Vị thẩm phán nói những lời cuối cùng với bồi thẩm đoàn:
- Thưa quý vị, vậy là tôi đã làm gần như xong phần việc của mình. Nhiệm vụ của các vị bây giờ là kiểm tra lại xem các bằng chứng có đủ để buộc tội bị cáo đã giết Vivien Barnaby. Các vị đã nghe các nhân chứng liên quan tới thời khắc vang lên tiếng súng nổ: không có sự mâu thuẫn nào. Các vị cũng biết rằng bức thư Vivien Barnaby viết cho bị cáo là vào đúng buổi sáng xảy ra vụ án, ngày thứ sáu, 13 tháng 9, vì thế mà bên bị thậm chí không hề có cố gắng nào để phủ nhận sự việc. Các vị cũng biết rõ là khi bị bắt, lúc đầu bị cáo không công nhận là đã đi đến Deering Hill: Sau đó, trước những chứng cứ của phía cảnh sát, anh ta mới chịu. Các vị cần cố kết luận về sự thay đổi 180 độ ấy. Trong vụ việc này, toà không có những chứng cứ rõ ràng, các vị phải đưa ra phán xét của chính các vị dựa trên những dự kiện về động cơ, phương tiện và hoàn cảnh của sự việc. Bên bị khẳng định có ai đó đã vào phòng hòa nhạc sau khi bị cáo ra khỏi đó và giết chết Vivien Barnaby bằng khẩu súng mà anh ta để lại vì một sự cẩu thả mà chúng ta không tưởng tượng nổi. Các vị đã được nghe bị cáo giải thích vì sao anh ta mất tới nửa tiếng đồng hồ để trở về nhà. Nếu các vị không tin vào bản tường thuật sự việc của anh ta và nếu các vị tin chắc bằng cả tâm hồn và ý chí của các vị rằng chính anh ta là người đã chĩa súng bắn vào đầu Vivien Barnaby với âm mưu giết chết người này thì các vị tuyên bố khép tội anh ta. Ngược lại, nếu các vị còn có những hoài nghi xác đáng nhiệm vụ của các vị là xử cho anh ta trắng án. Bây giờ xin mời quý vị nghỉ để thảo luận.
Mất gần một tiếng đồng hồ, bổi thẩm đoàn đi đến bản án mà tất cả mọi người chờ đợi: “có tội”.
Ông Satterthwaite rời tòa sau khi bản án được tuyên bố, mày chau lại. Vốn dĩ ông không mấy quan tâm đến các vụ xử tội phạm như thế này. Nó mang tính hiếu kỳ, quá ư tế nhị để có thể tìm thấy cái gì đó hay ho trong những chi tiết vớ vẩn của một cái chết tầm thường. Nhưng vụ việc của Wylde thì không phải như vậy. Martin Wylde là người xứng đáng được gọi là “quý ngài” hơn thế nữa, anh ta đã từng có mối quan hệ quen biết cá nhân với nạn nhân, người vợ trẻ của ngài George Barnaby.
Mãi suy nghĩ, ông đã lên đến Holborn lúc nào, rồi bước vào những ngõ phố nghèo khổ, ngoắt nghéo dẫn tới Soho. Có một nhà hàng nhỏ nằm trong những con phố ấy, được những người thuộc tầng lớp thượng lưu như Satterthwaite biết tiếng. Hẳn nhiên, giá cả ở đây đắt cắt cổ và chỉ dành cho giới khách sành ăn đến từ các cung điện buồn tẻ. Khung cảnh yên ả và hơi tối. Không có một phím nhạc jazz nào len được tới đây hòng khuấy động không gian êm đềm đó. Người phục vụ làm việc trong yên ắng tranh tối tranh sáng, đi qua đi lại với những chiếc khay đĩa bằng bạc, trang trọng như thể họ đang tham gia một nghi lễ thiêng liêng nào đó. Quán có tên gọi là Arlecchino.
Vẫn đang chìm đắm trong suy nghĩ, ông Satterthwaite bước vào quán, đi về phía chiếc bàn quen thuộc nằm ở một góc khuất nơi cuối phòng. Do cảnh trí mờ tồi, mãi tới khi đến nơi ông mới thấy bàn đã có người, một người đàn ông cao gầy, tóc hung. Bóng tối che khuất khuôn mặt nhưng ánh sáng hắt lên từ một tấm kính màu khiến bộ, như bộ cánh của anh hề trong triều đình.
Ông Sarrerthwaite đang định quay, bỗng người khách lạ từ từ thay đổi tư thế.Và ông nhận ra người quen.
- Chúa ơi! – Satterthwaite kêu lên ( ông già vốn thích cách biểu đạt cổ) – Đây là ngài Quinn đây mà!
Ông đã gặp Quinn ba lần và lần nào cũng để lại trong ông những ấn tưọng sâu sắc. Một con người kỳ lạ, cái ông Quinn ấy, ông ấy luôn luôn sẵn lòng chỉ cho bạn thấy nét mới hoàn toàn của sự việc mà bạn tưởng như đã biết rõ từ lâu.
Ông Satterthwaite rùng mình dễ chịu vì phấn khích. Ông biết lắm, trong cuộc đời này, ông tự giới hạn mình trong vai trò một khán giả; nhưng có đôi khi, được tiếp xúc với Quinn, ông lại ảo ảnh rằng mình là diễn viên, lại còn là diễn viên chính nữa.
Nụ cười làm khuôn mặt khô gầy của ông sáng lên.
- Thật ngạc nhiên quá! – Ông nói - Thật lòng là tôi ngạc nhiên lắm! Ông có thấy phiền, nếu tôi ngồi cùng không?
- Rất hân hạnh ! – Quinn nói – Ông thấy đấy, tôi còn chưa bắt đầu cơ mà.
