Người Cô Độc

Chương 13

“Vì Chúa, Charley, anh không có giả vờ gì cả. Em cứ không ngừng tảng lờ sự thật rằng anh ĐÃ trở về nơi đó, nhiều lần là khác. Em mới là người chưa từng một lần quay trở về. Và anh hoàn toàn sẵn sàng thừa nhận rằng mỗi lần anh trở về, là mỗi lần anh thêm yêu nó. Thậm chí, anh cho rằng, hiện nay đó vẫn là một đất nước tuyệt diệu nhất trên đời. Những sự kết hợp màu nhiệm đó. Mọi thứ đã thay đổi, nhưng đồng thời vẫn giữ nguyên vẻ xưa cũ. Anh chưa kể cho em nghe, năm ngoái, khi anh và Jim ở đó vào giữa mùa hè, bọn anh đã đi khắp tới tận Cotswolds[28]. Một buổi sáng, khi bọn anh đang ngồi trên chuyến tàu nhỏ, con tàu dừng ở một ga làng, ngôi làng như thể vừa bước ra từ thơ của Tennyson - khắp nơi là những cánh đồng cỏ dạt dào, liu diu trong gió nhẹ, những con bò lười biếng thơ thẩn trên đồng, những con bồ câu nhỏ rù rì bên bệ giếng, những cây du cổ thụ cao chót vót lên tận tầng mây, những trang viên cổ thời nữ hoàng Elizabeth đệ nhất lấp ló sau những rạng cây. Và ở sân ga, hai người gác cổng ăn vận hệt như cách mà người gác sân ga vẫn mặc vào thế kỷ 19. Chỉ khác họ là người da đen đến từ Trinidad. Nhân viên soát vé ở cổng là người Trung Quốc, có dáng thấp bé, nhanh nhẹn. Anh đã gần như chết đi vì ngập tràn trong vui thú. Đó là một trong những khoảnh khắc đã thiếu vắng trong suốt nhiều năm trở lại đây. Nó khiến cho mọi thứ trở nên thật hoàn hảo...”

[28] Cotswolds: dãy núi đá vôi ở Tây Nam nước Anh, kéo dài từ Bath đến phía Bắc Oxfordshire.

“Em chắc là mình cũng sẽ cảm thấy như anh nếu được chứng kiến khung cảnh đó,” Charlottle xúc động nói. Sự lãng mạn trong bà đã được đánh thức, như ông đã tiên liệu. Phải rồi, ông kể chuyện này để trêu ghẹo bà mà. Nhưng chưa đủ. Bà muốn nhiều hơn nữa. Bà đang chếnh choáng trong hơi men của những giấc mộng huyền ảo. “Rồi anh đã lên tới tận phía Bắc, phải không?” bà thúc giục ông kể tiếp, “Để thăm lại căn nhà nơi anh đã sinh ra?”

“Phải.”

“Kể em nghe đi.”

“Ôi Charley, anh đã kể cho em nghe hàng trăm lần rồi.”

“Kể nữa đi mà, làm ơn đi Geo!”

Bà ngoan cố như một đứa trẻ, mà George hiếm khi nào có thể nói không, nhất là khi ông đã có vài ly rượu trong người.

“Em còn nhớ không, nơi đó từng là một nông trại. Được xây dựng vào năm 1649, năm mà họ hành xử Charles đệ nhất...”

“1649, ôi Geo, chỉ nghĩ về nó đã hạnh phúc biết bao!”

“Quanh đấy, có nhiều nông trại còn cổ xưa hơn nữa. Dĩ nhiên đã có nhiều sự tu sửa kể từ khi gia đình anh dọn đi. Người chủ hiện nay của nó là một nhà sản xuất phim ở Manchester. Ông ta đã thay đổi lại hầu như toàn bộ thiết kế bên trong xây thêm cầu thang gác mới, mở thêm một nhà tắm và sửa sang cho cách tân khu bếp. Hôm trước, họ viết cho anh và báo rằng, họ đã xây dựng hệ thống sưởi ấm mới trong nhà.”

“Thật tệ làm sao. Phải có luật nào đó chống lại việc phá hoại những căn nhà cổ tuyệt đẹp đó. Sự đam mê cách tân mọi thứ của họ chắc hẳn là bị ảnh hưởng bởi đất nước trời đánh thánh vật này.”

