Nhật Ký Bí Mật Của Tiểu Thư Miranda

Chương 1

Ở tuổi lên mười, tiểu thư Miranda Cheever không hề bộc lộ dấu hiệu nào hứa hẹn một Sắc Đẹp Lộng Lẫy. Mái tóc nâu thảm hại đồng màu với đôi mắt; đôi chân dài khác thường từ chối bất cứ chuyển động nào có thể coi là duyên dáng dù mơ hồ nhất. Lúc nào mẹ cô bé cũng thấy cô nhảy loi choi khắp nhà.

Thật không may cho Miranda, cái xã hội nơi cô bé sinh ra lại rất coi trọng vẻ bề ngoài của nữ giới. Và dù chỉ mới mười tuổi nhưng cô bé đã hiểu rằng về mặt này mình bị coi là thua kém so với hầu hết các bạn nữ khác trong vùng. Trẻ con thường có cách khám phá ra những điều như vậy, thường là từ những đứa trẻ khác.

Chẳng hạn như sự cố không mấy vui vẻ xảy ra tại bữa tiệc sinh nhật lần thứ mười một của tiểu thư Olivia và công tử Winston Bevelstoke, cặp sinh đôi của vợ chồng ngài Bá tước xứ Rudland. Nhà Miranda khá gần Haverbreaks, điền sản của tổ tiên dòng họ Rudland gần Ambleside, quận Lake, Cumberland, và cô bé thường học bài cùng Olivia và Winston khi bọn trẻ về đây ở. Chúng trở thành bộ ba không thể tách rời và hiếm khi chơi với những đứa trẻ khác trong vùng, vì hầu hết đều sống cách đó khoảng một giờ đi ngựa.

Khoảng chục lần mỗi năm, đặc biệt là những dịp sinh nhật, con cái tất cả các gia đình quý tộc và thượng lưu trong vùng lại tụ họp với nhau. Vì lý do này mà nữ Bá tước Rudland phải thốt ra một tiếng rền rĩ chẳng hề ra dáng quý bà; mười tám thằng nhóc tai quái đang hào hứng tha bùn đất khắp phòng khách nhà bà sau khi bữa tiệc của cặp sinh đôi tổ chức trong khu vườn bị trận mưa phá hỏng.

“Má cậu dính bùn kìa, Livvy,” Miranda vừa nói vừa đưa tay lên lau vết bùn.

Olivia thở hắt ra vẻ mệt mỏi đầy kịch tính. “Thế thì tốt hơn hết là mình nên vào phòng rửa mặt. Mình không muốn mẹ trông thấy mình thế này. Mẹ ghét bẩn, còn mình thì ghét phải nghe mẹ kêu ca bà ghét bẩn đến thế nào.”

“Mình không hiểu bà lấy đâu ra thời gian để phàn nàn về vết bùn nhỏ trên mặt cậu trong khi cả tấm thảm của bà giờ toàn bùn đất thế kia cơ chứ.” Miranda liếc William Evans, thằng bé vừa mới hô “XUNG PHONGGGGGG” rồi phóng người lên trường kỷ. Cô bé phải bặm môi lại để khỏi cười. “Và cả đồ đạc nữa.”

“Cũng thế cả thôi, tốt nhất là mình nên làm gì đó.”

Nói rồi cô bé lẻn ra khỏi phòng, bỏ lại Miranda ở gần lối ra vào. Miranda quan sát cuộc bạo loạn chừng một vài phút rồi khá bằng lòng chấp nhận cái vị trí người-quan-sát thường lệ của mình, cho tới khi qua khóe mắt, cô bé thấy có ai đó đang đi tới.

“Bạn tặng quà sinh nhật gì cho Olivia vậy Miranda?”

Miranda quay sang thì thấy Fiona Bennet đang đứng trước mặt mình, xinh xắn trong chiếc váy yếm trắng kèm khăn quàng màu hồng. “Một cuốn sách,” cô bé đáp. “Olivia thích đọc sách. Còn bạn mang gì tới?”

Fiona giơ ra một chiếc hộp có họa tiết vui mắt được thắt dây nơ màu bạc. “Một bộ sưu tập các dải ruy băng. Bằng lụa và xa tanh, thậm chí là bằng nhung nữa. Bạn có muốn xem không?”

“Ôi, nhưng tớ không muốn làm hỏng lớp giấy gói đâu.”

Fiona nhún vai. “Bạn chỉ cần tháo sợi dây buộc cho cẩn thận là được. Tớ vẫn làm thế với quà Giáng sinh mà.” Nói rồi cô bé kéo sợi nơ buộc và nâng cái nắp hộp lên.

Miranda nín thở. Ít nhất có tới một tá ruy băng nằm trên lớp lót bằng nhung đen của chiếc hộp, mỗi sợi được thắt nơ bướm cực kỳ trang nhã. “Đẹp quá Fiona. Mình có thể xem một cái không?”

Fiona nheo mắt.

“Tay tớ không có tẹo bùn nào đâu. Thấy không?” Miranda giơ hai bàn tay lên để cô bạn kiểm tra.

“Ừ, được rồi.”

Miranda thò tay vào chọn một chiếc ruy băng màu tím. Chất xa tanh trơn mượt khủng khiếp và mềm mại trôi trong bàn tay cô bé. Cô bé đặt cái nơ bướm điệu đà ướm thử lên mái tóc mình. “Bạn nghĩ sao?”

Fiona đảo tròn mắt. “Không phải màu tím, Miranda ạ. Ai cũng biết chúng dành cho tóc vàng cơ. Màu này thường bìm trên nền nâu. Bạn hiển nhiên không thể đeo nó rồi.”

Miranda đưa trả dải ruy băng cho cô bạn. “Vậy màu nào thì hợp với tóc nâu? Xanh lá à? Mẹ mình có mái tóc màu nâu và mình đã thấy mẹ buộc những dải ruy băng màu xanh lá.”

“Xanh lá cây có thể chấp nhận được, tớ nghĩ thế. Nhưng trên mái tóc vàng thì sẽ đẹp hơn. Mọi thứ đều đẹp hơn trên nền tóc vàng.”

Miranda cảm thấy một thoáng phẫn nộ dâng lên trong lòng. “Vậy thì tớ không hiểu bạn sẽ làm gì hả, Fiona, bởi vì tóc bạn cũng nâu như tóc tớ mà.”

Fiona giật lùi lại, nổi cáu. “Không phải!”

“Đúng thế mà!”

“Không phải!”

Miranda nhoài người tới trước, hai mắt nheo lại vẻ đe dọa. “Bạn nên soi gương khi về nhà, Fiona ạ, bởi vì tóc bạn không phải màu vàng.”

Fiona đặt dải ruy băng tím trở lại hộp và sập nắp đánh cạch một cái. “Vậy à, nó đã từng là màu vàng, còn tóc cậu chẳng bao giờ có màu đó cả. Và ngoài ra, tóc tôi có màu nâu nhạt, mà mọi người đều biết là nó đẹp hơn màu nâu sẫm. Sẫm như tóc bạn ấy.”

“Tóc nâu sẫm chẳng có gì là sai trái cả!” Miranda đáp trả. Nhưng cô bé cũng biết rằng đa số người Anh đều không đồng tình với ý kiến của mình.

“Và,” Fiona đắc thắng bổ sung, “bạn có đôi môi bự như con sên!”

Bàn tay Miranda vụt đưa lên che miệng. Cô bé biết mình không đẹp; cô bé biết mình thậm chí còn không được coi là xinh xắn nữa cơ. Nhưng từ trước đến giờ cô bé chưa bao giờ thấy đôi môi của mình có gì không ổn cả. Cô bé ngước nhìn nhỏ bạn đang mỉm cười tự mãn. “Còn bạn thì có tàn nhang!” Cô la lên.

Fiona giật lùi lại như vừa bị một cái tát. “Tàn nhang sẽ biến mất dần. Các nốt trên mặt tôi sẽ biến đi hết trước khi tôi bước sang tuổi mười tám. Tối nào mẹ tôi chẳng dặm nước chanh vắt lên.” Cô nàng cười khẩy vẻ khinh miệt. “Nhưng bạn thì vô phương cứu chữa, Miranda ạ. Bạn xấu xí.”

“Bạn ấy không xấu!”

Cả hai cô bé cùng quay sang nhìn Olivia - vừa mới từ phòng rửa mặt quay trở lại.

“Ồ, Olivia,” Fiona nói. “Mình biết bạn kết thân với Miranda bởi vì cô ta sống gần nhà và cùng học bài với bạn, nhưng bạn phải thừa nhận là cô ta không xinh. Mẹ mình nói cô ta sẽ chẳng bao giờ lấy chồng được.”

Đôi mắt xanh của Olivia lóe lên ánh nguy hiểm. Cô con gái độc nhất của Bá tước Rudland không bao giờ tha thứ một lỗi lầm nào, và Miranda lại là người bạn thân nhất của cô bé. “Miranda sẽ lấy được người chồng tốt hơn bạn đấy, Fiona Bennet ạ! Ba bạn ấy là một Tòng nam tước trong khi ba bạn chỉ là thường dân.”