Người quản lý từ trong bóng tối bước ra, đầy vẻ tôn kính – Satterthwaite gọi đồ theo thực đơn, đúng với cung cách một quý ông của những lâu đài quý phái. Viên quản lý rút lui với nụ cười tán thưởng kín đáo và anh bồi trẻ bắt đầu công việc của mình. Satterthwaite quay lại với Quinn.
- Tôi đến từ Old Bailey – Ông nói – Câu chuyện thật là buồn.
- Anh ta đã bị kết tội rồi à ? – Quinn hỏi ?
- Vâng, bồi thẩm đoàn chỉ mất có nửa giờ để kết án.
Quinn nghiên đầu :
- Dựa trên các chứng cớ thì không thể tránh được kết cục đó.
- Nhưng mà …
Ông Sartterthwaire ngập ngừng. Quinn tiếp tục :
-Tuy nhiên, ông đứng về phía bị cáo chứ gì ? Có phải ông dịnh nói vậy không ?
Vâng, có lẽ thế. Martin Wylde là một chàng trai tốt bụng. Tôi không thể hiểu nổi làm sao mà anh ta lại có thể gây ra tội ác như vậy. Nhưng phải thừa nhận rằng trong thời đại này, dù xét ở phương diện nào đi nữa, có một số thanh niên tự biến mình thành kẻ sát nhân bỉ ổi máu lạnh.
Quá nhiều nữa là đằng khác – Quinn thủng thẳng nói, thoáng ngạc nhiên.
- Quá nhiều, đối với Martin Wylde. Ngay từ đầu, người ta đã có ý gán tội cho anh ta, hơn nữa còn thêm thắt vào câu chuyện, kiểu tội ác do người đàn ông tìm cách vứt bỏ một người phụ nữ để cưới một ngưòi khác.
- Nếu người tin vào các phỏng đóan … Ngài Satterthwaite nói giọng hoài nghi - À!- Quinn trở nên sôi nổi- Tôi sợ là mình không biết hết tất cả những phỏng đoán kia.
Ông Satterthwaite bỗng nhiên thấy mình lấy lại được sự tự tin. Một thứ tình cảm giống như sức mạnh tràn ngập trong ông, thôi thúc ông vào vai kịch.
- Tôi xin giải thích ngay đây. Ông cũng biết là tôi có quen gia đình Barnaby. Tôi hiểu rất rõ các tình tiết của sự việc. Qua tôi, ông sẽ biết cái gì là mặt trái của sự việc, sẽ nhìn nhận sự việc từ bản thân bên trong đó.
Quinn nghiêng người về phía trước:
- Nếu như có ai có thể chỉ cho tôi rõ thì đó chính là ngài Satterthwaite- Ông ta thì thầm và không quên mỉm cười khích lệ.
Satterthwaite níu cả hai tay vào bàn, cảm thấy mình trở nên lớn lao, hoan hỉ, bơi đi trongmột trạng thái lạc ý thức. Lúc này ông là một nghệ sỹ, giản dị và tự nhiên như vốn dĩ là như thế, một nghệ sỹ với phương tiện để biểu đạt nghệ thuật là ngôn từ.
Ông mô tả một cách ngắn gọn chân dung cư dân ở Deering Hill. Ngài George Barbany đã giàm béo phì, rất tự hào về gia sản của mình, suốt đời lo lắng vì mọi thứ nhỏ nhặt. Ông ta lên giây đám đồng hồ quả lắc của mình vào các chiều thứ sáu, tính toán các khoản chi dùng trong nhà vào các buổi sáng thứ ba, và tối tối tự mình đi kiểm tra xem cửa ra vào đã cài chốt kỹ càng chưa. Một người cẩn trọng.
Satterthwaite chuyển sang giới thiệu về bà Barnaby, Lời lẽ có vẻ dễ nghe hơn những vẫn rất tỉ mỉ. ông mới chỉ gặp bà có một lần duy nhất nhưng đọng lại trong ông ấn tượng rõ nét và dai dẳng. Một con người sống động, nổi loạn, vẫn còn trẻ lắm. Một “bé gái” bị mắt bẫy: đó là hình ảnh ông Satterthwaite mô tả về Barnaby phu nhân.
- Cô ấy ghét ông ta, ông có hiểu không? Cô ấy lấy ông ta nhưng không hề biết mình làm gì. Kết quả là…
Theo Satterthwaite thì đó là một phụ nữ đang tuyệt vọng, không còn tin vào bản thân cũng như vào sắc đẹp của mình nữa, mà không biết làm sao để thoát ra. Không có chút tài sản riêng, cô sống phụ thuộc hoàn toàn vào ông chồng già. Và cô ta rất ham sống. Ông Satterthwaite đặc biệt nhấn mạnh vào điểm này. Đó là sự pha trộn của tính nổi loạn, niềm ham sống mãnh liệt.
- Còn Martin Wylde- Ông Satterthwaite tiếp tục- Tôi chưa gặp bao giờ nhưng đã nghe nói về anh ta: làm nông nghiệp, sống cách Deering Hill khoảng một nghìn năm trăm mét. Mà quý bà Barnaby lại quan tâm đến nông nghiệp, hay ít ra là cũng có ý định như vậy. Theo thiển ý của tôi, thì đấy mới chỉ là hoàn cảnh thôi. Quý bà còn phải gặp được cơ hội chào hỏi có một không hai rồi bám lấy anh ta một cách tuyệt vọng, như một đứa trẻ con.Tóm lại nguồn cơn sự việc là vậy. Ta biết được diễn tiến tiếp theo nhờ vào bức thư được đọc ở toà. Wylde gìn giữ tất cả các bức thư mà Barnaby phu nhân viết cho anh. Ngược lại, cô ta không giữ bức thư nào của người tình cả. Nhưng nội dung các bức thư của quý bà chứng tỏ rằng Wylde bắt đầu chán mệnh phụ phu nhân rồi. Hơn thế, anh ta cũng nhận ra điều đó, và đi lại với một cô gái trẻ khác cũng sống trong làng Deering Hill- con gái vị bác sỹ. Có khi ông đã gặp cô ta ở phiên toà đấy. Mà không, ông đã bảo ông không ở toà mà. Vậy thì tôi phải kể cho ông nghe về cô ta. Đó là một cô gái tóc vàng, dịu dàng, có lẽ không được thông minh cho lắm. Một người rất trầm tĩnh. Và trung thực. Đáng quý nhất là đức tính trung thực.