“Đừng có khờ dại như vậy, Charley yêu quý. Căn nhà có đẹp đẽ thơ mộng thật, nhưng đó không phải là nơi có thể trú ngụ nếu không sửa sang. Nó được xây từ những tấm đá bản địa mà sẽ thấm hút mọi giọt hơi ẩm trong không khí. Mà em nhớ cái thời tiết ở đó thì kinh khủng thế nào rồi đấy. Thậm chí trong mùa hè, các bức tường cũng lạnh và ẩm ướt; và đừng có nhắc đến mùa đông, nếu em bước vào căn nhà mà không được đốt lò sưởi trong ít nhất vài ngày trở lại, thì em sẽ tê cóng mà chết. Tầng hầm thì bốc mùi như mồ mả. Nấm mốc thì quanh năm làm tổ trên các cuốn sách, giấy dán tường cứ không ngừng tróc ra, bốn góc của các bức tranh thì lốm đốm những vết hoen ố...”

“Geo thân mến ạ, bất kể anh nói gì về nó, anh cũng khiến nó trở nên thơ mộng diệu kỳ. Hệt như Đồi gió hú.”

“Thực ra thì, nơi đó giờ đây chẳng khác gì một khu ngoại ô thành thị. Chỉ cần bước qua con hẻm nhỏ là đã tới đường cái với xe buýt chạy ầm ầm chỉ hai mươi phút là tới Manchester.”

“Chẳng phải anh đã kể với em căn nhà nơi anh sinh ra nằm trên một thảo nguyên vắng sao?”

“Đúng vậy. Đó là điều kỳ diệu. Giống như thể nó ở trong hai thế giới khác biệt cùng một lúc. Khi nhìn ra từ ô cửa sổ phía sau, trong căn phòng nơi anh sinh ra, khung cảnh vẫn không hề thay đổi dù chỉ một chút so với khi anh còn là một đứa trẻ. Em vẫn chẳng thấy bóng một căn nhà nào xung quanh đó, chỉ có những ngọn đồi vắng, những bức tường đá bao quanh chúng, và những dải vôi trắng đánh dấu phạm vi các nông trại. Những cây cổ thụ trong khu vườn cũ được trồng từ lâu, rất lâu trước khi anh ra đời, để che chắn cho căn nhà. Đứng trên ngọn cây, gió thổi vi vu suốt ngày, những cây sồi cao lớn ngày ấy... chúng tạo ra những tiếng động lao xao, như những con sóng vỗ bờ... Đó là một trong những âm thanh đầu tiên mà anh ghi nhớ vào tâm trí. Đôi lúc anh tự hỏi liệu đó có phải là lý do mà anh luôn muốn được sống gần đại dương.”

Có điều gì đó đang ập đến trong George. Ban đầu ông tạo ra điều diệu kỳ để làm vui lòng Charley, giờ đây điều kì diệu đó đang ồ ạt tràn đến chiếm trọn lấy ông. Ông nhận thức được điều đó, nhưng có gì phải sợ? Ông đang vui. Nó đẩy say lên đến một giới hạn khác. Miễn sao không ai nghe được những lời ông đang nói ngoài Charley. Bà đang thở dài sâu lắng với một nỗi cảm thông và phấn khích, nỗi phấn khích của một tên nghiện khi nghe thấy có người thừa nhận hắn cũng đã sa lầy vào cơn mê đắm giống bà.

“Có một quán bar cao tít trên thảo nguyên, căn nhà ở cuối làng. Thực ra, nó nằm trên con đường mòn xe ngựa thường đi qua, vượt qua những ngọn đồi, mà hầu như chẳng ai sử dụng nữa. Jim và anh hay đến đó vào những buổi tối. Nó có tên gọi là Con trai người nông dân. Phòng khách của quán bar có mái trần thấp và nặng nề với những cây xà rầm bằng gỗ sồi đã biến dạng, giữa góc căn phòng là chiếc lò sưởi lớn. Những chiếc mặt nạ cáo được gắn trên tường. Một bức tranh điêu khắc, chạm hình nữ hoàng Victoria đang cưỡi ngựa trên thảo nguyên...”

Charlotte quá phấn kích đến độ bà bắt đầu vỗ tay, “Ôi Geo, em có thể nhìn thấy rõ khung cảnh đó, căn nhà đó, tất cả mọi thứ như đang hiện ra ngay trước mắt em.”