“Là con gái Tòng nam tước cũng chẳng có gì khác biệt cả trừ phi cô ta có nhan sắc hoặc có tiền,” Fiona ngân nga nhắc lại những lời mà cô bé hiển nhiên đã được nghe lúc ở nhà. “Mà cả hai thứ ấy Miranda đều chẳng có.”

“Im đi, bạn là đồ bò già ngu ngốc!” Olivia giậm chân quát. “Đây là tiệc sinh nhật của tôi, nếu bạn không thể cư xử tử tế thì bạn có thể về!”

Fiona nuốt giận. Cô bé biết tốt hơn là không nên làm cho Olivia - con gái của những người có đẳng cấp xã hội cao nhất vùng - xa lánh mình. “Mình xin lỗi, Olivia,” cô bé lẩm bẩm nói.

“Đừng xin lỗi tôi. Xin lỗi Miranda ấy.”

“Tôi xin lỗi, Miranda.”

Miranda vẫn im lặng cho tới khi Olivia phải đá cô bé một cái. “Tôi chấp nhận lời xin lỗi của bạn,”miễn cưỡng nói.

Fiona gật đầu rồi chạy biến.

“Mình không thể tin được cậu lại gọi cậu ta là con bò già ngu ngốc,” Miranda nói.

“Bạn cần phải học cách tự bảo vệ mình, Miranda ạ.”

“Trước khi cậu tham gia vào, mình vẫn đang tự bảo vệ rất tuyệt đấy chứ, Livvy. Mình chỉ không muốn tự bảo vệ một cách quá ầm ĩ thôi.”

Olivia thở dài. “Mẹ bảo mình không có chút xíu khả năng kiềm chế hay lương tri gì cả.”

“Đúng là vậy,” Miranda tán thành.

“Miranda!”

“Đó là sự thật, cậu đúng là như thế mà. Nhưng dù thế nào mình vẫn yêu cậu.”

“Mình cũng yêu cậu, Miranda. Và đừng để tâm đến Fiona già ngớ ngẩn. Khi nào lớn cậu có thể cưới Winston và rồi chúng mình sẽ thật sự là chị em.”

Miranda liếc ngang qua phòng nhìn Winston vẻ hoài nghi. Cậu đang giật tóc một cô bé con. “Mình không biết nữa,” cô bé e dè nói. “Mình không chắc là mình muốn lấy Winston đâu.”

“Vớ vẩn. Như thế thật hoàn hảo. Mà nhìn xem, anh ấy mới làm đổ rượu pân ra váy của Fiona kìa.”

Miranda cười toe toét.

“Đi với mình nào,” Olivia nói, cầm tay cô bạn. “Mình muốn mở quà. Mình hứa là sẽ reo to nhất khi nhận quà của cậu.”

Hai cô bé trở lại phòng khách, rồi Olivia và Winston mở quà. Tạ ơn Chúa (theo ý kiến của Phu nhân Rudland), hoàn tất việc mở quà vào đúng bốn giờ, thời điểm những đứa trẻ phải về nhà. Đứa nào cũng được đích thân phụ huynh đến đón, ai cũng xem chuyện được mời tới nhà Haverbreaks là một niềm vinh dự, và không vị phụ huynh nào lại muốn bỏ lỡ cơ hội làm thân với ông bà Bá tước. Ngoại trừ bố mẹ của Miranda, đúng thế. Đến năm giờ, cô bé vẫn còn ở phòng khách nhà Bevelstoke, cùng Olivia xem xét các chiến lợi phẩm.

“Ta không biết có chuyện gì với bố mẹ cháu thế, Miranda,” Phu nhân Rudland nói.

“Ôi, cháu biết đấy ạ,” Miranda hào hứng đáp. “Mẹ cháu đã đến Scotland thăm bà ngoại, và cháu dám chắc là ba cháu đã quên béng cháu rồi. Ba cháu vẫn thường thế khi ông mải làm việc với một bản thảo nào đó. Ông dịch từ tiếng Hy Lạp.”

“Ta biết,” Phu nhân Rudland mỉm cười.

“Hy Lạp cổ đại.”

“Ta biết,” Phu nhân Rudland thở dài. Đây không phải lần đầu tiên ngài Rupert Cheever quên mất cô con gái của mình. “Chà, phải tìm cách đưa cháu về nhà thôi.”

“Con sẽ đi với bạn ấy,” Olivia đề xuất.

“Con và Winston cần phải cất đồ chơi mới và viết thiệp cảm ơn. Nếu không làm việc đó tối nay, con sẽ không nhớ được ai đã tặng con thứ gì.”

“Nhưng mẹ không thể để một người hầu đưa Miranda về nhà được. Bạn ấy sẽ không có ai để trò chuyện cả.”

“Tớ có thể nói chuyện với người hầu mà,” Miranda nói. “Tớ vẫn thường xuyên nói chuyện với bọn họ ở nhà.”

“Không phải với người hầu nhà tớ,” Olivia thì thầm. “Bọn họ cứng nhắc và câm như hến, lại còn thường nhìn tớ vẻ không bằng lòng nữa chứ.”

“Hầu như lúc nào con cũng đáng bị nhìn với vẻ không hài cả,” Phu nhân Rudland ngắt ngang, âu yếm vỗ đầu cô con gái. “Ta tìm ra giải pháp cho cháu rồi đây, Miranda. Tại sao chúng ta không nhờ Nigel đưa cháu về nhà nhỉ?”

“Nigel ư!” Olivia kêu lên. “Miranda, cậu thật là chú vịt may mắn.”

Miranda nhướn mày. Cô bé chưa bao giờ gặp anh trai lớn của Olivia. “Được thôi,” cô bé từ tốn nói. “Tớ mừng vì cuối cùng cũng được gặp anh ấy. Cậu vẫn luôn miệng kể về anh ấy mà, phải không Olivia.”

Phu nhân Rudland ra lệnh cho một cô hầu gái đi tìm Nigel. “Cháu chưa bao giờ gặp Nigel sao Miranda? Kỳ lạ thật. À, ta cho là vì nó thường chỉ về nhà vào dịp Giáng sinh, mà Giáng sinh thì cháu lại hay đi Scotland. Ta đã phải dọa sẽ từ mặt nó để bắt nó về nhà vào ngày sinh nhật của hai đứa sinh đôi đấy. Nó không dự bữa tiệc vì sợ một trong mấy bà mẹ kia sẽ cố gắng gả một đứa trẻ mười tuổi cho nó.”

“Nigel mười chín rồi, anh ấy là một đám rất sáng giá đấy,” Olivia thản nhiên nói. “Anh ấy là một Tử tước. Và cực kỳ đẹp trai. Trông anh ấy giống mình.”

“Olivia!” bà Rudland nhắc nhở vẻ không hài lòng.

“Thì đúng thế mà mẹ. Nếu là con trai thì con sẽ rất đẹp trai cho xem.”

“Là con gái thì cậu cũng xinh xắn thế còn gì, Livvy,” Miranda thành thực nói, nhìn những lọn tóc vàng của cô bạn với vẻ hơi ghen tị.

“Cậu cũng vậy. Này, cậu chọn một dải ruy băng của con bò Fiona đi. Dù gì mình cũng không cần toàn bộ chỗ ruy băng này.”

Miranda mỉm cười trước lời nói dối của cô bạn. Olivia là người bạn tốt như thế đấy. Cô bé nhìn xuống hộp ruy băng và ngoan cố chọn sợi xa tanh màu tím. “Cảm ơn cậu, Livvy. Thứ Hai mình sẽ buộc nó đến trường.”

“Mẹ gọi con ạ?”

Nghe giọng nói trầm ấm, Miranda quay mặt về lối cửa ra vào và gần như há hốc vì kinh ngạc. Đang đứng ở đó là một sinh vật lộng lẫy tuyệt vời nhất mà cô bé từng trông thấy. Olivia đã nói rằng Nigel mười chín tuổi, nhưng Miranda ngay lập tức nhận thấy anh đã ra dáng đàn ông lắm rồi. Đôi vai rộng cân đối trông như vẽ, thân hình thanh thoát nhưng rắn chắc. Tóc anh đậm màu hơn tóc Olivia nhưng vẫn có ánh vàng kim, bằng chứng cho thấy anh thường xuyên ở ngoài trời. Nhưng phần đẹp nhất của anh, Miranda lập tức nghĩ ra, chính là đôi mắt. Nó sáng ngời, màu xanh lam rạng rỡ, giống đôi mắt của Olivia. Chúng cũng lấp lánh ánh tinh nghịch, láu lỉnh.

Miranda mỉm cười. Mẹ cô bé vẫn thường bảo rằng có thể nhìn vào đôi mắt của một người mà nói về người đó, mà anh trai của Olivia thì có đôi mắt tuyệt đẹp.