Satterthwaite nhìn đối phương, chờ đợi một cử chỉ khích lệ. Quinn mỉm cười vẻ tán đồng. Ông nói tiếp:
- Chắc ông biết nội dung của bức thư cuối cùng mà bà Barnaby viết sáng ngày 13 tháng chín. Hoặc giả ông không được nghe đọc trong phiên xét xử thì ông đã đọc được trên các báo. Một bức thư với lời lẽ trách cứ đầy tuyệt vọng, phẫn nộ và đe doạ. Cuối thư cô van xin Martin Wylde hãy đến Deering Hill vào mười tám giờ cùng ngày. “Em sẽ mở cửa phụ để không ai biết là anh đến. Em đợi anh trong phòng hoà nhạc.”
Satterthwaite dừng một lúc trước khi tiếp tục:
- Như ông cũng biết, khi bị bắt, Martin Wylde đã chối là không đi đến nhà bà Barnaby tối hôm đó. Anh ta khai rằng mang súng đi là để đi săn trong rừng. Nhưng trước những chứng cứ mà cảnh sát đưa ra, lời khai của anh ta không còn giá trị nữa. Thực ra người ta đã lấy được dấu vân tay của anh ta, ông còn nhớ chứ?- trên cánh cửa và ở một trong hai ly cốc tai tìm thấy trên bàn trong phòng hoà nhạc. Vậy là anh ta đổi lại lời khai rằng: anh ta có đến gặp bà Barnaby, họ đã cãi nhau kịch liệt nhưng cuối cùng anh ta cũng khiến quý bà bình tĩnh trở lại. Anh ta thề là đã để khẩu súng của mình ở bên ngoài, dựa nó vào tường, ngay cạnh cửa, khi tạm biệt bà Barnaby, khoảng sau mười tám giờ mười lăm một chút, bà vẫn còn sống và hoàn toàn khoẻ mạnh. Ngay sau đó anh ta quay trở về tới trang trại lúc mười tám giờ bốn mươi lăm. Mà anh ta chỉ phải đi có một nghìn năm trăm mét, như tôi đã kể với ông khi trước, nghĩa là anh ta không thể mất tới nửa tiếng đồng hồ. Còn về khẩu súng, anh ta khai là đã quên nó. Tất cả những điều đó thật khó nghe cho lọt tai…Tuy nhiên…
- Tuy nhiên sao?- Quinn hỏi.
- Theo tôi, không thể như thế được. Việc luật sư của toà không dựa vào lời chứng này là một sai lầm. Ông cũng biết, tôi rất hiểu đám thanh niên ở tuổi này, và tôi có thẻ nói với ông rằng những cảnh tượng như thế này làm họ rất rối trí, nhất là những anh chàng như Martin Wylde, hiền nhưng cục tính. Còn với đám đàn bà, sau trận cãi cọ dữ dội như vậy, rất có thể họ lại cảm thấy dễ chịu hơn và lấy lại được tinh thần. Cái đó được gọi là van an toàn, Nó làm giảm căng thẳng thần kinh. Nhưng tôi thì hình dung rất rõ một Martin Wylde đang dao động, chán chường và bất hạnh, đi lang thang mà quên hẳn đi mất khẩu súng anh ta đã dựng ở chân tường.
Ông Satterthwaite im lặng một lúc rồi tiếp:
- Dù sao thì điều đó cũng không còn mấy quan trọng nữa vì sau đấy mọi sự đã quá rõ ràng. Chính xác là tiếng súng vang lên lúc mười tám giờ hai mươi phút. Tất cả gia nhân đều nghe thấy: bà nấu bếp, chị phụ bếp, ông bếp trưởng, người ở gái, chị phục vụ riêng của Barnaby phu nhân. Họ nằm rũ trên thành ghế phô tơi. Tên sát nhân đã bỏ lại khẩu súng ngay cạnh đó, như thể nó không hề rời xa đích bắn của mình. Ít nhất là có hai viên đạn đã găm vào não.
Satterthwaite ngừng lại. Quinn hỏi với giọng dửng dưng:
- Chắc hẳn đám gia nhân đã đứng ra làm chứng?
- Vâng. Ông bếp trưởng đến hiện trường trước những người khác vài giây, song tất cả các lời khai đều giống nhau.
- Như thế có nghĩ là tất cả đều làm nhân chứng?- Quinn phác một cử chỉ rất có vẻ suy nghĩ- Không có ngoại lệ nào sao?
- Tới giờ tôi mới nhớ, người ở gái chỉ ra trình toà trong quá trình điều tra. Từ sau đó, hình như cô ta đi Canada thì phải.
- Tôi biết- Quinn nói.
Im lặng bao trùm. Có sự bất ổn nào đó làm xáo động không khí trong nhà hàng nhỏ bé này. Bất chợt ông Satterthwaite cảm thấy phải giữ thế đề phòng.
- Điều gì ngăn cản cô ta đi tới đó?- ông đột ngột hỏi.
- Điều gì đã buộc cô ta phải đi tới đó mới đúng, ông có nhầm lẫn không? –Quinn nhún vai hỏi lại.
Thật là kỳ, câu hỏi trái ngược hẳn với ý của ông Satterthwaite. Ông muốn tránh khéo ý ấy và muốn trở lại chuyện gia đình kia.