“Có một đêm, khi anh và Jim đến, họ quyết định đóng cửa muộn hơn thường lệ vì đó là sinh nhật của Jim. Họ đóng cửa bên ngoài và quay trở vào rót rượu. Bọn anh đã cảm thấy thật ấm cúng khôn cùng, bọn anh đã uống nhiều đến mức có thể được ghi vào kỷ lục Guinness, nhiều thật nhiều.Rồi có một nhân vật xuất hiện, họ gọi ông ta là kẻ lập dị. Ông ta đúng là hơi gàn dở. Tên ông ta là Rex, một người chất phác, thô kệch. Ông ta là một công nhân làm thuê trong các nông trại, nhưng chỉ khi nào ông thực sự bắt buộc phải làm. Ông ta bắt đầu nói chuyện bằng giọng kẻ cả để gây ấn tượng với bọn anh. Ông ta bảo Jim rằng, ‘Người Mỹ các anh đang sống trong một thế giới ảo tưởng’. Nhưng rồi ông ta dần trở nên thân thiện hơn nhiều. Rồi trên đường trở về quán trọ nơi bọn anh, chân nam đá chân chiêu, anh nhận ra anh và Rex có một điểm chung, cả hai người bọn anh đều yêu Vitaï Lampada[29] của Newbolt đến điên cuồng. Bọn anh đã học nó khi còn đi học. Vậy nên, dĩ nhiên, bọn anh bắt đầu gào lên, ‘Play up, play up and play the game!’ Và khi ngân nga đến đoạn thơ thứ hai nói về cát trên sa mạc đang đẫm máu đỏ, anh nói, ‘Đại tá đã bị kẹt, và Gatling đã chết’, Rex đã nghĩ đó là câu nói đùa hay nhất của năm, còn Jim thì ngồi bệt xuống lòng đường, vùi mặt vào bàn tay và bắt đầu rên lên khiếp đảm...”

[29] Vitaï Lampada: ánh sáng cuộc sống.

“Ý anh là, Jim đã không vui?”

“Jim đã không vui? Cậu ấy đã có những giây phút vui vẻ nhất đời mình. Thậm chí đã có lúc anh nghĩ sẽ chẳng thể nào kéo cậu ấy ra khỏi nước Anh được nữa. Cậu ấy thậm chí yêu quán bar đó say mê. Anh phải thừa nhận rằng phần còn lại của ngôi nhà khá bắt mắt. Căn gác mái phía trên cầu thang có thể sẽ trở nên rất tuyệt vời nếu biết sắp xếp đôi chút. Và khu vườn lớn xung quanh quán. Jim đã muốn mua lại quán bar đó, bọn anh sẽ ở lại đó và cùng nhau buôn bán.”

“Một ý tưởng tuyệt vời! Thật tiếc bọn anh đã chẳng thể thực hiện nó.”

“Thực ra không phải là hoàn toàn không thể. Bọn anh đã tìm hiểu một chút. Anh nghĩ nếu thực sự muốn, bọn anh có thể thuyết phục họ bán lại. Và không nghi ngờ gì Jim sẽ làm việc cật lực với quán bar đó, như cách cậu ấy vẫn làm với mọi việc khác. Dĩ nhiên, còn phải qua hàng loạt thủ tục giấy tờ... nhưng, phải, bọn anh đã bàn về việc đó. Đã có một thời gian, bọn anh không ngừng bàn về chuyện sẽ quay lại đó vào năm nay và xem lại một lần nữa...”

“Anh có nghĩ... nếu như Jim còn sống, liệu anh có thực sự sẽ mua lại quán bar đó và sống ở đó?”

“Cũng có thể. Bọn anh lúc nào cũng đưa ra những kế hoạch như vậy. Và chẳng bao giờ nói với ai, kể cả em. Có lẽ bởi vì trong thâm tâm bọn anh biết đó là những kế hoạch điên rồ. Nhưng nói đi nói lại, bọn anh cũng đã làm khá nhiều việc điên rồ. Ôi, giờ ta sẽ chẳng bao giờ biết nữa... Charlotte thân mến, hai ta cần thêm chút rượu nữa.”

Rồi ông bỗng nhận ra Charlotte đang nói điều gì, “Có lẽ, nó hơi khác đối với đàn ông các anh...”

