Không ai thông báo cho sinh viên biết gì hết, tuy nhiên sáng hôm sau tất cả đều biết chuyện.
Sáng hôm ấy, trời ảm đạm, gió thổi như sắp mưa.
Những đứa đi học tụ tập ở bên ngoài, nhưng ở đó rất lạnh. Tất cả các lớp đều cấm vào, các sinh viên làm tạp dịch đang chùi rửa, các phòng thí nghiệm tuyệt nhiên không được ai lai vãng vì người ta đang trang bị các phòng đó, và các sinh viên, một lần nữa, tụ họp, chen chúc nhau ở cầu thang.
Tiếng nói chuyện càng lúc càng ồn ào. Mấy cô gái cứ thở dài và than vãn không ngớt. Chỉ nghe toàn chuyện ngôi trường mới, học xá, phòng cho thuê. Michka Zimine, một sinh viên thấp người, nhưng nở nang, nổi tiếng nhờ những kỷ lục đào đất, cứ la hét không ngừng.
"Thế nào, các bạn nghĩ sao? Bộ làm mọi không công hả? Đúng là không công rồi! Đúng không Gior? Anh cắt nghĩa thế nào bây giờ đây?"
Gior, nhân viên của ban chấp hành, cậu bé da đen sạm mặc áo sơ-mi ô vuông nâu đỏ đã thiết lập danh sách các nhóm phụ trách việc dọn các phòng thí nghiệm, đang đứng trên đầu cầu thang, dáng điệu đầy vẻ hối hận.
"Anh hãy đợi một chút đi, để hỏi lại xem đã…"
"Ai hỏi?"
"Thì tụi tôi chớ ai… Có lẽ phải gởi thơ hỏi ở đâu đó xem".
"Ý kiến đó được đó mấy chị", một cô bé nói với giọng cương quyết. "Chúng ta hãy gởi một đơn khiếu nại lên Moscou đi. Các chị có nghĩ là chúng ta sẽ được thỏa mãn không?"
Mọi khi đó là một cô bé ngoan ngoãn, hiền từ, nhưng giờ đây cô hết chịu đựng nổi nữa, cô sẵn sàng bỏ học: cô không thể tiếp tục lấy ra bảy chục rúp từ số tiền học bổng để thuê một chiếc giường xếp.
"Phải viết một cái thơ mới được!" Một cô bạn của cô ta nói, tay vỗ vỗ lên thành cầu thang, một cô bé rất xinh có mái tóc đen tuyền mặc một chiếc áo nỉ ngắn, rộng, kiểu thể thao. "Và tất cả chín trăm người chúng ta sẽ ký tên vào".
"Hay!..."
"Rất đúng!"
"Trước hết các bạn hỏi kỹ xem mình có thể thu được bao nhiêu chữ ký". Từ góc bên kia vọng sang một giọng nói muốn hãm bớt sự cuồng nhiệt của họ.
Valia Rogozkine, người giỏi nhất về môn điền kinh, vô địch một trăm và bốn trăm thước, vô địch nhảy cao, vua la lối, đang nằm dài trên thành cầu thang: một chân đặt lên một bậc thang, một chân bỏ qua phía bên kia thành cầu thang nơi cậu ta áp ngực lên, hai cánh tay cũng bám chặt vào thành, cằm đặt trên hai bàn tay, và không thèm đếm xỉa đến những tiếng "suỵt" của mấy cô gái, nằm nguyên trong tư thế đó, hai chân dang ra, cậu ta hướng mắt nhìn lên Gior, trong khi Valia Gougouev, một nam sinh rất trầm tĩnh, nước da sạm nắng, có đôi vai rộng, đang đứng ngay góc thành cầu thang một cách hết sức dạn dĩ và xem thường sáu thước trống không đàng sau lưng.
"Các bạn nghe đây!" Valia Rogozkine nói lớn giọng lanh lảnh. "Tất cả những chuyện đó là đồ giỡn chơi hết. Tốt hơn là ngày mai mình đừng đi học, muôn người như một đi!"
"Mình ra sân vận động đi!" Nhiều giọng cùng la lên.
"Ai cho phép các anh?" Gior hỏi, dè dặt.
"Cần gì phép của ai?" Rogozkine trợn tròn mắt đáp. "Nhất định là không có phép rồi. Nhưng chúng ta sẽ không đi học! Các anh cứ yên chí đi", anh ta hét to hơn, rồi nói tiếp bằng một giọng mạnh hơn, "Vài ngày nữa, sẽ có một ủy ban khác đến đây, bằng tàu bay, họ sẽ trả tòa nhà lại cho chúng ta và còn cho thêm một tòa nhà phụ nữa".
Một sự náo loạn bắt đầu diễn ra.
"Họ sẽ không lấy lại học bổng chớ?"
"Làm vậy hơi lố!"
"Coi chừng bị đuổi cả đám bây giờ!"
"Đó không phải là một phương pháp!" Gior hét to, át hết tiếng mọi người. "Đó không phải là phương pháp của chúng ta! Hãy bỏ ý kiến đó đi!"
Tiếng ồn ào khiến họ không thấy bà cụ Doussia đang đi lên, tay xách thùng nước bằng sắt tráng kẽm. Lên đến ngay chỗ Rogozkine, bà đổi cái thùng qua tay kia, vung cánh tay này lên và sẵn sàng ấn năm ngón tay vào thắt lưng cậu ta nếu cậu không thấy kịp và nhảy xuống các bậc thang, vì vậy mà bàn tay của bà chỉ phớt nhẹ lên người cậu ta.
"Ê, ê, cụ Doussia!". Cậu rú lên.
Cậu đưa mấy ngón tay lên, theo kiểu đùa thoi.
"Chơi kỳ vậy, lần sau tôi …!"
"Lần sau thử nằm vậy xem!" Đến lượt bà đưa tay lên dọa và nói. "Tao sẽ thoi vô mặt một cái là hết dậy nổi luôn! Thành cầu thang có biết để làm gì không, nói thử xem!"
Mọi người đều phì cười. Ở trong trường ai cũng thích bà cụ Doussia vì tính cương trực của bà.
Bà leo lên các bậc thang, rẽ đám sinh viên sang hai bên. Khuôn mặt nhăn nheo của bà rất linh hoạt và cái cằm rất cương quyết. Lẽ ra bà phải xứng đáng làm một công việc khá hơn công việc hiện được giao phó.
"Cụ Doussia đùa dai quá!".
Michka Zimine làm bà dừng chân, với câu nói thịnh hành trong giới sinh viên đó.
"Bà cho tụi cháu biết xem tại sao họ lấy ngôi trường của chúng mình vậy?"