- Không có mấy điều khả nghi quanh cái chết. Thật ra, có vẻ như đám gia nhân biết rất ít các sự việc đã xảy ra. Không một ai ở trong nhà để chứng kiến tận mắt. Câu chuyện đã diễn ra khá lâu trước khi có một người trong bọn họ nghĩ ra là phải gọi điện cho cảnh sát, mà khi định gọi thì họ mới phát hiện ra điện thoại không dùng được nữa.
- Ra vậy! Điện thoại không dùng được nữa?
- Không.
Ông Satterthwaite bỗng tin rằng các sự kiện này có tầm quan trọng cốt yếu. Bằng một giọng chậm rãi, ông nói tiếp:
- Tất nhiên, có lẽ kẻ nào đó đã suy nghĩ cân nhắc để đặt nó ngoài tầm tay. Nhưng như thế cũng đâu để làm gì: cái chết đền gần như tức thì.
Quinn không nói gì. Ông Satterthwaite lại cho rằng lời giải thích của mình không được thuyết phục.
- Không có ai ngoài Wylde bị nghi ngờ. Theo nhu bị cáo xác nhận, anh ta ra khỏi toà nhà đúng ba phút sau khi súng nổ. Hơn nữa, còn ai khác có thể nổ súng ở đây nữa? Ngài George đang chơi bài bên hàng xóm. Ông ta ra khỏi nhà lúc mười tám giờ ba mươi và rời khỏi đó đúng lúc một gia nhân chạy tới báo cho ông hay tin dữ. Không nghi ngờ gì về điểm này được. Henry Thompson, viên thư ký của ngài George ngày hôm đó đang ở Luân Đôn và có cuộc gặp công vụ vào lúc tội ác xảy ra. Còn Sylvia Dale có chứng cớ ngoại phạm hoàn hảo, chứng tỏ không liên quan gì tới cái chết của bà Barnaby vì cô đang ở ga Deering Vale, đưa bạn lên chuyến tàu lúc mười tám giờ mười lăm. Còn lại chỉ có đám gia nhân. Không một ai trong số bọn họ có lý do để gây ra chuyện đó. Vả lại, tất cả bọn họ chạy tới nơi xảy ra án mạng gần như cùng một lúc. Không, thủ phạm chỉ có thể là Martin Wylde.
Nhưng nghe giọng thì biết là ông không thoả mãn với kết luận kia.
Họ dùng bữa trong yên lặng. Quinn Không phải người thích ba hoa hàu hước, còn Satterthwaite đã nói tất cả những gì ông cần nói. Sự yên lặng nghe chừng khó thở vì càng lúc ông Satterthwaite càng thấy không hài lòng trước thái độ trung lập của Quinn.
Đột nhiên, ông Satterthwaite dằn mạnh dao dĩa của mình xuống bàn.
- Nếu như chàng trai trẻ hoàn toàn vô tội thì sao?Ông nói- Vậy mà anh ta sẽ bị treo cổ!
Ông có vẻ rung động với ý nghĩ này. Quinn vẫn không nói gì.
- Thâm tâm thì tôi không…
Ông ngừng lại. Đáng ra phải nói hết câu thì ông lại hỏi một ý chẳng ăn nhập gì với câu chuyện từ nãy tới giờ:
- Có gì không bình thường trong việc người đàn bà đi Canada không?
Quinn ngẩng đầu lên, chẳng nói chẳng rằng.
- Tôi thậm chí không biết là cô ta ở vùng nào ở Canada- Satterthwaite nói tiếp với giọng gắt gỏng.
- Làm sao mà ông biết được điều đó?- Đối phương bắt đầu lên tiếng.
- À, là tôi nghĩ vậy. Chắc là ông bếp trưởng có biết việc này. Hoặc là viên thư ký Thompson.
- À, là tôi nghĩ vậy. Chắc là ông bếp trưởng có biết việc này. Hoặc là viên thư ký Thompson.
Satterthwaite lại im lặng. Khi ông lên tiếng, giọng ông nghe như năn nỉ:
- Thật sự thì những chuyện này không liên quan gì đến tôi…
- Vấn đề ở chỗ là chàng trai kia sẽ bị treo cổ trong ba tuần nữa.
- Phải rồi, nếu nói như vậy…vâng, đúng thế. Tôi hiểu điều ông định nói. Cái sống, cái chết. Rồi cả cô gái tội nghiệp kia nữa. Không phải tôi thiếu thiện chí nhưng thực ra thì có giúp ích được gì đâu? Tất cả chuyện này không phải là lố lăng sao? Thậm chí nếu tôi tìm được cô ta ở đâu… có khi tôi phải đích thân đi đến tận nơi!
Ông Satterthwaite có vẻ rất phiền lòng.
- Và tôi đang có ý định đi Riviera vào tuần sau- ông nói giọng đầy thương cảm.
Ánh mắt ông hướng về Mr Quinn, dường như van vỉ: “Làm ơn đừng nói là tôi nên đi”
- Chưa bao giờ ông đến Canada à?
- Chưa bao giờ.
- Đất nước này có nhiều điều rất thú vị.
Quinn ngả người trên ghế, châm thuốc hút. Đợi hết hơi thuốc, ông thong thả nói:
- Thưa ngài Satterthwaite, ngài là một người giàu có, tôi biết chứ. Không phải tỷ phú nhưng ngài có thể cho phép mình làm gì đó, rất tuỳ hứng, mà không cần để ý đến chi phí cho việc đó. Cho tới bây giờ, ngià hài lòng với vị trí của một người đứng ngoài lề những thảm kịch và nỗi đau của con người. Đã bao giờ ngài có ý muốn được là người trong cuộc, được đóng một vai trò nào đấy trong tấn bi kịch đó? Có khi nào ngài tự tưởng tượng ra, dù trong nửa phút thôi, ngài nắm trong tay sự sống và cái chết? Ngài sẽ phán xử số phận của người khác như thế nào?
