ai thành viên trong đội theo dõi của Navot kịp băng qua biên giới Ý về hướng nam trước khi tuyết bít lối ra khỏi núi. Hai người khác đi về hướng đông và tiến vào nội địa Áo. Navot đi cùng với Moshe sang Paris để thiết lập hệ thống an ninh bảo vệ Hannah Weinberg. Gabriel đưa Sarah rời khỏi Zug bằng đường bay cá nhân. Họ ngồi sát bên nhau như đôi tình nhân. Gabriel vừa lái xe vừa vòng tay quanh vai cô, còn Sarah úp khuôn mặt đẫm nước mắt vào cổ anh. Lúc 4 giờ 30 phút, máy bay lao vào những đám mây rồi biến mất. Carter và Gabriel không đi trên chuyến bay này.
“Được rồi Gabriel, tôi đang lắng nghe đây”.
“Sarah đã gặp bin Shafiq ở Zurich. Hắn nói sẽ tấn công Vatican một lần nữa”.
Carter khẽ chửi thề.
“Hôm nay Tổng thống của các ông sẽ đến Rome, đúng không?”.
“Đúng vậy”.
“Theo lịch trình thì mấy giờ ông có mặt tại Vatican?”
“Đầu giờ trưa”.
“Giờ nào cũng có chuyến bay từ Zurich đến Rome. Nếu khẩn trương chúng ta có thể bắt kịp chuyến bay lúc bảy giờ”.
“Anh lái xe đi”, Carter nói.
Gabriel nổ máy xe và hướng về phía Zurich. Carter gọi điện cho Tổng hành dinh CIA yêu cầu được nói chuyện với người đứng đầu Cục Tình báo Hoa Kỳ.
Carter nói chuyện điện thoại suốt trong ba mươi phút đầu của chuyến đi. Khi những ánh đèn thành phố Zurich thấp thoáng hiện ra giữa lớp sương mù phía bắc hồ, anh ta ngưng điện thoại và nhìn Gabriel.
“Sarah sẽ tiếp đất tại căn cứ bay Ramstein trong vòng một tiếng nữa. Cô ấy sẽ được đưa đến bệnh viện quân sự Mỹ để khám toàn diện”.
“Bác sỹ của anh nói gì?”
“Tình trạng của cô ấy giống như anh. Mặt bị trầy và dập. Bị chấn động nhẹ. Mắt trái bị thương tổn. Bụng bị thương nặng. Hai xương sườn bị nứt. Hai ngón chân cái bị gãy. Tôi không hiểu sao chúng lại dã man như vậy”.
“Bọn chúng kéo lê cô ấy xuống các bậc thang”.
“À, còn chứng giảm nhiệt. Tôi đoán có thể do bị nhốt trong thùng xe. Dù sao đi nữa, mọi chuyện có thể còn tệ hơn. Cô ấy còn sống sót là may mắn lắm rồi”.
“Hãy đảm bảo luôn có người bên cạnh Sarah”, Gabriel nói. “Nhỡ đâu cô ấy vô tình phun ra những bí mật của chúng ta với các bác sỹ tại Ramstein”.
“Không phải lo, Gabriel. Cô ấy đang được chăm sóc bởi những đôi tay thành thạo”.
“Cô ấy bảo mình đã khai ra những bí mật”.
“Dĩ nhiên cô ấy phải khai ra. Bố khỉ, đến tôi cũng còn phải khai nữa là”.
“Ông nên nhìn căn phòng đó”.
“Nói thật, tôi mừng là mình không nhìn thấy. Tôi không thành thạo loại công việc đó. Thỉnh thoảng tôi lại thấy tiếc nuối những ngày tươi đẹp thời Chiến Tranh Lạnh, khi tôi không phải dính dấp đến những thứ tra tấn, máu me”. Carter nhìn Gabriel. “Tôi đoán những thứ này luôn đi đôi với công việc của anh, đúng không?”
Gabriel phớt lờ câu hỏi. “Sarah kể với chúng mọi thứ để có thêm thời gian. Vấn đề ở đây là trước khi chúng tôi đến, Muhammad đã kịp báo cáo bất cứ điều gì trong lời khai của Sarah cho cấp trên của hắn trước chưa?”