"Mày không biết à?" Bà giả vờ. "Tại vì nó có nhiều sàn gạch quá. Nếu chùi cho bóng hết thì chắc phải khùng luôn".
Rồi bà tiếp tục đi trong tiếng leng keng của cái thùng sắt.
Tất cả đồng cười vang.
"É-ô, Valia! Có tài gì trổ cho tụi này xem đi". Đám con trai đứng trên cao nói với Gougouev khi thấy một bọn con gái khác vừa đi tới. "Có Lucia tới kìa!".
Valia Gougouev nhảy xuống khỏi góc thành cầu thang, đẩy mấy đứa bạn đứng gần đó sang một bên, đứng yên một cách rất nghiêm nghị trước khúc thành cầu thang phía trên bên phải, hai tay vịn vào thành, thủ thế, siết chặt hai bàn tay hơn nữa, và thoắt khẽ nhún chân búng thân hình mềm mại lên không và, với một động tác nhẹ nhàng và chắc chắn, cậu ta thực hiện một màn giữ thăng bằng lộn ngược trên khoảng không, hai tay chống xuống thành cầu thang, chân đưa thẳng lên trời.
Đó là một lối chơi có thể chết người như không.
Cả cầu thang im bặt, tất cả ngửa đầu lên nhìn, bọn con trai nhìn cậu ta đầy vẻ thán phục, mấy cô gái sững sờ đứng im không nhúc nhích, sợ đến lạnh người.
Cô bé Lucia, nguyên nhân của cuộc biểu diễn đó, vừa bước lên vài bậc, xoay người lại và đôi mắt xanh mở to nhìn lên cậu sinh viên, đầu trút xuống, cậu ta có thể té xuống gãy cổ ngay chỗ cô đứng trên sàn gạch nhưng cậu không rơi! Người cậu ta hơi lung lay nhưng nhìn từ xa vẫn thấy bất động, giữ thăng bằng phía trên cầu thang và không mảy may có ý định chấm dứt ngay trò chơi đó. Vả lại cậu ta quay cái lưng không được bảo vệ về phía khoảng trống, đôi chân khép sát lại chĩa thẳng lên và hơi nghiêng về phía khoảng trống như muốn thách thức, và đầu cậu ta, ở dưới cùng hết, cũng lật ngược ra phía lưng, do đó mà Valia có thể nhìn thấy Lucia, mảnh khảnh và bé nhỏ, người bó sát trong chiếc áo mưa ngắn màu lợt không có nón, và rất thích hợp với cô, với mái tóc vàng hoe, ướt nước mưa.
Nhưng cô có nhận ra được cậu ta không? Trong cái tranh tối tranh sáng của cầu thang, người ta cũng thấy được là cổ và đầu của anh chàng mãi võ sơn đông gan lì sưng lên vì máu tụ xuống.
Bỗng nhiên tiếng cảnh cáo vang lên, thì thào:
"Coi chừng! Coi chừng!".
Tức khắc Gougouev nhảy lộn trở xuống, đáp nhẹ xuống cầu thang trên đôi chân mềm mại và đứng chống cùi chỏ lên thành cầu, vẻ mặt tỉnh táo như không.
Với sự trình diễn kiểu đó, cậu ta có thể mất học bổng, cũng như có lần cậu ta để chuông reo khắp trong trường suốt mười phút trước giờ tan học (vì chúng sợ trễ giờ đi xem chớp bóng).
Grgiori Lavrentiévitch, ông giám học, cao lổng khổng như cây tre miễu, vẻ mặt quạu quọ, đang đi lên cầu thang trong lúc sự náo nhiệt vẫn chưa tái hồi và các sinh viên nhường chỗ cho ông một cách ngoan ngoãn.
Ông đã nghe tiếng "coi chừng", ông dư biết là chúng báo động một sự nguy hiểm gần kề và sự im lặng đang tiếp đón ông có một cái gì bất thường. Nhưng ông không đoán được ai là thủ phạm.
Vả lại Rogozkine, lúc nào cũng là kẻ đầu tiên mỗi khi phải mở màn một cuộc tranh luận, đã đánh tan sự im lặng đó:
"Grgiori Lavrentiévitch", anh ta hỏi to cho cả cầu thang đều nghe. "Tại sao ông cho họ lấy ngôi trường mới của mình vậy? Chính tay chúng ta cất lên mà!"
Và trong khi chờ đợi một câu trả lời, anh ta quẹo đầu sang một bên, nhái kiểu một thằng đại ngốc. Trước kia anh ta đến đây từ trường tiểu học với điệu bộ đó để chọc cười mọi người, nhất là trong giờ học.
Tất cả đều giữ im lặng và đợi ông giám học trả lời.
Trong việc giáo dục luôn luôn là như vậy: lúc nào cũng phải tỏ ra lanh trí, một mình trước mặt tất cả mọi người, và mỗi lúc mỗi khác nhau.
Grgiori Lavrentiévitch nhìn Rogozkine đầy soi mói, và anh ta vẫn không nao núng, cứ tiếp tục nhìn thẳng vào mắt ông, đầu vẫn quẹo sang bên.
"Này nhé", ông giám học đáp một cách chậm rãi. "Chú mày sẽ học cho đến khi ra trường. Hứ… hừ. Tao không chắc điều đó lắm!"
"Thầy muốn ám chỉ những cuộc tranh giải?" Rogozkine hỏi ngay.
(Mùa xuân và mùa thu nào anh ta cũng phải bỏ học một thời gian để đi dự những cuộc tranh giải, có lần ở cấp vùng có lần ở cấp toàn quốc. Tuy nhiên sau đó, anh ta cũng tiếp tục học và luôn luôn có điểm trung bình).
"Thầy có lý! Và nếu thầy muốn biết, thì xin thưa là chúng đang chín muồi trong này này (cậu ta xoah xoay ngón tay chỗ thái dương một cách khôi hài), những ý kiến về dự định tốt nghiệp ấy mà!"
"Thật hả? Vậy thì tốt quá! Giỏi, nhưng khi học xong, chú mày sẽ đi làm việc ở đâu?"
"Nơi nào họ đưa em đến". Cậu ta nói eo éo với vẻ thích chí gượng gạo, đầu thẳng, người thẳng, như một binh sĩ đang nói với cấp sĩ quan.
"Có thể là họ sẽ gởi chú mày đến tòa nhà đó. Hay bất cứ những đứa nào khác, đến làm việc ở đó. Vậy là các anh các chị đã không phí công làm việc. Rốt cuộc rồi tất cả sẽ lại thuộc về các anh các chị hết".
"Ồ, vậy thì vui quá! Em đồng ý hoàn toàn! Cám ơn!" Rogozkine nói, vẻ thỏa mãn, nhưng không thỏa mãn.