Satterthwaite cúi người về phía trước. Ông lại cảm nhận được nhiệt tình sôi sục đã xâm chiếm con người mình:
- Ý ông là liệu tôi có đi khắp mọi nơi ở Canada không ấy à?
Quinn mỉm cười nhẹ nhàng đáp lời:
- Ồ, chính là ông tự nêu ý đó đấy chứ đâu phải tôi.
- Ông không nên tránh né như vậy- Satterthwaite phản đối- Mỗi khi tôi gặp ông trên con đường mình đi…
Satterthwaite dừng lại.
- Thì sao kia?- Quinn khuyến khích.
- Ông có điều gì đó thật đặc biệt mà tôi không hiểu, mà có khi không bao giờ tôi có thể hiểu nổi. Lần cuối cùng tôi gặp ông…
- …Một buổi tối ở Saint- Jean.
Ông Satterthwaite rùng mình, như thể những gì mà người đàn ông trước mặt vừa thốt ra kia chứa đựng một dấu hiệu nào đó mà ông không hiểu rõ.
- Có đúng là buổi tối ở Saint-Jean không?- Ông hỏi đầy bối rối.
- Đúng. Nhưng đã qua rồi. Và không có gì đáng nói chứ?
Satterthwaite cảm thấy rõ ràng những điều ẩn ý sau lời nói kia như đang trượt trên ngón tay mình. Ông trả lời với giọng trang trọng:
- Nếu ông nói vậy…Khi từ Canada về…(ông ngừng lời, vẻ lúng túng), tôi…tôi rất mong được gặp lại ông.
- Nhưng mà tôi không có địa chỉ cố định- Quinn nói giọng đầy tiếc rẻ- Tuy nhiên, tôi thường xuyên tới đây. Nếu ông cũng là khách quen ở đây thì chúng ta sẽ sớm gặp lại nhau nơi này thôi.
Rồi họ thân ái chia tay nhau.
Đầy phấn khích, ông Satterthwaite vội vã đến văn phòng hãng Cook để hỏi ngày khởi hành các chuyến tàu đi Canada. Rồi gọi điện cho Deering Hill. Trả lời ông là giọng nhũ nhặn tôn kính của ông bếp trưởng.
- Tôi xin tự giới thiệu, tôi là Satterthwaite… làm việc cho một văn phòng luật sư. Tôi muốn hỏi một vài thông tin về một cô hầu trẻ làm việc chỗ các ông chưa lâu.
- Thưa ngài, có phải là Louisa không? Louisa Bullard?
- Đúng cô gái ấy đấy- Satterthwaite nói- Rất cảm ơn ông cho biết thông tin.
- Tôi rất tiếc thưa ông, cô ấy không còn ở trong nước nữa mà đã đi Canada cách đây sáu tháng rồi.
- Ông làm ơn cho tôi xin địa chỉ của cô ấy ở bên đó?
Nhưng ông bếp trưởng không biết, ông chỉ nghe loáng thoáng đó là một làng ở miền núi, tên kiểu Ê-cốt. Phải rồi, Banff. Tất nhiên là đám gia nhân trong nhà cũng rất muốn biết tin tức về cô nhưng Louisa không hề viết thư cũng chẳng để lại địa chỉ.
Satterthwaite cảm ơn rồi gác máy. Ông không hề nhụt chí; thấy rõ cảm giác phiêu lưu tràn ngập tâm tưởng. Ông sẽ đi Banff, sẽ kết thúc cuộc hành trình khi tìm ra Louisa Bullard, nếu cô ta ở đó.
Satterthwaite rất hài lòng, chuyến đi sẽ mang đến cho ông đôi điều ngạc nhiên. Đã bao năm nay ông không đi chuyến nào dài ngày như vậy. La Riviera, Le Touquet, Deauville và Ecosse: những địa danh mới quen thuộc làm sao. Giờ đây, tinh thần của chuyến vượt biển còn là nắm giữ một nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Nếu những người đồng hành mà biết được mục đích của cuộc kiếm tìm, chắc chắn họ sẽ cho điều đó là ngớ ngẩn hết chỗ nói. Hẳn nhiên rồi, vì họ đâu có biết “Ngài Quinn”.
Khi tới Banff, các kế hoạch của ông không gặp phải bất kỳ trở ngại nào. Louisa Bullard làm việc ở Đại khách sạn trong vùng. Mười hai giờ sau khi đến nơi, Satterthwaite đã gặp được cô gái.
Đó là một phụ nữ chừng ba nhăm tuổi, vẻ bạc nhược dù dáng vóc rất cao lớn. Mái tóc màu hạt dẻ xoăn tít, đôi mắt cũng màu hạt dẻ nhìn thẳng. Theo ông, cô ta có vẻ hơi khờ khạo nhưng hoàn toàn có thể tin tưởng được.
Louisa Bullard tin lời ông ngay khi ông nói mình có nhiệm vụ thu thập thông tin đầy đủ về bi kịch ở Deering Hill. Cô nói:
- Tôi đã đọc được trên báo thấy Martin Wylde bị kết tội. Thật không hay chút nào!
Cô ta không có vẻ gì là ngạc nhiên về thảm kịch xảy ra.
- Một chàng trai dễ thương nhưng lại có một kết cục buồn. Tôi không định nói xấu người đã chết nhưng anh ta chỉ muốn chống lại việc quý bà dắt mũi anh ta thôi. Bà thì lại không muốn buông tha cho anh ta. Kết cục, cả hai đều đã bị trừng phạt. Khi tôi còn bé, có một bài khoá treo trên tường trong phòng tôi viết: “ Không được nhạo cười thượng đế”. Đấy là chân lý đấy! Tôi đã biết chắc là thể nào cũng xảy ra chuyện, mà đúng thế thật.