Cái gì khác? Ông đã gật gù ngủ gục trong phút chốc chăng? George lắc đầu để tỉnh táo trở lại.

“... anh có biết em cũng đã từng hay nghĩ về Buddy như vậy không? Anh ta có thể sống ở bất kì đâu. Anh ta có thể đi hàng ngàn dặm ở những nơi hoang vắng, rồi bất chợt dựng một cái lều của riêng mình rồi gọi đó là nơi sinh tồn, và nơi đó sẽ thực sự trở thành một nơi có thể sinh sống, chỉ vì anh ta đã nói nó là như thế. Rốt cuộc thì, chẳng phải đó là những gì mà những người cải cách đã làm trên đất nước này không lâu trước đây sao? Nó chắc hẳn đã có trong máu của Buddy, cho dù nó không còn nữa. Debbie không bao giờ tán thành những việc như vậy. Không Geo ạ, thề với Chúa, không phải em ganh ghét cô ta nên nói thế. Cũng như cô ta, em cũng chẳng thể chịu được điều đó, về lâu về dài. Phụ nữ bọn em là vậy, bọn em đơn giản là luôn muốn níu giữ nơi bọn em gọi là nhà. Bọn em có thể di thực, nhưng việc di thực đó phải được thực hiện bởi cánh đàn ông, và khi anh ta xong việc, anh ta phải ở lại cùng bọn em. Và tất cả sẽ lại héo khô nếu anh ta không tưới nước...” giọng của bà trở nên trầm hơn. Giờ thì đến lượt bà lắc đầu mạnh, như George đã làm vài giây trước. “Những lời em nói có nghĩa gì không ấy nhỉ?”

“Có, Charley ạ. Chẳng phải em đang nói với anh rằng em đã quyết định trở về?”

“Ý anh là trở về nhà?”

“Em có chắc nơi đó vẫn là nhà?”

“Ôi, vì Chúa, em chẳng còn chắc về bất cứ điều gì trên đời nữa hết. Nhưng giờ thì, Fred đã không còn cần đến em nữa. Em ở lại đây để làm gì hả Geo?”

“Em còn có bạn bè.”

“Phải. Em có bạn bè. Và họ thật sự đáng mến. Đặc biệt là nhà Peabody và nhà Garfein, còn Jerry và Flora nữa, em cũng rất quý Myrna Custer. Nhưng không ai trong bọn họ cần em cả. Chẳng có ai khiến em cảm thấy tội lỗi khi rời bỏ họ. Geo ạ, nói thật cho em nghe đi, liệu có ai, bất kỳ ai mà em nên cảm thấy ăn năn nếu bỏ họ ở lại?”

Có anh. Không, ông sẽ không nói ra điều đó. Những lời ủy mị đó không phải là con người ông, kể cả khi say. “Cảm giác áy náy không thể là lý do cho việc đi hay ở,” ông cương nghị nhưng cũng mềm mỏng nói với bà. “Điều quan trọng là, em có muốn hay không? Nếu em thực sự muốn, thì em nên đi. Đừng bận tâm đến bất kỳ ai khác.”

Charlotte gật đầu buồn bã. “Phải, em đoán là anh nói đúng.”

George đi vào trong bếp, pha cho họ thêm một ly nữa. Có vẻ như tốc độ uống của họ ngày càng tăng. Ly này nên là ly cuối. Khi George bước ra, Charlotte vẫn đang ngồi đó, tay siết lại vào nhau trước mặt.

“Em nghĩ em nên quay trở về, Geo ạ. Nó khiến em sự, nhưng em bắt đầu nghĩ mình thực sự nên trở về.”

“Tại sao em lại sợ?”

“Em chẳng biết. Em chỉ thấy sợ. Một phần vì Nan, em nghĩ.”

“Em sẽ không bắt buộc phải sống với cô ấy chứ?”

“Không bắt buộc phải, nhưng em nên. Em chắc mình nên làm vậy.”

“Nhưng Charley à, anh luôn có cảm giác hai người bọn em ghê tởm lẫn nhau.”