Ông giám học tiếp tục bước lên. Nhưng ông chưa đến hành lang thì Rogozkine lại đổi ý đột ngột:
"Nhưng mà không. Grgiori Lavrentiévitch! Em đổi ý rồi. Em không muốn đến đó nữa".
"Vậy chú mày muốn đi đâu?"
"Đến những vùng xôi đậu!" Rogozkine nói lớn.
"Vậy thì làm đơn đi!" Ông giám học trả lời với nụ cười mỉm.
Và ông vô hành lang để đến văn phòng ông hiệu trưởng.
Fédor Mikhéévitch vắng mặt. Hôm qua ông không được ban chấp hành vùng tiếp nên hôm nay ông phải trở lại. Một vài giáo sư, đang đợi cú điện thoại của ông, đã mất hết hy vọng.
Đây đó những giọt mưa gõ vào cửa kiếng. Miếng đất nằm giữa ngôi trường và đường xe lửa đã thấm sự ẩm ướt và đượm một màu u ám.
Các giáo sư trưởng ban đang lom khom cúi xuống những thời khóa biểu, chuyền nhau những cây viết chì màu và những cục gôm, họ đang điều chỉnh cách phân phối các lớp học, giờ giấc và nhân viên. Iakov Anaiévitch, bí thư của đảng, ngồi ở chiếc bàn nhỏ cạnh cửa sổ và cái tủ sắt của ông, đang bận rộn với đống hồ sơ của ông. Lidia Guéorguiévna đang đứng bên khung cửa sổ đó. Đàn bà rất dễ thay đổi tính tình. Mới hôm qua đây cô rất vui tươi, lanh lẹ, hôm nay trông cô có vẻ già đi, đau ốm. Cô không còn mặc màu xanh nữa mà lại mặc màu sậm.
Iakov Anaiévitch không cao lắm, hói trán, nhưng ăn mặc rất tươm tất, râu nhẵn nhụi, làn da ở gò má hồng hào, vừa nói chuyện vừa tiếp tục làm việc: ông cẩn thận lật từng trang giấy để chúng khỏi nhàu, như thể chúng là những sinh vật, và mỗi khi ông cầm một tờ giấy mỏng, cử chỉ của ông gần như là trìu mến vậy.
Ông có một giọng nói rất êm ái, yếu ớt, đồng thời rất nghiêm nghị:
"Không, các đồng chí à! Không! Không có họp hội đồng. Chúng ta sẽ không hội họp từng ban hay từng cấp, cũng không từng lớp. Làm như vậy sẽ gây chú ý quá lố. Không có lý do gì để gây sự chú ý. Còn vấn đề thông báo, lúc nào chúng cũng được thông báo hết, bằng cách nghe phong thanh…
"Nhưng chúng đã biết hết rồi", ông giám học lưu ý, "chúng chỉ muốn được giải thích".
"Như vậy thì", Iakov điềm nhiên đáp, "không cho đó là một sự chống đối, đồng chí có thể trả lời chúng trong những cuộc nói chuyện không chính thức, điều đó không thể tránh được. Trả lời thế nào à? Phải nói như thế này: Đó là một viện khảo cứu có tầm quan trọng lớn lao đối với quốc gia. Ngành chuyên môn của nó cũng giống như của mình; trong kỹ thuật, không ai có thể gây trở ngại cho công cuộc khảo cứu đó cả, trái lại phải dành mọi sự dễ dãi cho nó".
Tiếp theo là một sự im lặng toàn diện và Iakov Anaiévitch lật thêm vài trang giấy nữa mà vẫn chưa thấy được cái ông muốn tìm.
"Vả lại, chúng ta có thể tránh được những câu trả lời như vậy, chỉ cần nói một cách tóm tắt: Viện khảo cứu đó quan yếu cho quốc gia và chúng ta không phải là những người có quyền suy xét lý do của sự thực hiện đó".
Ông lật thêm vài trang giấy nữa, gấp tờ mà ông đang tìm và một lần nữa ngước đôi mắt trong sáng lên:
"Những cuộc hội họp à? Nghiên cứu đặc biệt vấn đề đó à? Không, như vậy sẽ mắc phải một lỗi lầm chính trị. Hơn thế nữa, nếu các sinh viên hay ban chấp hành Komsomol cố nài để tổ chức những cuộc họp thì ta tìm cách lái họ ra khỏi ý định đó".
"Tôi không đồng ý!" Lidia Guéorguiévna kêu lên và quay phắt lại phía ông, mái tóc cắt sát gáy chải ngược về phía sau rung nhẹ.
Iakov Anaiévitch nhìn cô với đôi mắt tự tin, và vẫn với giọng nói tế nhị, ông hỏi:
"Nhưng đồng chí không đồng ý ở điểm nào, Lidia Guéorguiévna?"
"Trước hết, ở điểm" – cô chồm người tới, cả bàn tay và đầu cô cũng đưa về phía trước – "ở điểm trước hết… Là giọng nói của anh! Không những anh chịu nhẫn nhịn mà anh còn có vẻ tự mãn nữa! Phải, quá tự mãn nên bị người ta cướp hết nhà cửa!"
Iakov dang hai bàn tay ra, chỉ hai bàn tay thôi chớ không phải hai cánh tay.
"Coi kìa, Lidia Guéorguiévna, nếu đó là một điều cần thiết có tầm mức quốc gia thì tại sao đồng chí không cho tôi thỏa mãn?"
"Và nhất là tôi không đồng ý với nguyên tắc của anh. Chính cái nguyên tắc của anh đó!"
Không thể đứng yên một chỗ được nữa", cô bắt đầu đi qua đi lại trong căn phòng chật hẹp, vung tay vung chân không ngừng.
"Trong chúng ta đây, không có ai sống với bọn trẻ nhiều bằng tôi, vì suốt từ sáng tới chiều, tôi ở với tụi Komsomol. Thế nên tôi thấy rõ chúng sẽ phản ứng thế nào về những điều mà các anh chị cổ xúy. Chúng sẽ phán xét – và sẽ có lý hoàn toàn – và sẽ cho chúng ta là sợ sự thật! Được chúng mến phục có làm chúng ta sung sướng không?... Do đó, mỗi khi chúng ta có điều gì hay, chúng ta thông báo cùng hết, dán trên tường, nói trên đài phát thanh, đúng vậy không? Nhưng đến khi có chuyện gì xấu hay không được vui thì chúng chỉ có thể biết được qua những lời bàn tán xì xầm với nhau thôi. Không thể như vậy được!"
Giọng cô vang dội, nhưng than ôi! Lần thứ nhì trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ, cô lại sắp khóc.