“Nigel, con hộ tống Miranda về nhà được không?” bà Rudland hỏi. “Ba của cô bé dường như bị cầm chân ở đâu đó mất rồi.”

Miranda tự hỏi tại sao Nigel lại nhăn mặt khi nghe mẹ gọi tên mình.

“Chắc chắn rồi, thưa mẹ. Olivia, em đã có một bữa tiệc vui vẻ chứ hả?”

“Đập phá tanh bành.”

“Winston đâu rồi?”

Olivia nhún vai. “Anh ấy đi chơi với thanh kiếm Billy Evans tặng rồi.”

“Anh hy vọng không phải là đồ thật.”

“Chúa phù hộ chúng ta nếu nó là đồ thật,” bà Rudland xen vào. “Được rồi, Miranda, chúng ta sẽ đưa cháu về. Ta tin là áo choàng của cháu đang ở phòng bên.” Bà biến mất qua khung cửa và xuất hiện trở lại vài giây sau với chiếc áo choàng bền chắc màu nâu của Miranda.

“Chúng ta lên đường chứ, Miranda?” Sinh vật đến từ thiên đường ấy đưa tay ra cho cô bé.

Miranda khoác áo rồi đặt bàn tay mình vào tay anh. Thiên đường!

“Mình sẽ gặp cậu vào thứ Hai nhé!” Olivia gọi với theo. “Và đừng lo lắng về những gì Fiona nói. Cậu ta chỉ là con bò già ngớ ngẩn thôi.”

“Olivia!”

“Thì đúng thế mà mẹ. Con không muốn bạn ấy quay lại đây nữa.”

Miranda mỉm cười khi để anh trai Olivia dẫn xuống tiền sảnh, giọng của Olivia và bà Rudland nhỏ dần, nhỏ dần. “Cảm ơn anh rất nhiều vì đã đồng ý đưa em về nhà, Nigel,” cô bé khẽ nói.

Anh lại nhăn mặt.

“Em... em xin lỗi,” cô bé vội nói. “Đáng lẽ em nên nói ‘thưa ngài’, đúng không? Chỉ tại Olivia và Winston thường nhắc đến anh bằng tên riêng nên em...” Cô bé khổ sở nhìn xuống sàn nhà. Chỉ mới hai phút được đi cạnh anh mà cô bé đã mắc sai lầm ngớ ngẩn rồi.

Anh dừng lại và cúi xuống để cô bé có thể nhìn thấy mặt mình. “Đừng lo lắng về cái từ ‘thưa ngài’ ấy, Miranda. Anh sẽ nói cho em một bí mật nhé.”

Đôi mắt Miranda tròn xoe, cô bé quên cả thở.

“Anh ghét tên thánh của mình.”

“Đó không hẳn là một bí mật, Nig... ý em là, thưa ngài, mà mặc kệ anh muốn được gọi là gì cũng được. Cứ khi nào mẹ anh gọi anh bằng cái tên đó là anh lại nhăn mặt.”

Nigel mỉm cười với Miranda. Có điều gì đó khiến trái tim anh nhói lên khi Nigel nhìn thấy cô gái bé nhỏ với nét mặt quá ư nghiêm nghị này chơi với đứa em gái ương bướng không thể khuất phục của anh. Cô bé là một sinh vật nhỏ nhắn trong cái vẻ ngoài thật buồn cười, nhưng đôi mắt nâu to tròn rất có hồn của cô lại ánh lên vẻ gì đó khá đáng yêu.

“Thế anh được gọi là gì ạ?” Miranda hỏi.

Anh mỉm cười với cô bé, không hề kiểu cách. “Turner.”[1]

[1] Có nghĩa là Thợ tiện.

Mất một lúc anh tưởng cô bé sẽ không nói gì. Miranda chỉ đứng đó, hoàn toàn bất động, chỉ có đôi mắt vẫn long lanh. Và rồi, như thể cuối cùng đã tìm ra kết luận, cô bé nói, “Cái tên hay thật. Hơi kỳ lạ một chút, nhưng em thích.”

“Hay hơn Nigel nhiều, em không nghĩ thế à?”

Miranda gật đầu. “Anh đã chọn nó à? Em vẫn nghĩ rằng người ta nên tự chọn tên cho mình. Em cũng biết hầu hết người ta sẽ chọn một cái tên nào đó khác với tên mình được đặt.”

“Và em sẽ chọn tên gì?”

“Em không chắc nữa, nhưng không phải là Miranda. Thứ gì đó mộc mạc hơn, em nghĩ thế. Người ta kỳ vọng một điều gì đó khác khi nghe đến cái tên Miranda và hầu như thường thất vọng khi họ gặp em.”

“Vô lý,” Turner mạnh mẽ phản đối. “Em là một Miranda hoàn hảo.”

Cô bé cười rạng rỡ. “Cảm ơn anh, Turner. Em có thể gọi anh như thế không?”

“Dĩ nhiên rồi. Và anh e là không phải anh chọn cái tên này. Nó chỉ là một tước hiệu lịch thiệp. Tử tước Turner. Từ hồi tới Eton đến giờ anh vẫn dùng cái tên ấy thay cho Nigel.”

“Ồ. Nó hợp với anh, em nghĩ thế.”

“Cảm ơn em,” anh trang trọng đáp lại, hoàn toàn bị đứa trẻ nghiêm nghị này mê hoặc. “Giờ thì, đưa tay em cho anh lần nữa nào, chúng ta sẽ lên đường.”

“Cái gì thế?”

“Cái này ạ? Ồ, ruy băng ấy mà. Fiona Bennet tặng khoảng hai chục chiếc cho Olivia, và Olivia nói em có thể giữ mộtchiếc.”

Mắt Turner hơi nheo lại rất khẽ khi anh nhớ lại Olivia đã nói gì lúc tạm biệt Miranda. Đừng lo lắng về những gì Fiona nói. Anh kéo dải ruy băng ra khỏi tay cô bé. “Anh nghĩ chỗ của ruy băng là ở trên mái tóc chứ nhỉ.”

“Ờ, nhưng nó không hợp với váy của em,” Miranda yếu ớt phản đối. Lúc này anh đã buộc nó thật chặt lên đỉnh đầu của cô bé rồi. “Nó trông thế nào ạ?” cô bé thì thầm.

“Tuyệt vời.”

“Thật ạ?” Cô tròn xoe mắt vẻ hoài nghi.

“Thật mà. Anh luôn nghĩ rằng ruy băng màu tím trông đặc biệt xinh xắn trên mái tóc nâu.”

Miranda thấy mình phải lòng Tuner ngay tức khắc. Cảm xúc quá mãnh liệt đến nỗi cô bé quên cả cảm ơn lời khen của anh.

“Chúng ta khởi hành chứ?” anh nói.

Cô gật đầu, không tin tưởng chính giọng nói của mình nữa.

Họ rời ngôi nhà đến tàu ngựa. “Anh nghĩ chúng mình có thể cưỡi ngựa,” Turner nói. “Một ngày quá đẹp để ngồi trong xe.”

Miranda lại gật đầu. Thời tiết ấm áp khác thường đối với tháng Ba.

“Em có thể lấy chú ngựa con của Olivia. Anh chắc chắn là con bé không thấy phiền đâu.”

“Livvy không có ngựa con,” cuối cùng thì Miranda cũng tìm lại được giọng nói của mình. “Bây giờ cậu ấy có một con ngựa cái hẳn hoi. Em cũng có một con ở nhà. Bọn em không phải là trẻ con.”

Turner nén cười. “Ừ, anh có thể thấy là bọn em không còn nhỏ nữa. Anh mới ngớ ngẩn làm sao chứ. Anh chẳng suy nghĩ gì cả.”

Vài phút sau, yên ngựa đã thắng xong, và họ bắt đầu chặng đường mười lăm phút đi ngựa đến nhà Cheever. Miranda vẫn im lặng khoảng một phút đầu, quá hạnh phúc đến nỗi không muốn làm hỏng khoảnh khắc này bằng những lời nói.

“Ở bữa tiệc em có vui không?” rốt cuộc Turner lên tiếng.

“Ồ, vâng. Phần lớn thời gian rất vui ạ.”

“Phần lớn thời gian thôi à?”

Anh thấy Miranda nhăn mặt. Rõ ràng cô bé không định nói quá nhiều. “À,” cô bé chậm rãi đáp, cắn môi rồi lại nhả ra, “một cô gái đã nói những lời không tốt với em.”

“Ồ?” Anh biết tốt hơn là không nên tò mò thái quá.

Và quả nhiên anh đã đúng, bởi vì khi Miranda nói chuyện, cô bé gợi anh nhớ đến em gái mình - đang ngước nhìn anh chăm chú với ánh mắt thẳng thắn trong khi từ ngữ thì ào ào mạnh mẽ. “Đó là Fiona Bennet,” cô bé nói với vẻ cực kỳ chán ghét, “Olivia gọi cô ta là con bò già ngu ngốc, và em phải nói là em không thấy hối tiếc khi cậu ấy làm vậy.”