“Anh có quyển sổ tay của hắn đấy không?”
Gabriel vỗ nhẹ vào túi trên chiếc áo khoác bằng da.
“Chúng tôi sẽ hỏi Sarah sau khi cô ấy phục hồi”.
“Có thể cô ấy không nhớ hết những gì đã kể với chúng. Cô ấy bị đánh thuốc mê”.
Họ nín lặng một lúc lâu. Mặc dù vẫn còn sớm, trên đường đã có xe của những người phải đi làm xa. Những nhà tài chính Thụy Sĩ chăm chỉ, Gabriel thầm nghĩ. Anh tự hỏi không biết bao nhiêu người trong số này làm việc cho những công ty có liên quan đến Tập đoàn AAB tại Riyadh, Geneva, và những nơi khác.
“Ông có nghĩ họ sẽ cho tôi lên máy bay không, Adrian?”
“Gustav đảm bảo với tôi chúng ta sẽ không gặp rắc rối khi lên máy bay”.
“Có lẽ anh thì không sao. Nhưng tôi có một quá khứ không mấy sáng sủa tại Zurich”.
“Ông có quá khứ đầy màu sắc ở khắp nơi. Đừng lo, Gabriel. Họ sẽ để cho anh lên máy bay”.
“Anh chắc chắn là cậu bạn Gustav của anh giữ mọi thứ yên ắng chứ?”
“Giữ cho cái gì yên ắng?”
Carter mỉm cười mệt mỏi. “Trong khi chúng ta đang nói chuyện này thì một đội dọn dẹp đã lên đường đến Uri. Gustav sẽ đảm bảo bí mật về nơi đó cho tới khi đội đến. Rồi sau đó…”. Ông ta nhún vai. “Sẽ như chưa từng có chuyện gì xảy ra”.
“Các ông xử lý ra sao với các xác chết?”
“Chúng tôi không chỉ có những nơi giam cầm bí mật ở Đông Âu. Bọn chúng sẽ được chôn cất tử tế, mặc dù không xứng đáng được như vậy. Có lẽ một ngày nào đó, khi cuộc chiến vô tận này chấm dứt, chúng tôi có thể báo với người thân bọn chúng đi nhận xương cốt”. Carter vuốt thẳng ria mép. “Các anh cũng có một cái đúng không?”
“Cái gì?”
“Nghĩa trang bí mật? Ở đâu đó trong thung lũng Gioócđan?”
Gabriel nhìn hồi lâu vào kính chiếu hậu, nhưng không nói lời nào.
“Bao nhiêu thi thể, Gabriel? Anh nhớ không?”
“Dĩ nhiên tôi nhớ”.
“Vậy thì bao nhiêu? Đội dọn dẹp cần phải biết nên tìm ở đâu”.
Gabriel nói cho Carter hay. Hai thi thể trong chiếc Jeep. Hai tại bãi đất trống trước ngôi nhà. Một tại cửa sổ tầng một. Một tại cửa sổ tầng hai. Hai tại sảnh trung tâm. Hai tại cuối cầu thang. Và Muhammad.
“Mười một tên”, Carter nói. “Chúng tôi sẽ ghi nhớ tên từng đứa, sẽ tìm ra chúng là ai và tìm hiểu xem chúng đang âm mưu làm chuyện gì. Có thể nói tối nay các anh đã xóa sổ được một nhà tù lớn cùng một tên cấp cao trong tổ chức của bin Shafiq”.
“Chúng tôi vẫn chưa tìm được kẻ chúng tôi muốn”.
“Có điều gì đó mách bảo tôi rằng rồi anh sẽ tóm được hắn”.
“Ít nhất hai tên trong số chúng là người châu Âu. Uzi nghe bọn chúng nói chuyện bằng tiếng Đức giọng Thụy Sĩ”.
“Tôi e rằng bọn chúng vẫn phải bị chôn chung với những tên chiến sỹ Hồi giáo. Tôi nghĩ bọn chúng cũng muốn điều đó”. Carter liếc nhìn đồng hồ. “Anh không lái xe nhanh hơn được à?”