"Không! Chúng ta không thể hành động như vậy được! Nhất là đối với tụi tre. Lénine đã từng nói: "Không nên ngại công bố sự thật! Đó là một lưỡi gươm cứu thế!"
Nước mắt làm cô nghẹn họng không đúng lúc, và cô vội vã đi ra ngoài để khỏi phải bật khóc.
Iakov Anaiévitch ngậm ngùi nhìn theo cô, và mắt nhắm lại, vẻ đau xót, ông lắc đầu.
Lidia Guéorguiévna bước nhanh trong ánh sáng lờ mờ của hành lang, siết chặt trong tay chiếc khăn tay đã vò cục. Đây đó sinh viên đang dọn rửa, mang đi những tấm bằng của năm vừa rồi dán đầy những thành tích biểu thi đua của đảng, những bức hí họa, những tờ bích báo.
Hành lang mở rộng ra trước một cái kho nhỏ chứa ngổn ngang những thùng đựng ống; và nơi đó có hai nam sinh viên năm thứ ba đang gọi cô; chúng vừa tìm thấy cái ma-két và không biết dùng nó vào việc gì, cái ma-két quý báu mà chúng thường mang đi đầu, trên ngọn bốn cây sào, vào những dịp đi diễn hành trong ngày lễ kỷ niệm cuộc Cách mạng Tháng Mười và ngày lễ Lao động.
Ngôi trường mới đó nằm trên mấy cái thùng, chúng thuộc làu và yêu thương từng chi tiết nhỏ nhặt của ngôi trường, và giờ đây nó nằm đó, đang sống trước mắt chúng, trắng xóa, sơn xanh những chỗ cần thiết: với hai cái tháp nhỏ rất đặc biệt, xây trên những trụ vuông; hai cái cổng, một lớn, một nhỏ, những hàng cửa kiếng rộng thênh thang của phòng hội, và con số rõ ràng của những khung cửa sổ thường của ba tầng lầu, mỗi khung cửa được dành riêng cho đứa này hoặc đứa kia rồi.
"Có lẽ phải…" một trong hai đứa hỏi, nhưng tránh nhìn vào mắt cô, đứng lắc qua lắc lại với vẻ tội lỗi "…có lẽ phải thủ tiêu nó? Ở đây mình không đủ chỗ để xoay mình nữa…"
Chương VI
Ivan Kapitonovitch Gratchikov không thích những kỷ niệm chiến tranh, nhất là những kỷ niệm của chính ông, lý do là trong thời chiến, ông vui thì ít mà buồn thì nhiều. Vì mỗi một ngày qua, mỗi bước đi gợi lên trong tâm tư viên Thiếu tá bộ binh toàn những nỗi khổ đau, những nạn nhân, sự chết chóc của không biết bao nhiêu là chiến sĩ.
Và ông cũng không thích một điều nữa, là mười năm sau khi cuộc chiến chấm dứt, người ta vẫn dùng bừa bãi những danh từ quân sự. Ở nhà máy, ông không bao giờ nói, và ông tập cho những người khác đừng nói: "Trên mặt trận tấn công để bành trướng kỹ thuật tiền tuyến… ném vào lỗ hở quân địch… đánh thủng tuyến phòng thủ… cho đám trừ bị tiến lên…"
Ông cho rằng những cách nói gợi sự chiến tranh trong thời bình làm cho người ta ngao ngán. Tiếng Nga có thể tránh dùng những cách nói đó một cách dễ dàng kia mà.
…Tuy nhiên, hôm nay ông lại làm một biệt lệ đối với lập trường ấy. Ông đang cùng với ông hiệu trưởng ngồi chờ trong phòng đợi của ông Đệ nhất bí thư của ban chấp hành vùng (và trong lúc bao nhiêu người khác đang ngồi chờ trong chính phòng đợi của ông). Gratchikov đang bực bội, ông bắt đầu gọi điện thoại cho cô thư ký của ông, sau đó hút liền hai điếu thuốc.
Ông quan sát cái đầu của Fédor Mikhéévitch đang buồn bã rụt vào vai, và ông có cảm tưởng vừa mới khám phá ra là những sợi tóc bạc hôm qua chỉ chiếm có phân nửa đầu ông ta, hôm nay lại chiếm nốt phân nửa còn lại.
Và để cho ông khuây khỏa niềm đau khổ, Gratchikov bắt đầu kể một câu chuyện vui đã xảy ra với một vài người bạn mà cả hai cùng quen, trong những ngày ngắn ngủi mà sư đoàn của họ đang nghỉ dưỡng sức ở hậu cứ. Chuyện xảy ra năm 1943, sau khi Fédor Mikhéévitch bị thương.
Ông tốn công vô ích. Fédor Mikhéévitch không cười. Ông vẫn dư hiểu là đáng lẽ không nên khơi lại những kỷ niệm thời chiến. Dần dần ông nhớ lại tất cả chuyện xảy ra ngày hôm sau, khi sư đoàn của ông nhận được lệnh phải vượt sông Soj gấp và phải dàn quân ngay.