Turner vẫn giữ thái độ trang nghiêm thích hợp. “Anh cũng không thấy tiếc vì con bé đã làm vậy, nếu Fiona đã nói những lời tàn nhẫn với em.”

“Em biết mình không xinh đẹp,” Miranda bùng nổ. “Nhưng thật là thô lỗ bất lịch sự khi nói vậy, ấy là chưa kể còn ám chỉ thẳng thừng color="black">Turner nhìn Miranda một lúc lâu, không chắc mình phải an ủi cô gái bé nhỏ này như thế nào. Miranda không xinh đẹp, đó là sự thật, và nếu anh cố bảo rằng cô bé xinh xắn thì cô bé sẽ không tin anh. Nhưng cô bé không xấu xí. Chỉ... hơi vụng về.

Tuy nhiên anh đã được giải thoát khỏi tình huống khó khăn này, không phải nói bất cứ điều gì nhờ câu bình luận tiếp theo của Miranda.

“Đó là vì mái tóc màu nâu này, em nghĩ thế.”

Anh nhướn mày.

“Nó chẳng đúng mốt gì cả,” Miranda giải thích. “Và cả đôi mắt nâu nữa. Em cũng quá gầy và mặt em quá dài, em quá xanh xao nữa.”

“Chà, những cái đó đều đúng cả,” Turner nói.

Miranda quay sang đối diện với anh, đôi mắt cô bé mở to, nhòa lệ và gương mặt đượm vẻ buồn rầu.

“Hiển nhiên em có mái tóc và đôi mắt màu nâu. Không có gì phải bàn cãi ở điểm đó cả.” Anh nghiêng đầu vờ săm soi nghiên cứu cô bé thật toàn diện. “Em khá gầy, và mặt em đúng là hơi dài một tí. Và em rõ ràng là trông xanh tái.”

Môi Miranda run run, và Turner không thể trêu chọc cô bé thêm nữa. “Nhưng mà,” anh mỉm cười, “anh lại thích phụ nữ có tóc và mắt màu nâu hơn.”

“Không phải thế!”

“Đúng thế đấy. Lúc nào anh cũng thích như vậy. Anh cũng thích họ gầy và xanh xao nữa.”

Miranda nhìn anh vẻ hoài nghi. “Thế còn mặt dài thì sao?”

“À, anh phải công nhận anh chưa bao giờ nghĩ ngợi nhiều về vấn đề ấy, nhưng anh chắc chắn là không thấy phiền lòng với một khuôn mặt dài.">“Fiona Bennet nói em có đôi môi bự,” cô bé vẫn bướng bỉnh nói.

Turner hơi mỉm cười đáp lại.

Cô bé thở dài thườn thượt. “Trước đây em thậm chí chưa bao giờ nhận thấy là mình có đôi môi bự.”

“Không quá bự đâu.”

Cô bé ném cho anh ánh nhìn cảnh giác. “Anh đang nói thế để làm em thấy dễ chịu hơn thôi.”

“Quả là anh muốn em cảm thấy khá hơn thật, nhưng đó không phải là do anh nói thế. Và lần tới Fiona Bennet mà nói em có đôi môi bự thì hãy bảo với nó là nó sai rồi. Em có đôi môi đầy đặn.”

“Có gì khác nhau đâu?” Cô bé nhìn anh nôn nóng, đôi mắt tối sẫm hết sức nghiêm nghị.

Turner hít vào một hơi. “Chà chà,” anh nói tránh. “Môi bự thì không hấp dẫn. Nhưng môi đầy đặn thì có đấy.”

“Ồ.” Điều đó có vẻ làm cô bé hài lòng. “Môi Fiona mỏng dính.”

“Môi đầy đặn thì tốt hơn nhiều, nhiều so với môi mỏng,” Turner nói dứt khoát. Anh khá thích cô gái bé nhỏ vui nhộn này và muốn cô bé vui hơn.

“Tại sao?”

Turner thầm cầu xin các vị thần của nghi thức xã giao và tính đúng đắn chừng mực tha lỗi trước khi trả lời: “Đôi môi đầy đặn thì hôn sẽ tuyệt hơn.”

“Ồ.” Miranda đỏ mặt, và rồi cô bé mỉm cười. “Hay quá.”

Turner cảm thấy hài lòng với bản thân một cách ngớ ngẩn. “Em có biết anh nghĩ gì không, tiểu thư Miranda Cheever?

“Dạ?”

“Anh nghĩ em chỉ cần trở thành chính mình thôi.”[2] Vừa nói ra điều đó, anh lập tức cảm thấy hối tiếc. Chắc chắn cô bé sẽ hỏi ý anh là gì, và anh chẳng biết phải trả lời cô ra sao nữa.

[2] Nguyên văn là “I think you just need to grow into yourself” và Miranda hiểu lầm ý của anh nói cô bé cần phải lớn hơn để cơ thể cân đối với đôi chân quá dài của mình.

Nhưng cô bé lớn trước tuổi này chỉ nghiêng nghiêng đầu suy nghĩ về tuyên bố của anh. “Em mong là anh đúng,” cuối cùng cô nói. “Hãy nhìn chân em mà xem.”

Một tiếng ho kín đáo lấp liếm nụ cười nén vội trong họng Turner. “Ý em là gì?”

“Thế đấy, chân quá dài. Mẹ em thường nói rằng chân dài đến nách vậy.”

“Có vẻ như chân em bắt đầu từ phần hông của em đấy chứ.”

Miranda cười rúc rích. “Em đang nói ẩn dụ mà.”

Turner nháy mắt. Cô bé mười tuổi này quả là thích lý sự.

“Ý em là,” cô tiếp tục, “đôi chân của em có kích thước không cân đối so với phần còn lại của cơ thể. Em nghĩ đó là lý do em không thể học khiêu vũ được. Em cứ giẫm vào ngón chân của Olivia hoài.”

“Giẫm lên ngón chân của Olivia?”

“Chúng em tập khiêu vũ cùng nhau,” Miranda mau lẹ giải thích. “Em nghĩ nếu các bộ phận trên cơ thể em ăn khớp với đôi chân thì em sẽ không quá lóng ngóng vụng về. Vì vậy em cho là anh đúng đấy. Em đúng là phải lớn hơn để cho vừa với chính mình.”[3]

[3] Nguyên văn là “I do have to grow into myself.”

“Tuyệt vời,” Turner nói, vui mừng nhận ra chẳng hiểu xoay xở thế nào mà anh đã nói trúng điều cần nói. “À, có vẻ như chúng ta đến nơi rồi.”

Miranda ngước nhìn ngôi nhà đá xám xịt của mình. Nó tọa lạc ngay trên một trong những dòng suối ăn thông với các hồ trong vùng, và dòng suối này chảy qua cây cầu nhỏ bằng đá cuội dẫn đến cửa trước của ngôi nhà. “Cảm ơn anh rất nhiều vì đã đưa em về, Turner. Em hứa sẽ không bao giờ gọi anh là Nigel.”

“Em cũng hứa là sẽ véo Olivia nếu nó gọi anh là Nigel chứ?”

Miranda khẽ bật ra tiếng cười khúc khích và bụm tay che miệng. Cô bé gật đầu.

Turner xuống ngựa rồi quay sang giúp cô bé xuống. “Em có biết anh nghĩ em nên làm gì không hả Miranda?” anh đột nhiên hỏi.

“Gì ạ?”

“Anh nghĩ em nên viết nhật ký.”

Cô bé chớp mắt ngạc nhiên. “Tại sao? Ai muốn đọc nó chứ?”

“Không ai cả. Em giữ riêng nó cho mình thôi. Và có thể một ngày nào đó sau khi em qua đời, con cháu của em sẽ muốn đọc nó để biết được hồi còn trẻ em sống như thế nào.”

Cô nghiêng nghiêng đầu. “Ngộ nhỡ em không có con cháu thì sao?”

Turner bất giác đưa tay vò tóc cô bé. “Em hỏi nhiều quá đấy, mèo con ạ.”

“Nhưng nhỡ em không có con cháu thì sao?”

Chúa ơi, cô bé thật cứng đầu. “Có lẽ em sẽ nổi tiếng.” Anh thở dài. “Và bọn trẻ học ở trường sẽ muốn được biết về em.”

Miranda ném cho anh ánh mắt hoài nghi.

“Ôi, thôi được rồi, em muốn biết tại sao anh thật sự nghĩ em nên viết nhật ký không?”

Cô bé gật đầu.