“Tôi đang chạy ở tốc độ tám mươi cây số, Adrian. Ông kể với Cục Tình báo đến mức nào?”
“Tôi báo với họ là chúng ta đang có bằng chứng rất rõ ràng rằng những lực lượng Hồi giáo toàn cầu đang có âm mưu tấn công Tổng thống tại Vatican trưa nay. Tôi nhấn mạnh đến chữ ‘bằng chứng rõ ràng’. Cục Tình báo đã nhận được thông điệp. Tôi hi vọng được gặp Tổng thống một lúc vào cuối sáng nay. Ông ấy đang ở nhà của ngài đại sứ”.
“Ông ấy có thể hủy buổi gặp gỡ đó”.
“Chuyện đó sẽ không xảy ra”, Carter đáp. “Vatican đã trở thành biểu tượng dễ thấy nhất trên thế giới về tính nguy hiểm của khủng bố Hồi giáo. Tổng thống sẽ không bỏ qua cơ hội củng cố thông điệp của mình tại đó”.
“Lucchesi sẽ cằn nhằn bên tai ông ấy”.
“Tổng thống đã chuẩn bị tinh thần rồi”, Carter nói. “Về phần an ninh, Cục Tình báo đang sắp xếp với phía Ý để thay đổi kế hoạch di chuyển của Tổng thống. Trùng hợp là họ đã nghĩ về chuyện này trước khi nhận được cuộc gọi của tôi. Rome là một mớ hỗn độn. Người ta đoán là hôm nay sẽ có khoảng hai triệu người ra đường”.
“Thế thì làm sao Tổng thống đến Vatican được?”
“Đoàn ô tô hộ tống các nguyên thủ quốc gia thường tiến để tới Toà thánh qua cổng Thánh Anne, sau đó đi qua Via Belvedere vào sân San Damaso. Ở đó chỉ huy đội lính cận vệ Thụy Sĩ sẽ gặp và hộ tống ông vào cung điện Thánh Tông đồ. Các nhân viên an ninh của Tổng thống sẽ phải ở ngoài sân, đó là nghi thức tại Vatican. Nguyên thủ quốc gia đi lên một mình, chỉ được bảo vệ bởi lính cận vệ. Nhưng tôi sẽ tiết lộ với cậu một bí mật. Cục Tình báo luôn cài một vài người tại bữa tiệc chính thức - những chàng trai Thiên Chúa giáo dễ thương muốn gặp mặt Đức Thánh Cha”.
“Vậy ông dự định sẽ thay đổi như thế nào?”
“Tổng thống sẽ bay đến Vatican và đáp xuống sân bay của Giáo hoàng”.
“Sân bay đó ở góc xa phía Tây, ngay đối diện tường. Nếu có ai đó chờ sẵn với một khẩu phóng tên lửa nữa…”
“Cục Tình báo nói sẽ bảo vệ khu vực ấy”.
“Bên ông dự định cài bao nhiêu chàng trai dễ thương theo đạo Thiên Chúa trong đoàn đại biểu chính thức của Tổng thống?”
“Nhiều hơn thường lệ”. Carter nhìn đồng hồ lần nữa. “Có lẽ chúng ta nên vào sân bay trong vài phút tới. Langley đặt chúng ta ngồi hai chỗ khác nhau”.
“Ông xấu hổ vì tôi à, Adrian?”
“Thực ra là chưa bao giờ tự hào đến như thế khi được hợp tác cùng với anh. Anh và những chàng trai của anh đã cho thấy lòng can đảm tuyệt vời khi thâm nhập ngôi nhà đó”.
“Chúng tôi không được lựa chọn, Adrian. Chúng tôi không bao giờ được quyền lựa chọn”.
Carter nhắm mắt một lúc. “Anh biết đấy, có thể bin Shafiq chỉ nói khoác, hay bịp bợm vì một lí do nào đó”.
“Tại sao hắn lại phải nói dối, Adrian? Hắn dự định sẽ giết chết cô ấy mà, nên điều hắn nói chắc chắn là sự thật”.