Cây cầu đã bị giật sập. Tối hôm đó, công binh đã sửa xong và Gratchikov, đứng gác ở đầu cầu, đã được lệnh không cho ai qua trước khi cả sư đoàn vượt qua. Cầu rất hẹp, hai bên thành đã rệu, ván cầu gập ghềnh, muốn đi qua phải chạy cách quãng xa vì những chiếc khu trục Junker một động cơ từ trong rừng đã đến lảng vảng hai lần trên cầu và đã thả bom xuống… sông. Cuộc vượt cầu bắt đầu lúc tảng sáng đến trưa vẫn chưa xong. Nhiều đơn vị khác cũng muốn qua nhưng bị dồn cục lại, và họ đợi đến lượt mình trong cánh rừng thông thưa. Bỗng nhiên xuất hiện mấy chiếc xe đậy mui ("che giấu" theo lời viên hầu cận của Gratchikov) chạy nối đuôi nhau và qua mặt đoàn xe đang đậu để lên cầu. "Đứng lại!", Gratchikov giận dữ quát về phía anh tài xế đi đầu, và anh chạy đến chận đầu xe lại. Nhưng tên kia cứ tiếp tục tiến tới. Tay của Gratchikov toan chụp bao súng lục và có lẽ anh đã chụp thật. Ngay lúc đó, một sĩ quan già, áo tơi khoác trên lưng, mở cửa chiếc xe đầu tiên và cũng lớn giọng: "Chỉ huy trưởng đây, dang ra!", và với một động tác của đôi vai, ông hất chiếc áo tơi ra phía sau để hở cho thấy cấp bậc hàng tướng của ông ta. Gratchikov chạy đến, hơi chột dạ. "Anh tính rút súng hả?". Ông tướng hỏi, giọng đầy hăm dọa. "Muốn đi hầu tòa phải không? Dang xe ra cho tôi qua!". Nếu ông ta đừng ra lệnh như vậy thì Gratchikov đã sẵn sàng giải thích cặn kẽ và êm thắm; nếu ông ta không la lối thì anh đã cho đi rồi. Nhưng khi công lý và bất công va chạm nhau (và Tạo hóa đã phú cho sự bất công một cái đầu cứng hơn), đôi chân Gratchikov đột nhiên như mọc rễ và anh cảm thấy bất cần cho số phận của mình. Đứng thế nghiêm ngay ngắn, tay đặt ngang mày để chào, anh tuyên bố: "Nhưng tôi không cho đồng chí tướng qua". "Sao?". Ông tướng hét lên và bước xuống bực xe: "Tên anh là gì?". "Thiếu tá Gratchikov, thưa đồng chí tướng. Xin lỗi đồng chí cho tôi biết quý danh?". "Mai anh sẽ biết, lúc đó anh sẽ ở tiểu đoàn kỷ luật!". Ông ta gầm lên. "Được lắm, hôm nay là phiên của ông!". Gratchikov xỏ ngọt, anh đứng ì ra trước đầu xe, anh cảm thấy cổ và đầu mình bị máu dồn lên đến tím mặt, nhưng anh cũng biết là anh sẽ không chịu thua. Ông tướng cố nén giận, suy nghĩ một lúc, đóng cửa xe lại và sáu chiếc xe của ông đành phải quay đầu lại…
Cuối cùng một nhóm vài ba người bước ra từ văn phòng Knorozov, những thành viên của nha nông nghiệp và ban nông vụ của ban chấp hành vùng. Konevski viên thư ký của Knorozov (anh ta có dáng điệu quá kiêu căng, và bàn giấy của anh quá bề bộn nên bất cứ ai không biết đều tưởng chính anh là ông bí thư của ban chấp hành vùng), bước vào căn phòng rồi trở ra ngay.
"Đồng chí Knorozov sẽ tiếp một mình ông", anh ta trịnh trọng tuyên bố.
Gratchikov nháy mắt với Fédor Mikhéévitch và bước vào căn phòng.
Ông trưởng chuyên viên về động vật học vẫn còn đứng cạnh Knorozov. Cổ ông ta vặn hết cỡ qua một bên, cả thân hình cũng vặn theo như thể xương ông ta co giãn được, ông ta dán mắt nhìn vào một tờ giấy lớn trải trước mặt Knorozov vẽ đầy những biểu đồ ngộ nghĩnh và những con số đủ màu sắc.
Gratchikov chào họ.
Knorozov người cao, trán hói, không quay lại phía ông, chỉ liếc mắt nhìn xéo:
"Anh không dính dáng gì với nông nghiệp hết! Vậy mà cứ đến làm rộn tôi! Anh nên ở yên một chỗ là hơn".
Đã nhiều lần ông ta thường nói với Gratchikov như vậy để đề cao nông nghiệp, làm như kỹ nghệ không đáng được trọng dụng. Gratchikov biết là hiện giờ ông ta đang đặt trọng tâm vào sinh hoạt nông nghiệp, và còn muốn làm cho mình được nổi tiếng.
"Đấy", Knorozov nói với ông trưởng chuyên viên về động vật học, với một cử chỉ chậm chạp hạ năm ngón tay dài cong lại một cách trịnh trọng, như những cây cung, xuống tờ giấy, giống như ông đóng một con dấu khổng lồ lên đó vậy.
Ông ta ngồi rất thẳng, không cần phải tựa vào lưng ghế, những đường nét rõ rệt, cứng cỏi làm nổi bật dáng người của ông ta, dù nhìn thẳng hay nhìn nghiêng.
"Đấy, ông ta lặp lại. Bây giờ tôi nói cho anh điều anh cần. Và điều anh cần là những gì tôi nói với anh".
"Tốt lắm, thưa đồng chí Knorozov", ông trưởng chuyên viên về động vật học vừa nói vừa nghiêng mình về phía trước.
"Cầm đi".
Knorozov buông tờ giấy xuống.
Nhà động vật học cẩn thận nhặt tờ giấy bằng hai tay, cuốn tròn lại, và đầu cúi xuống, trán hói đi trước, băng qua cái văn phòng mênh mông, đầy những ghế, được thiết lập cho một cử tọa đông đảo.
Tưởng mình sẽ còn phải chạy ra kiếm ông hiệu trưởng, Gratchikov chưa ngồi xuống, chỉ tựa vào thành chiếc ghế bọc da.
Dù đang ngồi sau bàn làm việc, Knorozov vẫn còn vẻ uy nghi nhờ dáng vóc vạm vỡ của ông ta. Cái đầu dài càng làm cho ông thêm vẻ to lớn. Dù đã trọng tuổi, cái trán hói không làm cho ông già đi, mà lại còn làm ông có vẻ trẻ hơn là khác. Không bao giờ ông làm một cử động vô ích, da mặt ông không động đậy nếu không có sự cần thiết tuyệt đối, đến độ khuôn mặt ông như được đúc ra như vậy, không biến đổi và không diễn tả những cảm tưởng nhất thời. Khuôn mặt đó chỉ cần đặt một nụ cười vào là sẽ mất ngay sự hòa hợp, toàn hảo của nó ngay.
"Đồng chí Knorozov", Gratchikov nói rõ từng tiếng một.
Giọng nói véo von của ông như thỉnh cầu sự khoan dung của người đối diện.
"Tôi sẽ không làm rộn đồng chí lâu đâu. Ông hiệu trưởng và tôi đến đây về vấn đề cái trường điện tử. Một ủy ban từ Moscou đến có tuyên bố là những căn nhà mới sắp sửa được giao cho một Viện Khảo cứu. Đồng chí hay chuyện đó chưa?"
Knorozov vẫn không nhìn Gratchikov, ông hướng mắt về một chân trời xa xăm trước mặt: ông ta khẽ hở đôi môi, chỉ vừa đủ để trả lời với một giọng sắc bén:
"Có".
Tiếng "có" đó đã chấm dứt câu chuyện.
"Có?"
"Có".
Knorozov cho rằng một quyết định bất di bất dịch là cả một vấn đề danh dự. Cũng như lời nói của Staline ngày xưa ở Moscou, lời nói của Knorozov ngày nay ở trong vùng không bao giờ có sự thay đổi hay một phản lệnh. Staline đã mất từ lâu. Nhưng Knorozov vẫn còn đó. Ông là một trong những người đại diện cho "phương thức chỉ huy cứng rắn", và ông coi nguyên tắc đó như là thành tích căn bản của mình. Ông không quan niệm là người ta có thể chỉ huy bằng một phương pháp nào khác hơn.