“Không thực sự là ghê tởm, Geo à. Cho dù trong gia đình, đó không thực sự là vấn đề. Ý em là, đôi khi nó có thể là trở ngại. Rất khó để giải thích cho anh hiểu, anh đã không còn gia đình thực sự khi anh còn quá trẻ. Không, em không nói là ghê tởm. Mặc dù, phải, dĩ nhiên, khi em mới quen Buddy, khi chị ấy phát hiện ra bọn em đã ngủ cùng nhau, Nan đã rất ghét em. Chị ấy ghét vận may của em. Dĩ nhiên rồi, trong những ngày ấy, Buddy là một con thuyền mộng mơ. Cô gái nào mà chả thèm muốn. Nhưng đó chưa phải nguyên do chính. Điều khiến chị ấy thực sự tức tối là Buddy là một người Mỹ và anh ấy sẽ đưa em tới Mỹ một khi bọn em kết hôn. Nan đơn giản là thèm khát được đặt chân đến nơi này, giống như hàng vạn cô gái khác, sau chiến tranh và đói khát hay tất cả mọi thứ khác. Nhưng chị ấy thà chết còn hơn phải thừa nhận điều đó. Chị ấy cảm thấy mình phản bội nước Anh ngay cả khi chỉ nghĩ về nó. Chung quy, chị ấy ghen tị với em và Buddy và những gì mà bọn em có. Chẳng phải buồn cười lắm sao?”

“Cô ta biết em và Buddy đã li dị?”

“Ồ dĩ nhiên, em đã phải nói cho chị ấy biết, ngay khi nó diễn ra. Bằng không, em sợ chị ấy sẽ tự tìm hiểu ra, bằng cách kỳ quái nào đó, và như thế sẽ thật bẽ mặt. Vậy nên em viết thư thông báo cho chị ấy biết, và chị ấy hồi âm lại cho em một lá thư đáng tởm, ngầm tỏ ra vẻ chiến thắng, nói rằng ‘Giờ thì tôi đoán cô sẽ lại phải quay trở về đây, về tổ quốc mà cô đã ruồng bỏ.’ Ít ra thì đó cũng là những gì chị ấy đã ám chỉ. Anh biết em rồi đấy, khi đọc đến đó, em liền viết thư hồi âm cho chị ấy rằng, em vô cùng hạnh phúc khi ở đây, và rằng em sẽ không bao giờ, không bao giờ đặt chân lên cái hòn đảo nhỏ ảm đạm u ám của chị ấy thêm một lần nữa. Em chưa bao giờ kể cho anh nghe điều này, bởi vì nó khiến em rất xấu hổ, nhưng sau khi em viết lá thư đó cho chị ấy, em cảm thấy ăn năn vô cùng, thế là kể từ đó, em bắt đầu gửi đồ đạc về cho chị: các món ăn ngon của các nhà hàng sang trọng trên Beverly Hills, đủ loại pho mát và đồ đóng chai, hộp. Những thứ mà em chẳng đủ sức chi trả cho bản thân mình xài. Em quả là một con ngốc, em đã không một giây tự hỏi tại sao mình lại có thể ngây thơ đến mức làm như vậy suốt một thời gian dài. Nói trắng ra, em đã bị Nan chơi xỏ. Chị ấy cứ để mặc cho em gửi những món đồ đắt tiền đó, mà em nghĩ là chị ấy đã ăn sạch không chừa lại một mẩu, rồi sau đó mới trả đũa em khi đã chán chê. Chị ấy hỏi em chẳng lẽ ở nước Mỹ này chưa hay tin chiến tranh đã kết thúc được một thời gian rồi sao? Rằng lệnh phong tỏa nước Anh đã chấm dứt từ lâu?”

“Duyên dáng làm sao!”

“Không, Geo ạ, bỏ qua tất cả những điều đó, Nan thực sự yêu em. Chỉ là chị ấy muốn em nhìn nhận sự việc theo cách mà chị ấy nhìn nhận. Chị ấy lớn hơn em hai tuổi, điều đó có ý nghĩa rất lớn với em khi còn là trẻ con. Em luôn nghĩ về chị ấy như một con đường đã được vẽ ra trước mắt, ý em là, chị ấy dẫn tới một nơi nào đó cho em. Với chị ấy bên cạnh, em sẽ không bao giờ lạc lối. Anh hiểu em muốn nói gì không?”

“Không.”