“Bởi vì một ngày nào đấy em sẽ lớn lên và trở thành chính mình, em sẽ xinh đẹp và thông minh. Rồi em có thể đọc lại nhật ký và nhận ra những đứa con gái như Fiona Bennet mới ngốc nghếch làm sao. Và em sẽ cười khi nhớ lại rằng mẹ em đã nói chân em dài tới tận nách. Và có thể em sẽ dành cho anh một nụ cười tủm tỉm khi nhớ lại buổi trò chuyện tuyệt vời giữa chúng ta hôm nay.”

Miranda ngước nhìn anh, nghĩ rằng anh chắc hẳn phải là một trong những vị thần Hy Lạp mà ba vẫn thường đọc cho mình nghe. “Anh biết em nghĩ gì không?” cô bé thì thầm. “Em nghĩ Olivia rất may mắn vì có anh là anh trai.”

“Anh nghĩ nó rất may mắn vì có em là bạn.”

Môi Miranda run run. “Em sẽ dành cho anh một nụ cười rạng rỡ, Turner ạ,” cô bé thì thầm.

Anh cúi xuống ân cần hôn lên mu bàn tay của cô bé đúng như anh hẳn sẽ làm với một tiểu thư xinh đẹp nhất London. “Hãy chờ xem nhé, mèo con.” Anh mỉm cười và gật đầu chào trước khi lên ngựa, dắt con ngựa cái của Olivia đi đằng sau.

Miranda dõi theo cho tới khi anh biến mất ở đường chân trời, rồi cô bé cứ nhìn đăm đăm thế thêm mười phút tuyệt vời nữa.

Khuya hôm đó Miranda thơ thẩn đi vào phòng làm việc của ba. Ông đang cắm cúi vào một văn bản, quên bẵng cây nến sáp đang nhỏ giọt trên bàn làm việc.

“Ba, đã bao nhiêu lần con phải nhắc ba để ý đến mấy cây nến rồi ạ?” Cô bé thở dài đặt cây nến vào giá cắm.

“Gì cơ? Ồ, con yêu.”

“Và ba cần nhiều hơn một cây nến. Ở đây tối quá không thể đọc được.”

“Thế à? Ba không để ý.” Ông chớp mắt và rồi nheo lại. “Không phải đã quá giờ đi ngủ của con rồi à?”

“Vú nói đêm nay con có thể thức thêm ba mươi phút nữa.”

“Vú nói vậy à? Ờ ờ, miễn là bà ấy đồng ý.” Ông lại cắm cúi trở lại bản thảo, tỏ ý không muốn nói chuyện nữa.

“Ba à.”

Ông thở dài. “Gì nữa thế, Miranda?”

“Ba có quyển sổ thừa nào không? Giống như những cuốn ba dùng khi đang dịch ấy, nhưng là trước khi ba chép ra bản nháp cuối cùng cơ?”

“Chắc là có đấy.” Ông mở ngăn kéo dưới cùng của bàn làm việc ra lục tìm trong đó. “Đây rồi. Nhưng con muốn làm gì với nó thế? Đây là một cuốn sổ rất tốt, con biết đấy, và không rẻ đâu.”

“Con sẽ viết nhật ký.”

“Bây giờ ư? À, thế thì ba cho là cuốn sổ này xứng đáng đấy.” Ông đưa cuốn sổ cho Miranda.

Cô bé cười rạng rỡ trước lời tán dương của ba. “Cảm ơn ba. Con sẽ cho ba biết khi nào hết chỗ viết và cần một cuốn khác.”

“Được rồi. Chúc ngủ ngon, con yêu.” Ông quay trở lại với đống giấy tờ của mình.

Miranda ôm cuốn sổ vào ngực chạy lên lầu về phòng ngủ. Cô bé lấy ra một lọ mực và cây bút lông rồi mở cuốn sổ ra. Ở trang đầu tiên, cô bé ghi ngày tháng, và rồi, sau một hồi cân nhắc, cô viết một dòng duy nhất. Dường như đó là tất cả những gì cần viết.

2 THÁNG BA 1810

Hôm nay mình đã yêu.

Nigel Bevelstoke, vốn được tất cả những kẻ muốn lấy lòng anh biết đến nhiều hơn với cái tên Turner, biết rất nhiều thứ.

Anh biết đọc tiếng Latin và tiếng Hy Lạp. Anh biết tán tỉnh phụ nữ bằng tiếng Pháp và tiếng Ý.

Anh biết vừa cưỡi ngựa vừa nhắm bắn một mục tiêu di động, và biết chính xác phải uống bao nhiêu ly thì không đánh mất phẩm giá địa vị của mình.

Anh biết tung một nắm đấm hoặc một đường gươm với phong thái bậc thầy, và cũng có thể làm cả hai việc đó trong khi vẫn ngâm nga Shakespeare hay Donne đầy duyên dáng.

Tóm lại, anh biết mọi thứ mà một quý ông nên biết, và theo những thông tin thu được thì anh xuất sắc trong mọi lĩnh vực.

Người ta nhìn ngắm anh.

Người ta tôn kính anh.

Nhưng không có gì - không một giây nào trong cuộc đời xuất chúng và vinh quang của anh - giúp anh chuẩn bị sẵn sàng để đối mặt với thời khắc này. Và chưa bao giờ anh cảm thấy sức nặng của những ánh mắt soi xét dè chừng nhiều như lúc này, khi anh bước tới trước và ném nắm đất lên quan tài của vợ mình.

Tôi rất lấy làm tiếc, người ta cứ nói đi nói lại mãi. Tôi rất lấy làm tiếc. Chúng tôi rất lấy làm tiếc.

Và trong lúc đó, Turner không thể ngăn được cái ý nghĩ rằng không biết có phải đang cười anh không, bởi vì tất cả những gì anh có thể nghĩ đến là...

Tôi không thấy tiếc.

À, Leticia. Anh cảm ơn cô ta rất nhiều về điều đó.

Hãy xem nên bắt đầu từ đâu thì hợp lý? Danh tiếng của anh bị tổn hại, dĩ nhiên rồi. Chỉ quỷ sứ mới biết có bao nhiêu người tường tận rằng anh là kẻ bị cắm sừng.

Một lần, hai lần, ba lần,...

Thế rồi đến bản tính trong sáng của anh cũng mất. Giờ đây, thật khó lòng hồi tưởng lại, nhưng anh đã từng không hề nghi ngờ bất cứ ai. Anh đã từng tuyệt đối tin vào những gì tốt đẹp nhất của con người - rằng nếu anh đối xử với người khác bằng danh dự và sự kính trọng thì họ sẽ làm như vậy với anh.

Và cuối cùng, linh hồn anh cũng mất.

Bởi vì trong khi anh bước lùi lại, chắp hai tay cứng nhắc phía sau lắng nghe vị linh mục chuyển thân xác Leticia vào lòng đất, anh không thể trốn chạy cái thực tế là anh đã ao ước điều này xảy ra. Anh muốn thoát khỏi cô ta.

Anh đã và sẽ không than khóc cho cô ta.

“Thật đáng tiếc,” ai đó phía sau anh thì thào nói.

Quai hàm Turner giần giật. Không có gì đáng tiếc ở đây. Nó là một trò hề. Và bây giờ anh sẽ dùng một năm sắp tới để tang cho một người phụ nữ đến với anh mà lại mang thai đứa con của kẻ khác. Cô ta làm anh mê mẩn, bỡn cợt anh cho tới khi anh không thể nghĩ đến điều gì khác ngoài việc chiếm cho được cô ta. Cô ta nói rằng cô ta yêu anh, và cô ta mỉm cười với vẻ ngây thơ dịu dàng đầy vui sướng khi anh tuyên thệ lòng tận tâm và cam kết bằng cả linh hồn mình.

Cô ta đã từng là giấc mơ ngọt ngào của anh.

Và rồi cô ta trở thành ác mng của anh.

Cô ta mất đứa bé đó, đứa trẻ đã dẫn đến cuộc hôn nhân của họ. Bố nó là một vị Bá tước người Ý nào đó, ít nhất là cô ta nói thế. Gã đã có vợ, hoặc không phù hợp, hoặc có lẽ cả hai. Turner đã sẵn sàng tha thứ cho cô ta, ai cũng phạm sai lầm, và cả anh cũng vậy còn gì, chẳng phải anh muốn dụ dỗ cô ta trước đêm tân hôn đó sao?

Nhưng Leticia không muốn tình yêu của gã. Anh không biết cô ta muốn cái quái quỷ gì nữa - quyền lực, có lẽ thế, cơn say thỏa mãn khi hãy còn người đàn ông khác đổ nhào xuống vì bùa mê của cô ta.

Turner tự hỏi liệu cô ta có cảm thấy thế khi gã chết không. Hay có lẽ nó chỉ là một sự giải thoát. Tính đến khi Turner và cô ta cưới nhau, cô ta đã mang thai được ba tháng. Cô ta không có nhiều thời gian rảnh.

Và giờ thì cô ta đây. Hay đúng hơn là, cô ta kia. Turner không biết chính xác dùng từ nào là thích đáng hơn cả cho cái thân xác không còn sự sống trong lòng đất ấy.