Gratchikov cảm thấy dâng lên niềm xúc động và ông cố lấy giọng càng lúc càng lễ độ, càng thân thiện.
"Nhưng, thưa đồng chí Knorozov, tại sao họ không chịu cất một tòa nhà đặc biệt thích hợp với những nhu cầu của họ? Nội những sửa chữa bên trong cũng…"
"Thì giờ?" Knorozov ngắt lời. "Họ đã nhận được những kế hoạch nghiên cứu. Công việc phải bắt đầu ngay".
"Nhưng như vậy có giải thích được tại sao lại sửa chữa không? Và…" Ông nói nhanh vì sợ Knorozov chấm dứt câu chuyện. "…và nhất là khía cạnh giáo dục của vấn đề! Các học sinh của trường đã làm việc cả một năm trời mà không được một thù lao nào, với tất cả nhiệt tâm của chúng…"
Knorozov quay đầu lại phía Gratchikov, chỉ quay đầu chớ không quay hai vai, và với giọng đanh thép:
"Tôi không hiểu nổi. Anh là bí thư của ban chấp hành thị xã, không lẽ tôi lại đi giải thích cho anh là anh phải tranh đấu cách nào để bảo vệ danh dự của thị xã à? Không có, chưa bao giờ có một viện khảo cứu nào trong thị xã của chúng ta hết. Các đại diện của chúng ta phải khổ cực lắm mới đạt được danh dự đó. Mình phải đập sắt lúc còn nóng, trước khi Bộ đổi ý. Điều đó sẽ đặt chúng ta vào một vị trí cao hơn, ngang hàng với những thành phố như Gorki, Sverdlovsk".
Ông ta nheo mắt. Phải chăng ông ta đang thấy thành phố của ông ta biến thể thành Sverdlovsk? Hay ông ta đang mường tượng đến những chức vụ cao hơn?
Nhưng những câu nói nặng như cốt sắt đang rơi ấy không thuyết phục và làm rối trí Gratchikov; trái lại ông cảm thấy đó là những giây phút quyết liệt của cuộc đời, giây phút mà chân đã bị đóng xuống đất, không thể lùi bước được nữa.
Vì công lý và bất công đang đối nghịch nhau trước mắt ông.
"Đồng chí Knorozov!"
Ông không nói mà gằn từng tiếng một như Knorozov vừa rồi, mạnh bạo hơn là ông muốn.
"Chúng ta không phải là những nam tước của thời Trung cổ chỉ biết nghĩ đến cách tô điểm cho huy chương của chúng ta. Danh dự của thị xã chúng ta nằm ở chỗ các học sinh đó đã cất được ngôi trường của chúng, chúng đã làm trong sự vui vẻ, và chúng ta có bổn phận phải giúp đỡ chúng! Nếu ta để người khác cướp ngôi trường đó đi, chúng sẽ suốt đời giữ mãi ý nghĩ là đã bị lừa bịp. Chuyện gì xảy ra một lần có thể xảy ra lần thứ hai!"
"Chúng ta khỏi phải cãi nhau!" Và lần này cây cốt sắt lớn gấp đôi vừa bổ xuống. "Mọi sự đã quyết định rồi".
Một tia sáng vàng cam lóe lên trong mắt Gratchikov. Cổ và mặt ông bị máu dồn lên đến bầm tím.
"Nhưng rốt cục ta xem trọng cái gì? Những viên đá hay con người? Tại sao chúng ta lại bủn xỉn vì những viên đá đó?"
Knorozov đứng thẳng người lên và ông ta hiện ra như một con người đúc bằng thép sừng sững, cứng đờ.
"Mị dân!" Ông ta gầm lên trên đầu kẻ phiến động.
Ý chí, sức mạnh của ông ta có vẻ như là ông chỉ cần vung cánh tay mặt ra là đầu của Gratchikov sẽ lăn lông lốc dưới đất ngay.
Nói hay im, điều đó chỉ còn tùy thuộc Gratchikov. Ông không còn cách hành động nào khác hơn.
"Không phải với những cục đá, mà là với những con người chúng ta mới kiến tạo được chính sách cộng sản", ông say sưa nói. "Dĩ nhiên là lâu hơn, khó hơn! Dù cho chúng ta có thể xây nên mọi thứ từ những hòn đá đó đi nữa, đó cũng chưa phải là cộng sản!"
Cả hai cùng im lặng.
Cả hai đều đứng bất động.
Gratchikov bỗng thấy đau ở mấy ngón tay. Đó là vì ông bấu mạnh vào thành ghế. Ông bèn buông ra.
"Anh chưa xứng đáng với chức vụ hiện thời của anh", Knorozov nói nhỏ nhẹ. "Chúng tôi đã không thấy được điều đó".
"Vậy thì tôi đi! Càng khỏe!" Gratchikov đáp, nhẹ nhõm, vì ông đã nói lên điều chính yếu. "Tôi sẽ tìm được việc làm".
"Việc gì?" Knorozov hỏi, dè dặt.
"Thợ nề quèn! Ông hãy ráng thương chúng tôi, những thằng thợ quèn!" Gratchikov hét lớn.
Sự thật thì ông đã chán ngấy cái cách làm việc đó rồi. Họ không hỏi ý kiến ông, họ không nghiên cứu vấn đề, mà chỉ truyền lệnh từ trên xuống. Ở nhà máy đâu có làm như vậy được.
Knorozov nghiến răng chặt lại, để thoát ra một tiếng rít thở dài.
Ông ta đặt tay lên máy điện thoại.
Nhấc máy lên.
Ngồi xuống.
"Sacha. Cho tôi Khabalyguine".
Khabalyguine ở đầu dây.
Trong căn phòng lúc này không ai nói gì hết.
"Khabalyguine! Anh tính lấy tòa nhà đó để làm gì vậy? Nó không được thiết trí gì cả".
(Ủa, chính Khabalyguine là người sẽ "dùng làm" à?).
"Sao lại không quan trọng? Rất quan trọng. Thời hạn, cái đó đúng, tôi hiểu… hiện giờ anh phải bù đầu vì một cái nhà, như vậy cũng đủ cho anh…"
("Cho anh?").
"Còn cái kia, tôi sẽ không cho anh đâu! Anh sẽ cho cất cái khác đẹp hơn!"
Ông ta gác máy.
"Được rồi, ra gọi ông hiệu trưởng đi".