“Ôi, quên nó đi. Có một việc nữa về chuyện quay trở về nhà. Quá khứ. Và tất cả đều kết nối lại tới Nan. Đại loại như quay trở lại con đường cũ em đã bước ra khỏi. Anh hiểu không?”

“Không.”

“Ôi Geo, quá khứ. Anh không thể giả vờ rằng không hiểu nó có nghĩa gì chứ?”

“Quá khứ chỉ là một việc đã kết thúc.”

“Ôi thật là, sao anh có thể tẻ nhạt đến như vậy.”

“Không Charley, anh nói thật đấy. Quá khứ đã kết thúc. Người ta cứ mê hoặc chính mình rằng nó chưa kết thúc, và họ cho em thấy những vật trong viện bảo tàng. Nhưng đó không phải là quá khứ. Em sẽ không thể tìm thấy quá khứ ở Anh hay ở bất kỳ nơi đâu nữa.”

“Ôi, anh nói chán ngắt.”

“Nghe này, sao em không quay về thăm nơi xưa đó một thời gian? Gặp Nan nếu em muốn. Nhưng vì Chúa, đừng có ràng buộc chính mình.”

“Không, nếu có ngày em quay về, thì đó phải là mãi mãi.”

“Tại sao?”

“Em không thể nào chịu được một sự đắn đo thiếu quả quyết nào nữa. Lần này em phải đốt cháy mọi con đường em đã từng bước qua để không bao giờ có thể quay đầu trở lại. Em tưởng em đã làm vậy khi đến đây cùng Buddy. Nhưng lần này, em phải thực sự...”

“Ôi vì Chúa lòng lành.”

“Em biết em sẽ thấy mọi thứ ở nơi đó đã thay đổi. Em biết sẽ có nhiều điều em sẽ ghét. Em biết em sẽ nhớ tất cả những tiện nghi, những hào nhoáng và thậm chí là nhớ các siêu thị đông đúc ở đây. Nhiều khả năng, khi trở về, em sẽ bị cảm liên miên vì đã quen với tiết trời ấm áp này. Và em nghĩ anh nói đúng, em sẽ khổ sở khi sống cùng Nan. Em không làm gì được về điều đó. Nhưng ít nhất, khi em ở đó, em sẽ biết mình đang thuộc về đâu.”

“Chưa bao giờ anh gặp một người thân lừa ưa nặng như em!”

“Ồ phải, em biết em trông có vẻ là người như vậy. Có lẽ. Anh có nghĩ ưa thích gian khổ là cách chúng ta biểu hiện tình yêu và lòng nhiệt thành của mình? Hay ngược lại nhỉ? Thật khôi hài làm sao. Ôi Geo, chúng ta nên uống thêm chút xíu chứ nhỉ? Hãy uống vì sự gian khổ cho Anh quốc già nua!”

“Anh không nghĩ vậy, Charley thân mến ạ. Đến giờ đi ngủ rồi.”

“Geo, anh không định về chứ?”

“Anh nên vậy, Charley.”

“Nhưng khi nào thì em lại được gặp anh?”

“Sớm thôi. Trừ phi em rời bỏ đất nước này để về lại Anh quốc ngay lập tức.”

“Ôi, đừng trêu chọc em nữa. Anh biết rõ là em sẽ không làm vậy. Sẽ mất hàng năm trời nữa để em có thể sẵn sàng. Hoặc có lẽ em sẽ không quay về chút nào. Làm sao em có thể đủ sức với hàng đống việc nặng nhọc như đóng gói, nói tạm biệt mọi người? Không, có lẽ em sẽ không bao giờ.”

“Chúng ta sẽ nói chuyện đó sau. Sẽ nói thật nhiều. Ngủ ngon, Charley!”

Bà nhướn người lên khi ông cúi xuống hôn tạm biệt. Họ đụng vào nhau ngượng ngùng và ngã bổ vào nhau, lăn tròn trên sàn nhà. Ông giữ cho bà dừng lại.

“Em ghét phải bỏ anh ở lại, Geo.”

“Vậy thì đừng.”

“Xem cái cách mà anh nói kìa. Em không tin anh thèm bận tâm em đi hay ở.”

“Dĩ nhiên là anh bận tâm.”

“Thực sự bận tâm?”

“Thực sự bận tâm.”

“Geo?”

“Sao, Charley?”

“Em không nghĩ Jim muốn em bỏ anh ở lại đây một mình.”