- Cô biết gì về chuyện này?
- Lúc đó tôi đang thay quần áo trong phòng mình, lơ đãng nhìn qua cửa sổ. Một con tàu chạy ngang qua, rồi- ông có tin hay không thì tuỳ- làn khói trắng thoát ra từ ống khói đầu tàu có hình một bàn tay khổng lồ. Một bàn tay màu trắng in hình trên nền trời đỏ rực. Những ngón tay quắp lại như muốn nắm lấy vật gì đó. Tôi không khỏi liên tưởng mà tự nhủ: “Đây là dấu hiệu của bất hạnh sẽ đến…”. Và thực sự thì đúng lúc ấy tôi nghe thấy tiếng súng nổ. Vừa nghĩ “thôi, thế là xong” tôi vừa chạy vội xuống dưới nhà, gặp Carrie và những người khác ở đại sảnh. Bước vào phòng nhạc, chúng tôi thấy bà ấy ở đó, đầu đầy máu…Thật là kinh khủng. Tôi vội vàng đi báo cho ngài George nhưng ông ấy hình như không để ý gì đến cảnh tượng đã diễn ra. Ngày hôm ấy là ngày của bất hạnh. Tôi cảm nhận được rõ rệt điều đó ngay từ lúc sáng. Cũng không quá ư kì lạ vì hôm đó là thứ sáu ngày 13…
Ông Satterthwaite kiên nhẫn lắng nghe cô Louisa vẫn đang tiếp tục nói với giọng đều đều. Mất khá nhiều lần nhắc nhở. đặt nhiều câu hỏi cụ thể về vụ án, ông hướng thẳng cô ta vào chủ đề chính của vấn đề. Cuối cùng ông phải tự nhận là mình đã bị khuất phục. Louisa Bullard đã kể cho ông nghe tất cả những gì cô ta biết, lời kể của cô ta rất rõ ràng, cụ thể.
Tuy thế, ông cũng phát hiện ra một điểm quan trọng: công việc mới mà cô đang làm là do ông Thompson, thư ký của ngài George giới thiệu. Cô đã đồng ý đi làm vì được trả lương rất cao, cho dù buộc phải rời Anh quốc đi xa thật xa. Có một ông Denman nào đó đã chuẩn bị tất cả những việc cần thiết, đồng thời dặn cô không được viết thư cho bất kỳ gia nhân nào ở Anh, nếu không muốn “có rắc rối với phòng xuất nhập cảnh”. Lưu ý là cô Louisa đã đồng ý mà không hỏi một câu nào.
Mức lương mà cô Louisa có nói quá cao đến độ ông Satterthwaite thấy thật sự sửng sốt. Sau một hồi lưỡng lự, ông quyết định đi gặp ngài Denman nổi tiếng kia.
Không có gì khó khăn lắm để lấy tin tức từ ông Denman. Ông này tình cờ gặp Henry Thompson ở Luân Đôn và có được ông ta giúp cho ít việc. Vào tháng chín, ông thư ký kia viết thư cho ông giải thích rằng ông chủ của mình muốn cô Louisa Bullard xuất ngoại vì những lý do cá nhân. Liệu ngài Denman có thể giúp sắp xếp cho cô ta công việc nào đó không? Kèm theo bức thư là một khoản tiền đủ để trả thêm vào mức lương mà ông đã đề xuất.
- Tôi nghĩ câu chuyện khá rối rắm- Ngài Denman vừa nói vừa uể oải ngả người trên ghế- Cô ta có vẻ tốt tính.
Về phần mình. Satterthwaite lại không thấy đây là câu chuyện dây cà dây muống mà ông đóan chắc Louisa Bullard không phải là đồ chơi nhất thời của ngài George Barnaby. Nhưng vì lý do gì mà phải rời xa cô? Ai là người đã bày ra chuyện này? Chính là ngài George, nhưng thông qua Thompson? Hay anh thư ký kia đã lợi dụng danh nghĩa của ông chủ?
Satterthwaite trở về, trong lòng cứ lấn cấn mãi, lại thêm cảm giác thất vọng và thất bại, vì chuyến đi không mang lại điều gì. Ngay hôm sau, ông tìm đến quán L’ Arlencchino. Hơn cả mong đợi, ông nhận ra gương mặt thân quen của Quinn nơi cuối phòng, nụ cười cởi mở, sáng rỡ.
- Vậy đấy! Giờ thì ông có thể huênh hoang vì đã xỏ mũi được tôi rồi đấy. Satterthwaite vừa nói vừa với tay quết bơ, làm tôi đuổi theo những cái vớ vẩn.
Quinn nhướng đôi lông mày:
- Sao lại là tôi? Chính ông đề xướng ý tưởng đó chứ?
- Đâu cần biết ai là người khơi mào, nhưng tóm lại chuyến đi là công cốc. Louisa Bullard chẳng biết gì mà nói.
Rồi ông Satterthwaite kể lại chi tiết cuộc chuyện trò với cô hầu gái và với ông Denman. Quinn lặng yên nghe.
- Nói gì thì nói, cũng không hẳn là không có manh mối gì. Người ta hẳn phải nghĩ nát óc trước khi chịu cách xa Louisa Bullard. Nhưng vì sao kia? Tôi nghĩ mãi vẫn không ra.
- Không nghĩ ra ư?- Quinn hỏi giọng thẽ thọt lấy lòng khiến ông Satterthwaite đỏ cả mặt.
- Không lẽ ông cho là tôi không khéo hỏi? nhưng xin bảo đảm là tôi đã khiến cô ta kể đi kể lại câu chuyện. Làm sao có thể đổ lỗi cho tôi nếu không có được những thông tin cần thiết.