Gratchikov vừa đi ra vừa nghĩ đến một việc mới lạ: Khabalyguine sẽ được thuyên chuyển về Viện Khảo cứu chăng?
Ông trở vô với ông Hiệu trưởng.
Fédor Mikhéévitch đứng thẳng người lại và nhìn chằm chặp vào mặt ông bí thư ban chấp hành vùng. Ông thích ông ta. Ông luôn luôn thán phục ông ta. Ông sung sướng mỗi khi được dự một buổi họp với ông ta, vì những lúc ấy ông được học hỏi, bắt chước cái ý chí, cái năng lực uyên bác của Knorozov. Và sau buổi họp đó, cho đến buổi họp tiếp theo, ông ta rất vui vẻ thi hành các công việc do buổi họp hôm trước ấn định: nâng cao trình độ các lớp học, đào khoai hay đi nhặt sắt vụn. Điều mà Fédor Mikhéévitch thích nhất là với Knorozov, được có nghĩa là được, không có nghĩa là không. Biện chứng pháp là một việc, nhưng cũng giống như bao người khác, Fédor Mikhéévitch thích những quyết định chắc chắn và rõ ràng.
Và giờ phút này ông đến để nghe sự phán quyết hơn là để tranh luận.
"Thế nào, tụi nó phá anh quá hả?" Knorozov hỏi.
Fédor Mikhéévitch mỉm cười yếu ớt.
"Cứng rắn lên chớ!" Knorozov nói với giọng êm ái nhưng cứng cỏi. "Anh mất trí khôn vì những việc lẩm cẩm đó sao?"
"Tôi không mất trí khôn". Fédor Mikhéévitch trả lời với giọng khàn và ông đằng hắng.
"Học xá đã bắt đầu xây bên cạnh rồi phải không? Vậy thì khi nào cất xong, anh sẽ được ngôi trường mới, hiểu chưa?"
"Vâng, tôi hiểu rồi". Fédor Mikhéévitch đáp.
Nhưng lần này thì hết thuốc chữa. Ông không thấy hăng hái thêm chút nào hết. Nhiều ý nghĩ đang quay cuồng trong đầu óc ông: mùa đông sắp đến rồi, còn một niên học nữa trong ngôi trường cũ, ngôi trường mới sẽ không có phòng thể dục và phòng tiệc; sẽ không có học xá.
"Vâng, tuy nhiên…" Fédor Mikhéévitch đánh bạo nói lớn, sắc mặt đầy ưu tư. "Lại phải sửa đổi lại hết các đồ án. Tất cả các phòng ngủ đều nhỏ quá, toàn những phòng đủ cho bốn giường thôi, lại phải biến chúng thành lớp học, thành phòng thí nghiệm".
"Anh sẽ thu xê...ếp những việc đó!" Knorozov vừa nói vừa khoác tay, ngụ ý chấm dứt buổi nói chuyện. Ít nhất cũng đừng bắt ông ta phải nghe những chi tiết nhỏ nhặt như vậy.
Trong lúc đi ra phòng để áo, Gratchikov vỗ vai ông hiệu trưởng:
"Thấy chưa, cũng đâu có tệ lắm đâu anh. Anh sẽ tự cất trường của anh!"
"Rồi còn phải đắp thêm trần của mấy cái hầm cho chắc nữa", Fédor Mikhéévitch nói, nặng trĩu ưu tư. "Tại mấy cái máy. Do đó còn phải phá hết tầng dưới chớ không thể để như người ta đã xây".
"Ừa…" Gratchikov nói. "Anh cứ tưởng tượng là người ta đã cho anh một miếng đất ở chỗ tốt, móng đã đào xong. Anh có thể tin chắc là mùa xuân tới ngôi trường sẽ xây xong và anh ở trong đó, chúng tôi sẽ giúp anh một tay, ban chấp hành và Hội đồng Kinh tế quốc gia. Anh có thể tự khen là ít nhất cũng đã dành được tòa nhà thứ hai đó".
Họ đi ra đường, cả hai đều mặc áo mưa và đội kết sậm. Một ngọn gió lành lạnh nhưng dễ chịu thổi qua, mang đến nhiều giọt nước mát rượi.
"Này anh", Gratchikov hỏi, nét mặt dàu dàu, "anh biết cái thế của Khabalyguine ở trên Bộ như thế nào không?"
"Thằng ấy à! Khỏi nói! Hắn được trọng vọng lắm! Từ lâu hắn thường bảo với tôi là hắn có rất nhiều thế lực ở đó. Anh có nghĩ là hắn giúp được mình không?" Fédor Mikhéévitch hỏi, phấn khởi.
Nhưng ông nói ngược lại ngay:
"Không. Nếu hắn giúp được thì hắn đã nói cho mình một tiếng trong lúc ủy ban đến viếng rồi. Trái lại hắn đã đồng ý…"
Gratchikov đứng dạng thẳng chân và nhìn con đường dài. Ông lại hỏi:
"Hắn làm gì? Có chuyên môn gì không?"
"Hắn mà chuyên môn gì, còn lâu! Không, hắn chỉ là một người có kinh nghiệm hành chánh".
"Vậy anh có hiểu tại sao hắn ở trong ủy ban không?"
"À nhỉ…"
Câu hỏi này vừa mới nảy ra trong đầu óc ưu sầu của ông từ hôm qua.
"Tại sao?"
"Thôi đi nhé!" Gratchikov nói với một tiếng thở dài.
Ông chìa tay thẳng ra và siết chặt tay Fédor Mikhéévitch.
Trên đường về nhà, ông không ngớt nghĩ đến Khabalyguine. Một viện khảo cứu như vậy không ăn thua gì tới ngành chuyên môn của ông ta, nhưng lại có nghĩa một sự đãi ngộ khác, những vinh dự khác, và ít lắm cũng có thể được một Giải thưởng Quốc gia.
Gratchikov đã đi đến kết luận cứng rắn là không bao giờ nên chờ cho một đảng viên nào của đảng vi phạm luật lệ. Phải khai trừ tức khắc những ai, dù không có xây cất nhà cửa, dinh thự nguy nga, nhưng tìm cách trục lợi trong bất cứ một công việc nhỏ nhặt nào trong chức vụ và sự giao thiệp của mình… Không cần phải quở phạt họ, hay công khai khiển trách họ, việc duy nhất phải làm là khai trừ họ, bởi đó không phải chỉ là một hành vi đáng trách, một lỗi lầm hay một sự yếu lòng, mà là cả một ý thức hoàn toàn xa lạ, một đầu óc tư bản.
Người ta đã khám phá và tố cáo trên báo chí địa phương một cặp vợ chồng, chồng tài xế, vợ giáo viên, đã trồng hoa trong vườn của họ để đem ra chợ bán.