Mà từ nào cũng được. Anh chỉ thấy tiếc rằng cô ta sẽ chia sẻ sự vĩnh hằng trong mảnh đất của anh, yên nghỉ giữa những người nhà Bevelstoke mãi mãi. Bia đá của cô ta sẽ mang tên anh, và rồi một trăm năm nữa người nào đó sẽ nhìn vào dòng chữ khắc trên tấm đá granit kia mà nghĩ cô ta chắc hẳn là một phu nhân đáng kính, và tự hỏi bi kịch gì đã khiến cô ta ra đi khi còn quá trẻ như vậy.

Turner ngước nhìn vị linh mục. Ông ta trẻ nhất trong các đồng đạo, mới đến giáo xứ, và theo anh biết thì vị linh mục này vẫn còn niềm tin rằng có thể biến thế gian này thành một nơi tốt đẹp hơn.

“Tro tàn trở về với tro tàn,” linh mục vừa nói vừa nhìn lên người đàn ông giờ đã trở thành góa vợ.

À phải, Turner chua chát nghĩ, đó là mình.

“Cát bụi trở về với cát bụi.”

Phía sau anh, có ai đó sụt sịt.

Và vị linh mục, với đôi mắt xanh sáng ngời ánh lên niềm cảm thông được đặt hoàn toàn không đúng chỗ, tiếp tục nói...

“Trong niềm hy vọng chắc chắn và vững vàng vào sự hồi sinh...”

Chúa nhân từ.

“... tới cuộc sống vĩnh hằng.”

Vị linh mục nhìn Turner và thực sự nao núng. Turner thắc mắc không rõ chính xác thì ông ta nhìn thấy gì trên gương mặt anh. Chẳng có gì tốt đẹp, điều đó hẳn quá rõ ràng rồi.

Ai nấy đồng thanh “Amen!”, và rồi buổi lễ kết thúc. Mọi người nhìn vị linh mục, rồi nhìn Turner, sau đó lại nhìn vị linh mục siết chặt hai bàn tay của Turner mà nói: “Mọi người sẽ nhớ cô ấy.”

“Tôi,” Turner nén lại, “thì không.”

Mình không thể tin anh ấy lại nói thế.

Miranda nhìn xuống những dòng cô đã viết. Cô đang ở trang thứ bốn mươi hai của cuốn nhật ký thứ mười ba, nhưng đây là lần đầu tiên - lần đầu tiên kể từ sau cái ngày định mệnh chín năm về trước - cô không biết viết gì cả. Ngay cả trong những tháng ngày xám xịt ảm đạm (mà chúng thường xuyên xuất hiện), cô cũng xoay xở để viết được một đoạn dài.

Tháng Năm năm cô mười bốn tuổi...

Thức dậy.

Mặc quần áo.

Ăn sáng: bánh mì nướng, trứng, thịt lợn muối.

Đọc Lý trí và Tình cảm; được sáng tác bởi một tiểu thư vô danh.

Giấu Lý trí và Tình cảm.

Ăn tối: thịt gà, bánh mì, pho mát.

Chia động từ tiếng Pháp.

Viết thư cho bà ngoại.

Ăn khuya: bò bít tết, xúp, bánh pudding.

Đọc tiếp Lý trí và Tình cảm, nhận diện về tác giả

vẫn chưa biết.

Lui về nghỉ ngơi.

Ngủ.

Mơ về anh.

Còn đây là những điều cô ghi vào ngày 12 tháng Mười một cùng năm đó...

Thức dậy.

Ăn sáng: Trứng, bánh mì nướng, giăm bông.

Thực hiện một cuộc biểu dương vĩ đại đọc bi kịch Hy Lạp. Không có kết quả.

Dành nhiều thời gian nhìn chăm chăm ra ngoài cửa sổ.

Ăn trưa: cá, bánh mì, đậu Hà Lan.

Chia động từ Latin.

Viết thư cho bà ngoại.

Ăn khuya: bánh mì nướng, khoai tây, bánh pudding.

Mang bi kịch đến bàn (sách, không phải sự kiện).

Ba không.

Lui về nghỉ ngơi.

Ngủ.

Mơ về anh.

Nhưng bây giờ - khi một sự kiện trọng đại đã thực sự xảy ra (điều chưa bao giờ xảy ra) thì cô lại chẳng có gì để viết ngoại trừ...

Mình không thể tin anh ấy lại nói thế.

“Than ôi, Miranda,” cô lầm bầm, nhìn mực khô đi trên đầu cây viết lông, “mày sẽ không nổi danh được với tư cách là một người viết nhật ký đâu.”

“Cậu vừa nói gì vậy?”

Miranda đóng ngay cuốn nhật ký lại. Cô không nhận ra là Olivia đã vào phòng.

“Không có gì,” cô vội đáp.

Olivia băng qua tấm thảm và ngồi phịch lên giường. “Thật là một ngày kinh khủng.”

Miranda gật đầu, xoay người lại để đối diện với cô bạn.

“Mình mừng là cậu ở đây,” Olivia thở dài. “Cảm ơn cậu vì còn ở lại cả buổi tối.”

“Dĩ nhiên rồi,” Miranda đáp. Đó là chuyện đương nhiên khi mà Olivia đã nói cô ấy cần Miranda.

“Cậu đang viết gì thế?”

Miranda nhìn xuống cuốn nhật ký, chỉ khi đó cô mới nhận ra hai bàn tay mình đang đặt lên bìa của nó theo kiểu che giấu. “Không có gì,” cô nói.

Olivia vẫn đang nhìn đăm đăm lên trần nhà, nhưng lúc đó tình cờ ánh mắt của Miranda lại nhìn đúng vào cô. “Không thể thế

“Đáng buồn là nó đúng thế thật.”

“Tại sao lại đáng buồn?”

Miranda chớp mắt. Olivia luôn đưa ra những câu hỏi rõ ràng nhất - và những câu hỏi này sẽ nhận được những câu trả lời ít rõ ràng nhất.

“À,” Miranda mở lời, cô đi thẳng vào vấn đề không hẳn vì bị buộc phải trả lời ngay - Miranda đã nhận ra điều này khi cô rời khỏi nhà Olivia. Cô dịch hai bàn tay ra và nhìn xuống cuốn nhật ký như thể câu trả lời sẽ tự hiện lên mặt bìa một cách thần kỳ vậy. “Đây là tất cả những gì mình có. Nó là mình.”

Olivia nhìn vẻ hồ nghi. “Nó là một quyển sách mà.”

“Nó là cuộc đời mình.”

“Tại sao người ta lại bảo là mình hay tạo kịch tính nhỉ?” Olivia phát biểu.

“Mình không bảo nó là cuộc đời của mình,” Miranda nói với một thoáng nóng nảy, “chỉ là nó chứa đựng cuộc đời mình. Mọi điều. Tớ đã viết mọi điều vào trong đó. Kể từ khi lên mười.”

“Mọi điều ư?”

Miranda nghĩ đến bao ngày qua mình đã nghiêm túc ghi chép lại mình đã ăn gì và những điều nhỏ nhặt khác nữa. “Mọi điều.”

“Mình không đời nào viết nhật ký được.”

“Đúng thế.”

Olivia lăn người nằm nghiêng một bên, chống khuỷu tay ngóc đầu lên. “Cậu không cần phải tán đồng nhanh chóng thế đâu.”

Miranda chỉ mỉm cười.

Olivia nằm phịch xuống. “Tớ nghĩ cậu sẽ viết trong đ rằng tớ không thể chú tâm vào chuyện gì quá một phút.”

“Tớ đã viết rồi.”

Im lặng, và rồi: “Thật hả?”

“Tớ tin mình đã viết rằng cậu dễ chán nản.”

“Thế à,” bạn cô đáp với một thoáng lơ đãng, “gần đúng rồi.”

Miranda nhìn xuống bàn. Ngọn nến đang rót thứ ánh sáng lung linh xuống cuốn nhật ký và cô bỗng cảm thấy thật mệt mỏi. Mệt mỏi, nhưng rủi thay lại không buồn ngủ.

Mệt lử, có lẽ thế. Bồn chồn không yên.

“Mình kiệt sức rồi,” Olivia tuyên bố, trượt xuống giường. Hầu gái của cô đã để sẵn bộ áo ngủ trên tấm chăn đệm, và Miranda lịch sự quay đầu đi trong khi Olivia thay đồ.

“Cậu nghĩ Turner sẽ lưu lại ở nông thôn bao lâu?” Miranda hỏi, cố gắng không cắn vào lưỡi. Cô căm ghét chuyện mình vẫn còn tuyệt vọng liếc nhìn anh, nhưng nó đã như vậy từ bao nhiêu năm nay rồi. Ngay cả khi anh kết hôn, cô ngồi trên dãy ghế nhà thờ trong lễ cưới của anh, ngắm anh nhìn cô dâu đầy ý nghĩa với tất cả tình yêu và sự dâng hiến, thứ cảm xúc cũng đang bùng cháy trong trái tim cô...

