng cũng không ảnh hưởng tới đại cục. Đừng tưởng trong bát công thuộc Trung Xu có bốn người dường như thiên về Triệu Tông Tích, nhưng nếu nghiên cứu kỹ một chút, Âu Dương Tu và Bao Chửng là hạng người chỉ biết đắc tội người khác, là cô thân không bè phái, còn nhóm người Tăng Công Lượng, Vương Khuê thì là quân tử chỉ biết bo bo giữ mình. Những nhân vật như vậy, dù nhiều hơn nữa cũng không bằng Hàn Kỳ có khả năng can thiệp triều chính.
Ở bên ngoài Trung Xu, đảng phái của Triệu Tông Tích càng không có phần thắng.
Nhưng ai bảo Triệu Tông Tích năm đó không chịu sự bố trí nhàn hạ, lại dựa vào kế sách phá giá muối giải của Trần Khác mới rửa sạch sỉ nhục, khiến cho quan gia và nhóm tướng công nhìn y với con mắt khác. Về sau lại tiếp tục phát triển càng nằm ngoài dự đoán của mọi người, Một Tàng Ngoa Sủng bị Lý Lượng Tộ xử lý, Tây Hạ chủ động cầu hòa Đại Tống.
Trong chuyện này, nguyên nhân chính là do Tây Hạ xảy ra đấu tranh quyền lực trong nội bộ. Nhưng với bản chất tính toán nhỏ nhặt duy ngã độc tôn của Đại Tống, hiển nhiên toàn bộ công lao đều quy về Tư Mã Quang.
Vì thế mấy năm trước, Tư Mã Quang vốn còn bị mọi người nhạo báng, vừa mới xuất hiện đã đưa ra diệu kế bình an thiên hạ, tiền đồ vô cùng quang minh.
Đây hết thảy đều bắt đầu từ diệu kế kia của Trần Khác… Y sợ nhất là nợ ân tình, chính là vì nợ một ân tình này, Tư Mã Quang mới bị Trần Khác lôi kéo lên cùng một chiếc thuyền.
Hiện giờ Tư Mã Quang rất được quan gia coi trọng, hiển nhiên giá trị con người cũng được tăng lên. Nhớ lại lúc Trần Khác thừa dịp lúc mình còn đang sơ ý mà đầu tư, hiện tại có thể nói là một vốn bốn lời, Tư Mã Quang cũng không thể không bội phục ánh mắt của thằng nhãi này… Ấy, nói như vậy giống như có chút tự sướng.
Bất kể thế nào, y bởi vì việc của Tô Triệt mà bị coi là thành viên của đảng Triệu Tông Tích. Mặc dù có chút hối tiếc, nhưng Tư Mã Quang hiểu rất rõ rằng mình không có đường khác để đi. Nếu lại đi đầu nhập vào Triệu Tông Thực, thanh danh sẽ bị hủy hoại, chức quan này coi như cũng xong. Từ một đảng này nhảy sang đảng khác không phải là không thể, nhưng đã đắc tội người ta, tương lai không chỉ nói gian nan, mà hy vọng cũng không có.
Tư Mã Quang rất quen thuộc tư vị này, thực sự không nghĩ lại nếm trải thêm một lần nữa.
Nghĩ tới nghĩ lui, cũng chỉ có hạ quyết tâm một đường đi tới, nếu có thể mở một đường máu thì tiền đồ của mình chính là vững chắc như đồng.
Nếu là bị bại… Tư Mã Quang chua xót cười, thầm nghĩ, cùng lắm trí sĩ về quê, tu soạn ‘Thông chí’ của mình!
Vương Bàng đi rồi, Tư Mã Quang khép sách lại cất vào trong hộp, còn khóa lại nữa. Dường như trong khoảng thời gian ngắn không có ý định lấy ra.
Đứng dậy, Tư Mã Quang thở dài một tiếng, trong lòng tự nhủ: “Trần Khác ơi Trần Khác, chỉ mong như lời ngươi nói. Đến mùa thu sẽ có chuyển cơ, nếu không lão phu, ầy, có thể sẽ bị ngươi lôi theo xuống vực…
Thấy cử chỉ của Tư Mã Quang khác thường, Tư Mã Khang mới mười hai tuổi có chút sợ hãi hỏi:
- Phụ thân, người đang nghĩ gì vậy?
- Khang nhi.
Tư Mã Quang hiền từ nhìn Tư Mã Khang hỏi:
- Con có muốn đi xem kỳ lân không.
- Có…
Tư Mã Khang sợ lại bị cha giáo huấn, vội lắc đầu nói:
- Không muốn.