“Vậy thì đừng bỏ anh.”

“Không, em nghiêm túc đấy. Anh có còn nhớ cái lần em và anh đi tới San Franciso? Khoảng tháng 9 năm ngoái, ngay khi anh quay trở về từ Anh.”

“Có.”

“Jim không thể đi cùng chúng ta ngày hôm đó. Em quên mất tại sao. Cậu ấy bay tới vào ngày hôm sau và tụ hội cùng chúng ta. Ngay lúc em và anh chuẩn bị bước vào trong xe, Jim nói với em một câu mà em chưa bao giờ có thể quên được. Em đã bao giờ nói với anh chưa nhỉ?”

“Anh không nghĩ là em đã.” (Bà đã nói với ông ít nhất sáu lần, lần nào cũng là khi đã say mèm.)

“Cậu ấy nói với em, hai người hãy chăm sóc lẫn nhau.”

“Cậu ấy đã nói vậy?”

“Phải, chính xác những lời đó. Và Geo ạ, em không nghĩ Jim muốn ám chỉ chăm sóc đơn thuần. Cậu ấy muốn nói gì đó hơn thế...”

“Cậu ấy muốn nói gì?”

“Lúc đó khoảng chưa đến hai tháng trước khi cậu ấy trở về Ohio thăm nhà. Em tin rằng khi nói hãy chăm sóc lẫn nhau, bởi vì Jim đã biết...”

Khẽ lắc lư, bà nhìn ông chăm chú thành khẩn và nghiêm túc nhưng đồng thời cũng mập mờ, như thể bà đang quan sát săm soi ông, nhử mồi, cho dù hàng đống rượu trong người đã khiến bà say khướt. “Anh có tin vậy không, Geo?”

“Làm sao chúng ta có thể biết rằng cậu ấy đã biết hay không hả Charley? Có thể khi bảo chúng ta hãy chăm sóc lẫn nhau, cậu ấy thực sự muốn chúng ta làm vậy.” George đặt hai tay lên vai Charley và nói tiếp. “Vậy nên hãy để chúng ta làm việc đó bằng cách bảo nhau đi ngủ, được không?”

“Khoan, đợi đã...” Bà như một đứa trẻ, níu kéo giờ đi ngủ bằng những câu hỏi không thôi. “Anh có nghĩ quán bar đó vẫn còn muốn nhượng lại?”

“Anh nghĩ vậy. Đó là một ý không tồi. Tại sao chúng ta không mua nó nhỉ, Charley? Chúng ta vừa có thể được uống đến say mèm vừa có thể kiếm tiền. Chắc chắn sẽ thú vị hơn sống với Nan rồi.”

“Ôi, sẽ vui thú biết bao. Anh có nghĩ chúng ta thực sự có thể mua nó không? Không, anh đang giỡn phải không? Em biết anh đang giỡn mà thôi. Hãy cứ lên kế hoạch cho nó, như Jim và anh đã từng làm. Jim sẽ muốn chúng ta lên kế hoạch, phải không?”

“Chắc chắn rồi. Ngủ ngon, Charley.”

“Ngủ ngon, Geo.” Khi họ ôm nhau tạm biệt, bà hôn vào môi ông, bà đưa cả lưỡi mình vào.

Bà đã làm thế này nhiều lần trước đây. Đây là một trong những ván bài say mà bà đã đánh cược đến cả nghìn lần. Ném mối quan hệ bạn bè ra và đẩy nhanh nó sang quỹ đạo của một dạng quan hệ khác. Có bao giờ phụ nữ họ ngừng cố gắng? Không. Bởi vì không bao giờ ngừng nên họ đã học được cách trở thành một kẻ thất bại đáng kính. Sau một vài giây đứng lặng im, ông bắt đầu đẩy bà ra, bà cũng không cố bám lấy ông. Và giờ bà chấp nhận sự ra đi của ông trong yên bình. Ông hôn lên trán bà. Bà trông như thể một đứa trẻ cuối cùng cũng chấp nhận đi ngủ.

“Ngủ ngon.”

George quay đầu và mở toang cửa, sải bước dài và trượt chân ngã xuống những bậc thang, ông trượt xuống tận mười, năm mươi, một trăm thước sâu vào trong màn đêm không đáy. Tay vịn cầu thang nhỏ nhắn đã cứu ông.