Cô vẫn ngắm nhìn anh. Cô vẫn yêu anh. Cô sẽ luôn yêu anh. Anh là người đàn ông đã khiến cô tin vào chính mình. Anh không biết anh đã làm điều đó cho cô - điều mà anh đã làm vì cô - và có lẽ anh sẽ không bao giờ biết. Nhưng Miranda vẫn đau đớn vì anh. Và có lẽ cô sẽ luôn như thế.

Olivia trườn vào giường. “Cậu còn thức lâu không?” cô hỏi, giọng bắt đầu ngái ngủ.

“Không lâu đâu,” Miranda đảm bảo với bạn. Olivia không ngủ được khi có nến thắp ở quá gần. Miranda không thể hiểu được, vì ngọn lửa trong vỉ lò sưởi dường như chẳng làm phiền Olivia, nhưng vì thấy Olivia trở người quay mặt đi nên khi nhận ra tâm trí mình vẫn không chịu ngừng sà “không lâu” hơi có vẻ là một lời nói dối, cô bèn cúi xuống thổi tắt nến.

“Mình sẽ mang nó đến chỗ khác,” cô nói, kẹp cuốn nhật ký dưới cánh tay.

“Cảm ơn cậu,” Olivia lẩm bẩm. Đến khi Miranda kéo tấm áo choàng lên người và ra đến hành lang thì bạn cô đã ngủ rồi.

Miranda kẹp cuốn nhật ký dưới cằm ép chặt vào xương đòn để rảnh hai tay buộc dải áo thắt quanh eo. Cô là khách ngủ lại qua đêm thường xuyên ở Haverbreak, nhưng dù vậy thì cũng không thể có chuyện đi lang thang trong hành lang nhà người khác mà chẳng mặc gì ngoài bộ áo ngủ.

Đêm tối như bưng, không có gì ngoài ánh trăng lọt qua khe cửa dẫn đường cho cô, nhưng dù có nhắm mắt thì Miranda vẫn có thể tìm đường đi từ phòng Olivia đến thư viện. Olivia thường ngủ trước cô - có quá nhiều ý nghĩ ào ạt trong đầu cô, Olivia tuyên bố thế - và bởi vậy Miranda thường xuyên mang nhật ký của cô sang phòng khác để ghi chép những gì đang suy ngẫm. Cô đồ rằng mình có thể yêu cầu một phòng ngủ riêng, nhưng mẹ Olivia lại không thích hoang phí và thấy chẳng có lý do gì để sưởi ấm hai căn phòng trong khi một phòng là đủ rồi.

Miranda không bận tâm. Thực lòng cô rất biết ơn vì sự bầu bạn này. Dạo gần đây nhà cô quá lặng lẽ. Người mẹ yêu quý của cô đã qua đời gần một năm trước, để Miranda lại một mình với ba. Trong nỗi buồn đau, ông nhốt mình cùng những tập bản thảo quý giá, xa cách tất cả, mặc cô con gái tự lo liệu cho bản thân. Miranda đành quay sang kiếm tìm tình yêu và tình bạn ở gia đình Bevelstoke, được họ chào đón với vòng tay rộng mở. Olivia thậm chí còn mặc đồ tang trong ba tuần để tỏ lòng tôn kính Phu nhân Cheever.

“Nếu có anh chị em họ nào của mình qua đời, mình cũng buộc phải làm như thế,” Olivia nói trong đám tang. “Mà mình thì chắc chắn yêu quý mẹ cậu hơn bất cứ anh chị em họ nào của mình rồi.”

“Olivia!” Miranda hết sức cảm động, nhưng dù sao thì cô nghĩ mình phải thấy bị sốc mới phải.

Olivia đảo mắt. “Cậu đã gặp anh chị em họ của mình mình chưa nhỉ?”

Miranda bật cười. Trong tang lễ của mẹ mình mà cô lại cười. Sau đó cô nhận ra, đấy chính là món quà quý giá nhất mà bạn cô có thể tặng cho cô.

“Mình yêu cậu, Livvy ạ,” cô nói.

Olivia nắm tay cô, khẽ nói. “Mình biết mà. Mình cũng yêu cậu.” Thế rồi Olivia rướn thẳng hai vai với dáng vẻ đúng đắn thường có. “Có lẽ nếu không có cậu thì mình đã trở thành một kẻ không thể chữa nổi rồi. Mẹ mình thường nói cậu là lý do duy nhất ngăn mình thẳng thừng ném ra một lời công kích không thể vãn hồi nào đó.”

Miranda nghĩ có lẽ vì lý do ấy mà Phu nhân Rudland đã mời cô đến London sống một mùa vũ hội. Lúc nhận được lời mời, ba cô đã thở phào nhẹ nhõm và nhanh chóng gửi những khoản tiền cần thiết. Ngài Rupert Cheever không đặc biệt giàu có nhưng ông đủ sức chu cấp cho cô con gái duy nhất của mình ở London một mùa hội. Điều ông thiếu là sự kiên nhẫn cần thiết - hoặc nói thẳng ra, là sự hứng thú - để tự mình đưa con gái đi.

Lần ra mắt đầu tiên của họ bị hoãn lại một năm. Miranda không thể đi trong khi đang chịu tang mẹ, và Phu nhân Rudland đã quyết định cho phép Olivia cùng đợi. Bà tuyên bố mười chín hay hai mươi cũng thế cả thôi. Và quả đúng vậy thật, chẳng có cớ gì để nghi ngờ về việc Olivia là một đám kết hôn tuyệt vời. Với vẻ ngoài lộng lẫy, tính hoạt bát sôi nổi, kèm theo đó, như Olivia đã châm biếm chỉ ra, là đống của hồi môn nặng ký, chắc chắn cô sẽ thành công.

Nhưng cái chết của Leticia, không chỉ là chuyện đáng buồn mà còn xảy ra rất không đúng lúc; giờ thì Olivia sẽ phải chịu tang thêm một thời gian nữa. Tuy nhiên, Olivia có thể tự do sau sáu tuần, vì Leticia không phải chị em ruột.

Họ sẽ tham gia mùa hội chậm một chút. Điều đó thì không thể tránh được.

Miranda mừng thầm. Ý nghĩ về một buổi khiêu vũ ở London rõ ràng làm cô kinh hãi. Chắc chắn cô không e thẹn rồi, bởi vì cô không nghĩ mình là người như thế. Chỉ là cô không thích đám đông, và cái ý tưởng có quá nhiều người sẽ nhìn chăm chăm vào mình để bình luận đánh giá thật đúng là kinh khủng.

Không thể tránh được, cô vừa dò đường đi xuống cầu thang vừa nghĩ. Và bất kể thế nào đi nữa thì mọi chuyện cũng còn tốt hơn chán vạn so với việc ló mặt ở Ambleside mà không có Olivia đi cùng.

Miranda dừng lại một chút ở chân cầu thang, quyết định xem sẽ đi đâu. Phòng khách ở phía Tây có bàn viết tốt hơn, nhưng thư viện lại ấm áp hơn, và tối nay là một đêm buốt giá. Mặt khác...

Hừm... cái gì thế?

Cô nép vào một bên, ngó xuống hành lang. Có ai đó đang đốt lò sưởi trong phòng làm việc của ngài Rudland. Miranda không nghĩ ra ai vẫn còn thức giờ này. Người nhà Bevelstoke thường đi nghỉ rất sớm.

Cô bước lặng lẽ dọc theo tấm thảm trải sàn đến chỗ cánh cửa để mở.

“Ô!”

Từ ghế bành của bố mình, Turner ngẩng lên nhìn. “Tiểu thư Miranda,” anh nói giọng lè nhè, vẫn giữ nguyên tư thế uể oải lười biếng, không hề nhúc nhích dù chỉ một thớ thịt. “Ngạc nhiên ghê.”

Turner không biết tại sao mình lại chẳng hề ngạc nhiên khi thấy tiểu thư Miranda Cheever đứng ở ngưỡng cửa phòng làm việc của ba anh. Khi nghe tiếng bước chân trong hành lang, anh đã phần nào đoán được đó là cô. Thật thế, gia đình anh đều có thói ngủ say như chết, và thật khó nếu giờ này một người trong bọn họ còn có thể thức đi thơ thẩn trong hành lang để tìm đồ ăn vặt hoặc thứ gì đó để đọc.

Nhưng ngoài phép loại trừ ra, còn một điều nữa khiến anh nghĩ Miranda là lựa chọn hiển nhiên. Cô ta là một kẻ theo dõi, là người luôn ở đó, luôn quan sát mọi chuyện bằng cặp mắt tinh anh như cú. Anh không thể nhớ lần đầu tiên gặp cô ta là khi nào - có thể là trước khi cô gái mảnh dẻ này hết tuổi con nít. Cô ta cứ ở lì ra, thật vậy, không hiểu thế nào mà luôn luôn ở đó, thậm chí ngay cả những dịp như thế này, khi đáng lẽ chỉ nên dành cho người trong gia đình với nhau thôi.