- Thế ông có chắc là ta không tìm được manh mối gì không?- Quinn hỏi.
Bị bất ngờ, Satterthwaite đưa mắt nhìn Quinn, bắt gặp ánh nhìn buồn bã và đầy giễu cợt đã thân thuộc với ông lắm lắm. Ông lắc đầu, rồi mải đuổi theo bao ý nghĩ.
Quinnn tiếp chuyện, giọng khác hẳn:
- Một ngày gần thôi, ông sẽ hoạ lên bức tranh hoàn hảo về các nhân vật trong câu chuyện này. Mới có vài từ nhưng hình ảnh của họ hiện lên sắc nét như thể một bức điêu khắc. Cũng theo cách ấy, ông mô tả lại ngôi nhà tôi nghe xem nào. Không ai để ý đến nó cả.
Ông Satterthwaite được khích lệ.
- Deering Hill…? Một ngôi nhà như chúng ta vẫn thấy, tường gạch đỏ lô nhô cửa sổ. Trông qua thấy vẻ bình thường nhưng bên trong rất tiện nghi. Ngôi nhà không lớn lắm, chừng độ một hecta đất. Những ngôi nhà quanh cái sân golf cho mấy người giàu đều giống nhau. Nhà được bài trí như khách sạn: các phòng toát lên vẻ sang trọng nhờ các bồn tắm, lavabo- nước nóng lạnh, những bộ chân nến mạ vàng. Dù tiện nghi thật đất nhưng phỏng có giá trị gì vì ngôi nhà toạ trốn điền thôn. Mà Luân Đôn lại chỉ cách đó có ba mươi cây số.
Quinn chăm chú lắng nghe.
- Đường sắt không đựoc thuận tiện lắm phải không?
- Sai rồi- Satterthwaite bắt vào ngay- Hè năm ngoái tôi có về đây nhgỉ nên biết chứ, đi từ Luân Đôn về rất dễ dàng. Giờ nào cũng có tàu khởi hành từ Waterloo, từ sáng đến hai mươi hai giờ bốn mươi tám phút.
- Đi bao lâu thì đến Deering Hill?
- Bốn mươi phút.
- Đúng rồi, lẽ ra tôi phải nhớ tới điều này chứ- Quinn ra ý ngắt lời- Trong một buổi tối đáng nhớ ấy, cô Dale đã đi với một cô bạn lên chuyến tàu lúc mười tám giờ hai mươi tám phút đúng không?
Ông Satterthwaite vẫn lặng yên. Bất chợt ông nhớ tới khúc mắc chưa có lời đáp của mình. Cuối cùng ông lên tiếng:
- Vừa rồi, khi hỏi tôi có chắc là ta không lấy được tin không hẳn là ông có ý gì chứ?
Câu hỏi rất chỉn chu và khó nhưng Quinn không nao núng:
- Tôi tự hỏi, không biết ông có phải người cầu toàn không thôi. Không lẽ ông không thấy việc Louisa Bullard phải rời xa nước Anh đã được cân nhắc rất kỹ? Hẳn phải có lý do rồi. Mà lý do phải bộc lộ trong những câu chuyện cô ấy kể với ông.
- Phải rồi, cô ta dã nói gì? – Ông Satterthwaite suy luận- Nếu là nhân chứng trước toà, cô ta nói gì đây?
- Có thể là cô ta sẽ kể lại những gì nhìn thấy.
- Mà cô ấy thấy gì?
- Một dấu hiệu trên trời.
Ông Satterthwaite nhìn Quinn sững sờ.
- Ông nghĩ đến cả điều phi lý ấy? Rằng đó là bàn tay của Chúa trời?
- Dựa vào những điều chúng ta biết, đó có thể là bàn tay của Chúa lắm chứ.
Sự tò mò của ông Satterthwaite rõ ràng là bị kích thích ghê gớm trước cách nói nghiêm trang của ông bạn. Ông phản đối:
- Thật vô lý! Chính cô ta đã nói đó là khói tàu kia mà.
- Con tàu này đi Luân Đôn hay từ Luân Đôn tới? – Quinn thì thào.
- Giờ nào cũng có tàu đi Luân Đôn, lúc kim dài đồng hồ chỉ số mười. Vậy đương nhiên đó phải là tàu từ Luân Đôn đến, chuyến tàu mười tám giờ hai mươi tám phút…Không đúng, như vậy cũng không hợp lý vì cô hầu gái khẳng định là nghe thấy tiếng súng ngay sau đó, mà ta đều biết súng nổ lúc mười tám giờ hai mươi phút. Chắc chắn là con tàu không thể đến sớm mười phút được.
- Có thể lắm chứ, ông chẳng nói đây là miền quê còn gì?- Quinn thuyết phục.
Ông Satterthwaite nhìn thẳng vào Quinn, giọng trùng xuống:
- Có thể đó là tàu chở hàng, nhưng nếu thế thì…
- Thì việc đưa Louisa Bullard đi Canada không có ích lợi gì cả- Quinn nói tiếp vào- Đồng ý.
Ông Satterthwaite đăm đăm nhìn Quinn, chậm rãi nói từng tiếng rõ ràng:
- Chuyến tàu lúc mười tám giờ hai mươi tám phút… Nhưng, nếu súng nổ vào lúc đó, tại sao tất cả đều khẳng định tiếng nổ vang lên trước đó?
- Đương nhiên là đồng hồ bị chậm.
- Tất cả sao?- ông Satterthwaite kêu lên đầy nghi hoặc- ông muốn nói có sự trùng hợp!
- Tôi không nghĩ đó là sự trùng hợp- Quinn chữa lại- Tôi nghĩ đến vụ giết người đã xảy ra vào một ngày thứ sáu.
- Thế thì sao?
- Chính ông đã nói là ngài George lên giây đồng hồ vào mỗi chiều thứ sáu- Quinn giải thích.