- Vậy thì vi phu tự mình đi xem.
Tư Mã Quang sa sầm mặt, đi tới cửa quay lại nhìn đứa con còn không hiểu chuyện gì, mới cười ha hả nói:
- Tiểu tử ngốc, còn không đi theo!
- Tuân mệnh, phụ thân!
Mắt của Tư Mã Khang sáng lên, vội vàng đuổi kịp…
Hai ngày sau là lâm triều.
Đề tài thảo luận hôm nay của các quan lại không còn là đại sự về chiến tranh, trị thủy, mà là việc nghênh đón kỳ lân ở cửa nam kinh thành… Con kỳ lân kia thực ra mấy hôm trước đã đi tới kinh thành rồi, nhưng Khâm Thiên Giám nói ngày mốt mới là ngày hoàng đạo, bởi vậy còn phải chờ thêm một chút.
Nhưng trăm quan lại không thể đợi thêm nữa. Tin tức thần thú tới đã lan rộng toàn bộ kinh thành làm cho bọn họ xôn xao bàn luận không ngừng. Bàn luận từ chuyện kỳ lân kia thần uy như thế nào, cho đến chuyện đến lúc nghênh đón, không biết quan gia có tự mình tới nghênh tiếp hay không… Có người nói quan gia là thiên tử, thần thú dù có thần đến mấy cũng là thú, đâu có đạo lý đi ra nghênh đón. Nhưng càng nhiều người lại phản đối, nói rằng thiên tử là con trai của trời, thế gian xuất hiện thụy thú chính là tin tức từ trời gửi tới cho thiên tử. Quan gia không để ý tới mặt mũi của thần thú, nhưng cũng phải vì mặt mũi của trời mà tới nghênh đón.
Chúng quan viên ở nơi này thảo luận khí thế, Triệu Trinh thì lại cụt hứng. Cũng đúng, quan gia từ lúc lên làm thiên tử tới nay còn chưa từng đi ra nghênh đón ai, không ngờ lần đầu tiên của mình lại đi nghênh đón một con vật, đổi lại là ai khác cũng cảm thấy không có gì vui vẻ.
Tiếp xúc với Triệu Trinh trong triều đình được hai mươi năm, Phú Bật và Hàn Kỳ liền nhìn ra có chỗ không đúng… Theo tính tình lâu nay của Triêu Trinh, chỉ khi gặp phải việc gì rất bất mãn thì mới lộ ra thái độ như hiện tại.
Hàn Kỳ dĩ nhiên sẽ không hé răng, Phú Bật liền nhẹ giọng hỏi:
- Xin hỏi ý của bệ hạ như thế nào?
Thủ tướng lên tiếng, hơn nữa hỏi chính là Hoàng đế, đại điện vốn ồn ào lập tức yên tĩnh đến kim rơi cũng có thể nghe thấy. Triệu Trinh hơi sửng sốt, liền lấy lại tinh thần nói:
- À, quả nhân nhớ tới, sáng nay Tư Mã ái khanh có dâng một bài phú.
Dừng một chút lại nói:
- Gọi là ‘Ấp La hiến kỳ thú phú’. Đúng không, Tư Mã ái khanh?
- Vâng.
Tư Mã Quang để bút xuống, đứng dậy đáp lại.
Mọi người nghe vậy không khỏi thầm mắng, quả nhiên là gần quan được ban lộc. Chúng ta đều muốn chờ nghi lễ kết thúc mới dâng sớ, lại bị tên này đưa lên trước.
- Bài phú của ái khanh viết vô cùng tốt, quả nhân rất có hứng thú với phần “Tiến biểu” mở đầu của nó.
Triệu Trinh thản nhiên nói:
- Ái khanh đọc cho mọi người cùng nghe.
- Tuân chỉ.
Tư Mã Quang tiếp nhận quyển tấu, rồi trầm giọng đọc:
- Thần có nghe nói: Tháng này có sứ đoàn Ấp La tới dâng hiến dị thú, cho là kỳ lân. Ngày hai mươi lăm, thần dẫn theo con út đi tới xem. Tài học của thần thấp kém, không thể nhận ra dị thú này là con gì. Bởi vì danh tiếng của kỳ lân là vô hình, mà sách cổ ghi lại là hữu hình, song đó là chuyện rất lâu rồi….
Trên đại điện vang lên lời lẽ chính nghĩa của Tư Mã Quang, bách quan đều nghe y miêu tả hình dạng của dị thú. Cổ giống gấu, miệng giống chim, đầu heo thân ngựa, có sừng giống trâu, có lân giống voi. Sức nó lực lớn, tính tình hiền lành, đại khái là do sinh sống ở nơi xa, bởi vậy không thấy trên sách cổ có hình miêu tả.