“Em sẽ đi,” cô nói.

“Không, đừng,” anh đáp, bởi vì... bởi vì tại sao nhỉ?

Bởi vì anh cảm thấy muốn bày trò tinh quái ư?

Bởi vì anh có quá nhiều rượu để uống ư?

Bởi vì anh không muốn cô đơn ư?

“Hãy ở lại,” anh khoát tay. Chắc chắn phải có chỗ nào đấy để ngồi ở đây. “Uống một ly đã.”

Mắt cô mở lớn.

“Mắt cô không thể to hơn nữa đâu,” anh lầm bầm.

“Em không biết uống,” cô nói.

“Cô không biết á?”

“Em không nên uống,” cô sửa lại, và anh nghĩ mình trông thấy đôi lông mày cô nhíu lại. Tốt, anh đã làm cô ta cáu tiết. Thật vui khi biết mình vẫn có thể khiêu khích phụ nữ, cho dù là một người chưa nếm mùi đời như cô ta.

“Cô đã ở đây rồi,” anh nói kèm theo một cái nhún vai. “Cô có thể uống một ly brandy cũng được.”

Trong thoáng chốc cô đứng lặng im như tượng, và anh có thể thề là nghe thấy bộ óc của cô đang kêu vo vo. Cuối cùng, cô đặt quyển sổ nhỏ của mình lên chiếc bàn cạnh cửa và tiến tới trước. “Chỉ một thôi nhé,” cô nói.

Anh cười. “Bởi vì cô biết giới hạn của mình à?”

Mắt cô gặp mắt anh. “Bởi vì em không biết giới hạn của mình.”

“Còn quá trẻ mà đã khôn ngoan đến thế

“Em mười chín rồi,” cô nói, không phải để tỏ ra ngang bướng mà đó chỉ là một lời tuyên bố thực tế.

Anh nhướn mày. “Như tôi đã nói...”

“Khi anh mười chín...”

Anh cười chua chát, để ý thấy cô không nói hết câu đó. “Khi tôi mười chín,” anh nhắc lại và đưa cho cô một phần brandy hào phóng, “tôi là một thằng ngốc.” Anh nhìn ly rượu đã rót cho mình, bằng với ly của Miranda. Anh nốc một hơi hết sạch rồi nuốt ực vẻ thỏa mãn.

Ly rượu chạm xuống bàn đánh cách, và Turner ngả người ra sau, đưa hai tay ra sau kê đầu. “Tôi nên bổ sung thêm là như tất cả những gã mười chín tuổi khác,” anh nói nốt câu.

Anh đưa mắt nhìn cô. Cô không chạm vào ly rượu của mình. Cô thậm chí còn chưa ngồi xuống. “Sự bầu bạn hiện tại có vẻ khá ngoại lệ,” anh cải chính.

“Em tưởng rượu brandy phải uống từng ngụm nhỏ,” cô nói.

Anh quan sát cô thận trọng di chuyển tới chỗ ngồi. Không phải ở bên cạnh anh, nhưng cũng không phải tít phía bên kia phòng. Ánh mắt cô không hề rời khỏi anh, và anh không thể không tự hỏi cô ta nghĩ anh định làm gì chứ. Nhảy xổ vào tấn công cô ta chắc?

“Brandy,” anh rao giảng, như thể đang nói với lượng khán giả lớn chứ không phải chỉ với một người, “ngon nhất khi uống trong bất cứ cái gì cầm vừa tay. Trong trường hợp này...” Anh cầm cái cốc của mình lên, xem xét nó, quan sát ánh lửa nhảy nhót dọc theo các mặt cắt khía của nó. Anh chẳng buồn nói hết câu. Dường như là không cần thiết, hơn nữa anh đang bận rót cho mình một cốc khác.

“Chúc sức khỏe!” Và lại nốc cạn nó.

Anh nhìn sang cô. Cô vẫn còn đang đó nhìn anh. Anh không thể nói là cô có tán thành hay không, vẻ mặt của cô thật khó dò. Nhưng anh ước cô nói điều gì đó. ất cứ điều gì, thậm chí những lời ngu dốt vô lý hơn nữa về ly uống rượu có chân cũng đủ để lôi kéo tâm trí anh xa rời cái thực tế là mới có mười một rưỡi, và anh còn phải sống thêm ba mươi phút nữa trước khi có thể tuyên bố cái ngày khốn khổ khốn nạn này đã kết thúc.

“Vậy nói tôi nghe, tiểu thư Miranda, cô thấy thích buổi lễ hôm nay chứ?” anh hỏi, ánh mắt thách thức cô dám nói điều gì khác vượt xa khỏi những lời lẽ vô vị tầm thường.

Vẻ ngạc nhiên hiện rõ trên gương mặt cô. Đó là cảm xúc đầu tiên của tối nay mà anh có thể nhận thức được rõ ràng. “Ý anh là tang lễ ư?”

“Buổi lễ duy nhất trong ngày,” anh nói, vẻ khoái chí hể hả.

“Nó, ờ, khá thú vị.”

“Ồ, thôi nào, tiểu thư Cheever, cô có thể làm tốt hơn thế mà.”

Cô cắn môi dưới. Leticia cũng từng làm thế, anh nhớ lại. Cái thời cô ta vẫn còn giả vờ ngây thơ. Nó đã chấm dứt khi chiếc nhẫn của anh nằm an toàn trên ngón tay cô ta.

Anh rót một ly khác.

“Anh không nghĩ là...”

“Không,” anh nói kiên quyết. Tất cả brandy trên thế giới này cũng chưa đủ cho một đêm như đêm nay.

Thế rồi cô đưa tay ra cầm ly rượu của mình nhấp một ngụm. “Em đã nghĩ anh là người rất tuyệt vời.”

Quỷ tha ma bắt. Anh ho sặc sụa, như thể anh chỉ là cậu bé con lần đầu nếm rượu brandy. “Cô vừa bảo gì?”

Cô mỉm cười điềm tĩnh. “Uống những ngụm nhỏ hơn thì sẽ không bị sặc thế.”

Anh trừng mắt nhìn cô.

“Thật hiếm có ai lại nói thật về một người đã chết,” cô nói. “Em không chắc đó là điều thích hợp nhất, nhưng... ờ... chị ấy không hẳn quá tốt đẹp gì, đúng không?”

Trông cô thật quá trong sáng, quá ngây thơ, nhưng ánh mắt cô... rất sắc sảo.

“Tại sao, hả tiểu thư Cheever,” anh thì thào, “tôi thực sự tin cô hơi thiếu khoan dung đấy.”

Cô nhún vai và nhấp một ngụm nữa từ ly của mình, một ngụm nhỏ, anh để ý. “Hoàn toàn không đúng,” cô nói, mặc dù chắc chắn anh không tin cô, “nhưng em là một người quan sát tốt.”

Anh cười thầm. “Quả đúng thế thật.”

Cô cứng người. “Xin lỗi.”

Anh đã làm cô mất bình tĩnh. Anh không biết tại sao lại thấy thật thỏa mãn, nhưng anh không thể ngăn cảm giác hài lòng. Đã quá lâu rồi anh không thấy hài lòng về bất cứ điều gì. Anh nhoài người tới trước, chỉ để xem liệu anh có thể làm cô lúng túng không. “Tôi vẫn luôn quan sát cô.”

Cô tái nhợt. Thậm chí trong ánh lửa anh cũng có thể thấy rõ điều đó.

“Cô có biết tôi đã thấy gì không?” anh thì thầm.

Đôi môi cô hé mở và cô lắc đầu.

“Cô vẫn luôn dõi theo tôi.”

Cô đứng bật dậy, đột ngột đến nỗi gần như hất chiếc ghế lật nhào. “Em nên đi,” cô nói. “Chuyện này thật không đúng phép tắc và đã khuya rồi, và...”

“Ồ, thôi nào, tiểu thư Cheever,” anh vừa nói vừa nhỏm dậy. “Đừng cáu. Cô quan sát mọi người. Cô nghĩ tôi không nhận thấy sao?”

Anh túm lấy cánh tay cô. Cô đông cứng lại. Nhưng cô không thể xoay người đi.

Những ngón tay anh siết chặt. Chỉ là một sự đụng chạm. Chỉ đủ để giữ cho cô khỏi bỏ đi bởi vì anh không muốn cô đi. Anh không muốn cô đơn một mình. Anh còn hai mươi phút nữa, và anh muốn cô tức giận, chỉ vì anh đang tức giận, chỉ vì anh đã tức giận từ nhiều năm nay rồi.

“Nói cho tôi biết nào, tiểu thư Cheever,” anh thì thầm, chạm nhẹ hai ngón tay dưới cằm cô. “Cô đã hôn bao giờ chưa?”