Sững sờ trước phát hiện soi sáng trí não mình, ông Satterthwaite thì thầm, gần như nín thở:
- Ông ta đã chỉnh đồng hồ chậm mười phút…rồi đi chơi bài. Có thể ông ta đã xem bức thư mà cô vợ vừa viết cho Martin Wylde sáng hôm đó…Phỉa rồi, chắn chắn là ông ta đã xem. Ông ta rời chiếu bạc lúc mười tám giờ ba mươi phút, lấy đi khẩu súng mà Martin dựa vào tường gần cửa; sau đó quay về nhà giết vợ từ phía sau, rồi trở ra, quẳng khẩu súng vào bụi rậm chỗ mà sau này người ta tìm thấy vật chứng, khi gia nhân chạy sang hàng xóm để báo tin, anh ta có thẻ tin là ngià George vừa rời khỏi đó. Nhưng …người ta giải thích ra sao về sự cố điện thoại? À mà tôi hiểu rồi: Ông ta cắt điện thoại để không ai gọi cho cảnh sát được và cảnh sát thừa sức ghi lại giờ gọi điện. Bây giờ sự vụ sẽ đổ lên đâu Wylde. Anh chàng ra khỏi nhà lúc mười tám giờ hai lăm phút, mà không, lúc mười tám giờ hai lăm phút, rảo bước từ tốn, đến nhà ngài George lúc mười tám giờ bốn mươi nhăm. Đúng thế, mọi việc rõ ràng. Còn duy nhất một sự đe doạ là Louisa và những chuyện mê tín của cô ấy. Ai đó có thể nghĩ ra chuyến tàu và thế là âm mưu hoàn hảo của ngài George bị lật tẩy.
- Rất hùng biện- Quinn bình luận.
Satterthwaite quay lai, ngượng ngịu.
- Sự việc là vậy, nhưng bây giờ làm sao để giải quyết đây?
- Nên chăng chúng ta đi gặp Sylvia Dale- Quinn nói.
- Nhưng tôi đã nói với anh rồi đấy- Satterthwaite bĩu môi ngờ vực- Tôi thấy cô ấy không mấy thông minh.
- Nhưng ngược lại- Ông bố và mấy ông anh của cô ấy luôn sẵn lòng.
- Đúng thế, ông Satterthwaite đồng tình.
Lát sau, ông kể lại toàn bộ câu chuyện cho cô gái trẻ nghe. Cô chăm chú nghe, không hỏi câu nào, khi ông ngừng kể, cô ngẩng đầu lên.
- Tôi cần một xe taxi. Ngay lập tức.
- Cháu định làm gì vậy?
- Cháu đi tùm ông George Barnaby.
- Không được đâu. Cách đó không hay đâu. Nghe bác này…
Ông rảo bước theo cô can ngăn nhưng cô không nghe. Cô để ông lên xe cùng mình nhưng giả điếc trước mọi lời lẽ của ông. Vào trong thành phố, cô để ông đợi trong xe còn mình vào văn phòng ông George.
Nửa giờ sau cô trở ra, mệt mỏi. Vẻ sáng rỡ biến mất thay vào đó là nét xanh xao nhu bông hoa không cắm nước. Ông Satterthwaite ân cần đón cô.
- Cháu đã làm đúng- Vừa ngả người ra ghế cô vừa thì thầm, mắt khép nhẹ.
- Cháu bảo sao cơ?- Ông kêu lên ngạc nhiên- Cháu đã làm gì, nói gì thế?
Cô gái hơi nhổm dậy.
- Cháu bảo là Louisa Bullard đã tới đồn cảnh sát khai báo rồi, cảnh sát đã tìm được những nhân chứng nhìn thấy ông ấy vào nhà sau mười tám giờ ba mươi phút và trở ra sau đó một lát; là mọi chuyện hỏng rồi. Tới lúc đó, ông ta suy sụp. Cháu bảo vẫn còn thời gian để trốn, rằng cảnh sát sẽ không tới đây trước một giờ. Và nếu ông ta viết bản tự thú tội giết chết Vivien, cháu sẽ không làm gì. ngược lại nếu ông ta từ chối, chúa sẽ loan báo sự thật cho tất cả mọi người trong toà nhà này biết. Ông ta hoảng loạn đến mức không còn biết phải làm gì nữa, ký vào bản nhận tội mà không buồn xem lại.
Cô đưa cho ông tờ giấy.
- Bác cầm lấy đi. Bác biết phải làm sao để trả tự do cho Martin mà.
- Đây đúng là chữ ký của ông ta- Ông Satterthwaite kêu lên sửng sốt.
- Bác vẫn biết ông ta là người hơi đần mà- Thoáng chút suy nghĩ cô nói thêm- mà cháu cũng thế. Nhờ vậy mà cháu hiểu được phản ứng của những kẻ ngu ngốc. Con người là vậy, khi hoảng hốt thì làm những điều không được phép để rồi sau đó ăn năn.
Cô rùng mình. Ông Satterthwaite nắm lấy tay cô.
- Cháu phải lấy lại sức đã. Vừa may đã đến L’Arlecchino, đây là một quán ăn ưa thích của bác, cháu đã bao giờ đến nơi này chưa?
Cô gái lắc đầu.
Ông Satterthwaite ra đáu bảo lái xe đỗ lại. Họ bước vào quán. Lòng chứa chan hi vọng. ông đưa cô tới chiếc bàn nơi cuối phòng nhưng không có ai ngồi đó cả.
Sylvia Dale nhận thấy vẻ thất vọng của ông. Cô hỏi:
- Bác sao thế?
- Không sao. À mà có. Ít nhiều bác cũng mong gặp một người bạn. Nhưng không sao. Có thể một hôm nào đó, bác sẽ gặp lại anh ta…