Đọc qua một lượt, Tư Mã Quang tưởng tượng quần thần khen ngợi như thủy triều. Sau đó lại tưởng tượng Hoàng đế trả lời: “Quái thú này, sinh ra ở nam Ngũ Lĩnh, sinh sống trong đầm lầy. Có được nó, đức của ta không có tăng lên. Thả nó đi, đức của ta cũng không có giảm. Không bằng sửa nghênh đón dị thú thành nghênh đón kẻ sĩ, phí phụng dưỡng dị thú thì đùng đểphụng dưỡng kẻ sĩ…”
- Ý là, hiện tại chúng ta không rõ rằng lắm con vật này có phải kỳ lân hay không, nhưng đã làm cho cả nước gà bay chó chạy. Nếu không phải kỳ lân, sẽ khiến cho các tiểu quốc phiên bang cười nhạo chúng ta, cho dù thực là kỳ lân, đó cũng là do người ta đưa tới, không phải thú sinh sống trên đất Đại Tống, vậy thì con vật này không có liên quan gì tới điềm lành của chúng ta.
- Cho nên, theo ngu kiến của thần, chúng ta vẫn là không chấp nhận dị thú mà trả lại cho Ấp La. Đương nhiên để biểu hiện phong độ của Đại Tống chúng ta, có thể ban thưởng cho sứ giả Ấp La vàng bạc châu báu, ban thưởng chiếu thư, có thể viết ‘Người di tứ phương phục tùng, thiên thụy cũng có thể tự tới’… Chúng ta vẫn là đợi cho điềm lành tự đến, không cần người khác đưa tới.
- Như thế, tiểu quốc Ấp La cũng không có cách nào chê cười chúng ta, mà chúng ta cũng không tổn hại gì. Đây chả phải lưỡng toàn kỳ mỹ sao?
Cuối cùng, Tư Mã Quang cũng không quên cất cao giọng nói:
- Về sau chỉ cần Hoàng thượng ‘Tu thân tích đức làm gốc’ , thiên hạ sẽ tự nhiên hiểu rõ “Tam quang trong sạch, bảo hộ vạn dân, mưa thuận gió hòa, khắp nơi giàu mạnh” . Đây mới thực sự là điềm lành.
Quần thần nghe được trợn mắt há hốc mồm, Triệu Trinh lại tán dương gật đầu nói:
- Chư vị ái khanh thấy như thế nào?
Quần thần vẫn là trợn mắt há hốc mồm, ngay cả Hàn tướng công cũng thay đổi sắc mặt. Ông ta vốn tưởng rằng kéo Trần Khác ra khỏi kinh thành thì đảng phái của Triệu Tông Tích sẽ trở nên suy yếu, không thể tưởng tượng được lại xuất hiện một Tư Mã Quang có trình độ còn cao hơn cả Trần Khác!
Gặp những việc khó khăn luôn khiến người khác phải bó tay, Tư Mã Quang lại xử lý vô cùng khéo léo, có thể coi là hoàn mỹ không tỳ vết!
Thảo luận vốn náo nhiệt đột nhiên dừng lại, bách quan nhưng không có ai dám phản bác Tư Mã Quang. Bởi vì lời này chiếm hết đạo nghĩa, làm cho người khác không có đường nào phản bác!
Cái gọi là ‘Một con chim hót, bách điểu im lặng’ đúng là nói trường hợp này. Vậy là mọi nghi thức đón điềm lành đều bị dẹp đi, khiến dân chúng Biện Kinh rất thất vọng.
Nhưng mà càng thất vọng chính là Hàn tướng công. Ông ta tỉ mỉ bày ra kế hoạch ‘Mượn điềm lành mời lập Thái tử’, thế nhưng đã hoàn toàn chết trong trứng nước…
- Tư Mã tiểu nhi!
Hàn tướng công hiếm thấy thất thố, đương nhiên là ở trong phòng của ông ta. Ông ta đánh vỡ bát trà, la hét với mấy người tâm phúc đang câm như hến:
- Dám phá hỏng đại sự của ta hết mấy bận!
- Tướng công bớt giận.
Tham tri Chính sự Ngô Khuê kiên trì nói:
- Quan gia còn chưa thấy con kỳ lân kia, chúng ta vẫn có thể dựa vào đó làm văn.
Hàn Kỳ tỉnh táo lại, đúng vậy, cái gọi là điềm lành bất quá là lý do để cho bách quan có cớ lập Thái tử, lấy cớ này không được thì đổi một cái khác.