Phải, nhưng làm sao tóm được Khabalyguine đây?
Về phần Fédor Mikhéévitch, ông chậm rãi đi bộ cho đầu óc được thanh thản. Cả đêm không ngủ, hai liều thuốc an thần, và tất cả những nỗi lo lắng đã làm cho ông khổ sở trong suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ vừa qua, đã để lại trong thâm tâm ông một sự hãi hùng, một cái gì độc hại; giờ đây, nhờ ngọn gió thoảng mát rượi, những điều đó đã dần dần bay ra khỏi con người ông từng mảnh nhỏ một.
Được rồi, ông nghĩ, đến nước này thì chỉ còn cách bắt đầu lại từ số không vậy. Mình sẽ tập họp lại hết chín trăm học sinh để giải thích: chúng ta không còn gì nữa hết, các con à. Phải xây lại. Với sự đóng góp của chúng ta công việc sẽ mau hơn.
Lúc đầu sẽ có một vài tiếng nghiến răng.
Sau đó, chúng sẽ say mê công việc lần thứ hai, vì công việc nào cũng làm cho say mê hết.
Chúng sẽ tin ông.
Và chúng sẽ dấn thân vào nhiệm vụ mới.
Được rồi, mình sẽ ở lại thêm một năm trong ngôi trường cũ.
… Và mải suy nghĩ, ông không hay là mình đang đứng trước ngôi trường mới, kim khí và kiếng cửa sáng lấp lánh.
Ngôi trường thứ hai, dưới chân ngôi trường mới, chỉ mới thấy lú lên khỏi mặt đất, phía trên phủ đầy cát và đất sét.
Những câu hỏi của Gratchikov về Khabalyguine đã làm nhảy múa trong đầu óc thật thà của ông những sợi dây đứt khúc, rời rạc, và bỗng chốc những đầu dây đó được nối lại với nhau: cái cách gây sự bê trễ cho việc tiếp nhận ngôi trường mới cho đến tháng Tám, vẻ hí hửng của ông ta trong cuộc thăm viếng.
Và lạ thay, kẻ gây cho ông những mối ngờ vực dọc đường chính là người đầu tiên ông trông thấy trong cái sân lớn, phía sau cổng trường mới: Vsévolod Borissovitch Khabalyguine đang đứng ở đó, đầu đội nón xanh ve chai và mình mặc áo măng-tô nâu, ông ta giẫm bừa lên đất bùn ẩm ướt mà không sợ làm dơ giày, đang ra lệnh cho mấy người thợ, dĩ nhiên là thợ của ông ta. Hai người thợ và anh tài xế đang vác từ trên xe xuống những cây trụ đã bạc màu, dù vừa mới được sơn lại, và có lẽ đã được xài ở đâu trước rồi, bằng chứng là các đầu trụ mục nát đã được cắt bỏ. Hai người thợ khác đang lom khom làm một việc gì đó, đúng theo sự chỉ dẫn của Khabalyguine, ông ta vừa nói vừa ra dấu với hai cánh tay ngắn ngủn của mình.
Fédor Mikhéévitch tiến đến gần hơn và thấy họ đang đóng cọc xuống đất, nhưng họ đang gian lận, thay vì đóng thẳng hàng, họ đóng lấn qua miếng đất bên cạnh, với mục đích chiếm đất tối đa cho Viện Khảo cứu và chừa lại tối thiểu cho trường kỹ thuật.
"Vsévolod Borissovitch! Xin anh lương thiện cho! Anh làm gì kỳ vậy?" Ông hiệu trưởng quát lên khi thấy mình bị bóc lột như vậy. "Những đứa trẻ con mười lăm, mười sáu tuổi, chúng cần thở, cần nô đùa chớ! Như vầy trong giờ chơi chúng đi đâu?"
Khabalyguine vừa mới đứng vững trên một điểm chiến lược ấn định lằn mức rẽ cuối cùng của cái hàng rào gian lận. Hai chân soạc ra hai bên ranh giới tương lai, ông ta vừa đưa tay lên thì nghe Fédor Mikhéévitch đang chạy đến sát ông ta và nói những lời trên. Và trong tư thế đó, bàn tay chĩa thẳng lên trời, Khabalyguine xoay đầu lại một chút (vả lại cổ và gáy ông ta quá mập nên dù ông ta có muốn xoay nhiều hơn nữa cũng không thể được), ông ta chỉ hơi nhếch mép để lòi hai chiếc răng nanh ra, giọng càu nhàu:
"Cái gì? Gì...gì?"
Không đợi câu trả lời, ông ta quay lại, điều chỉnh lại đường ranh, bằng cách đưa thẳng tay tới trước mặt, sửa lại chỗ đứng của một trong những người thợ bằng cách hạ bốn ngón tay xuống, và vung cánh tay ngắn ngủn lên, rạch một đường trong không khí.
Có thể nói ông ta không phải chỉ rạch không khí thôi, mà rạch cả mặt đất nữa. Không, không phải ông ta đang rạch đất. Ông ta đang làm cử chỉ của người đang vạch một con đường rộng nào đó, một tướng lãnh của thời thượng cổ đang chỉ đường cho đoàn quân của mình, của vị thuyền trưởng đầu tiên hướng con tàu lên miền Bắc cực.
Chỉ sau khi thi hành xong công tác đó, ông ta mới quay hẳn sang Fédor Mikhéévitch để giải thích:
"Phải như vậy mới được, đồng chí à".
"Sao lại phải như vậy mới được?" Fédor Mikhéévitch hét lên, sự tức giận đã lên đến cùng tột và ông lắc đầu. "Lại vì đại cuộc nữa chớ gì? Đúng không? Cứ đợi xem". Ông la lớn hơn, hai tay nắm chặt.
Và, không thể nói gì hơn, ông quay người lại, bước nhanh ra đường cái, miệng lẩm bẩm:
"Cứ đợi xem, đồ chó chết! Cứ đợi xem, đồ heo!"
Thợ thuyền vẫn tiếp tục khiêng trụ đến.
Nguồn: Alexandre Soljénitsyne, Ngôi nhà của Matriona, nguyên tác La Maison de Matriona, bản dịch Nguyễn Văn Son, bìa Nguyễn Đồng. Ấn phẩm thứ 36 của Nhà xuất bản Trẻ, ấn hành lần thứ nhất 1.000 bản tại nhà in Ngọc Thảo của nhà xuất bản, không có bản đặc biệt. Ngày phát hành: 8.6.1974. Giấy phép số 2572/74/BDVCH/KSALP/TP ngày 25.5.1974. Bản điện tử do talawas thực hiện.