Nghìn lẻ một ngày

Chương 14 (B)

  NGÀY THỨ MỘT TRĂM LẺ TƯ.

Chúng tôi vừa nhảy lên thuyền chèo ra xa khỏi bờ được một đoạn, quay lại nhìn thấy người thổ dân, chủ chiếc thuyền từ trong nhà ra. Thấy không còn chiếc thuyền buộc ở cọc nữa, y gào lên khủng khiếp, đe doạ chúng tôi. Nhưng vô ích thôi, chúng tôi đã ra được ngoài khơi. Chúng tôi cố chèo miết cho đến đêm thì đi được khá xa, quay lại nhìn không thấy hòn đảo nữa. Tạ ơn trời đất đã giải thoát cho, chúng tôi cùng mừng vui với nhau như thể đã cập bến một cảng an toàn. Mặc dù đang lênh đênh giữa biển khơi không một chút thức ăn, nước uống và con thuyền mong manh này bất cứ lúc nào cũng có thể bị sóng nhấn chìm,nhưng lúc này chúng tôi chỉ biết mừng thoát khỏi tay bọn thổ dân. Dù sao thì chết đuối trên biển còn hơn bị rắn ăn thịt.

Sau khi lênh đênh suốt đêm, tảng sáng chúng tôi nhận thấy một hòn đảo nhỏ, liền cập bờ. Trên bờ có nhiều quả lạ, lủng lẳng vô vàn quả chín sà xuống mặt đất. Chúng tôi rất đỗi vui mừng bởi lúc này đã cảm thấy đói. Hái một vài quả ăn thử thấy rất ngon.

Sau trận khủng khiếp những người thổ dân gây nên, giờ chúng tôi như được một niềm vui hoàn hảo. Giờ chúng tôi lại đùa cợt về nhau những chuyện từng làm chúng tôi băn khoăn khốn khổ. Chúng tôi chế giễu nhau đã bỏ qua cơ hội tuyệt vời với hai người phụ nữ. Khi đã ăn được mấy miếng vào bụng, chúng tôi buộc con thuyền vào một gốc cây, rồi đi sâu vào trong đảo. Tôi chưa từng thấy nơi nào dễ chịu hơn chỗ này, trên đảo trồng nhiều cây gỗ quý như trầm hương, lê, hồi, lại có lắm dòng suối nước ngọt trong leo lẻo, cùng rất nhiều trái cây cũng như các loại hoa tươi.

Điều làm chúng tôi ngạc nhiên hơn cả là hòn đảo này cho dù đầy đủ tiện nghi và dễ chịu cho cuộc sống như vậy lại có vẻ hoang vu. Tôi nói với Xaơt: “Tại sao đảo này lại không có người ở? Chúng ta không phải là những người đầu tiên đến đây. Trước chúng ta hẳn có nhiều người đã phát hiện ra nó, tại sao hòn đảo lại bỏ hoang?”

Xaơt đáp:

- Thưa hoàn tử, đảo không có người ở, đấy là dấu hiệu chắc chắn nơi này không thể sống được, có một điều bất tiện nào đấy khiến nó không trở thành nơi cư trú.

Hỡi ôi! Khi anh Xaơt nói vậy, anh đâu có nghĩ mình hoàn toàn nói đúng sự thật.

Cả ngày hôm ấy chúng tôi nghỉ ngơi và đi dạo trên đảo.

Đêm đến chúng tôi ngã lưng trên bãi cỏ xanh. Trên cỏ có nhiều bông hoa rụng xuống vẫn còn thơm ngát. Chúng tôi ngủ ngon lành.  Khi  tỉnh giấc tôi ngạc nhiên chỉ thấy có một mình. Tôi cất tiếng gọi Xaơt nhiều lần. Không nghe anh trả lời, tôi dậy đi tìm. Sau khi xục xạo một phần hòn đảo, tôi quay trở về nơi hai anh em vừa nằm, hy vọng đã có anh ở đấy. Nhưng tôi chờ đợi suốt cả ngày hôm ấy và cả dêm hôm sau nữa. Tuyệt vọng vì không thể gặp lại người bạn chí thiết, tôi cất tiếng khóc lóc thở than:

- Hỡi anh Xaơt thân thiết của tôi! Lúc này anh ra sao rồi? Suốt thời gian tôi có anh bên cạnh, anh đã giúp tôi cùng chịu đựng những ghánh nặng của số phận đen đủi, anh đã chia sẽ những khổ ải nhọc nhằn với tôi. Bây giờ anh đi đâu? Có quyền uy dã man có thể chia rẻ chúng ta? Sẽ êm đềm biết bao nếu tôi được cùng chết với anh, như vậy còn hơn sống sót ở đây một mình.

Tôi không thể nào khuây nguôi đã mất đi một người bạn thân thiết. Điều khiến tôi băn khoăn nhất, là không hiểu điều gì đã xảy ra với anh. Tuyệt vọng, tôi quyết định bỏ mình trên hòn đảo này. Tôi tự nhủ, ta sẽ đi khắp hòn đảo này hoặc ta tìm ra Xaơt hoặc ta chết ở đây.

Tôi đi tới một khu rừng nhìn thấy đằng xa. Đến nơi, thấy chính giữa rừng có một toà lâu đài vững chắc, chung quanh có hào rộng và đầy nước sâu, chiếc cầu được cất đang đắt ngang bắc qua hào. Tôi bước lên cầu, đi vào một khoảng sân rộng lát bằng cẩm thạch trắng và tiến tới gần cái cổng ở phần đẹp nhất của toà lâu đài. Cổng làm bằng gỗ lô hội, có chạm nổi nhiều hình chim chóc. Một chiếc khoá lớn bằng thép có hình dạng sư tử khoá chặt cổng. Chìa khoá cắm sẵn trong ổ khoá. Tôi vừa cầm chìa định mở thì cái ổ khoá tự động vỡ tan như nó làm bằng nước đá, và cánh cửa tự nó mở ra không cần phải ai đẩy, điều làm cho tôi cực kỳ ngạc nhiên

Thấy một cầu thang xây bằng cẩm thạch đen, tôi leo lên vào một gian phòng rộng có trải một tấm thản lụa thêu vàng, nhiều chiếc sập phủ đệm gấm thêu. Từ đây tôi sang một căn phòng khác, đồ đạc cũng rất sang trọng, nhưng tôi chẳng quan tâm nhìn những thứ đó. Mắt tôi chỉ chăm chăm nhìn vào thiếu phụ xing đẹp. Nàng đang nằm trên một chiếc sập lớn, đầu gối lên một chiếc gối mềm, người nàng mặc áo quần sang trọng. Bên cạnh nàng có một cái bàn nhỏ làm bằng vân thạch. Nàng đang nhắm mắt, tôi nghĩ đây là một người còn sống, tôi nhẹ nhàng tiến tới gần và nhìn thấy nàng thở

  NGÀY THỨ MỘT TRĂM LẺ NĂM.

Tôi đứng yên một lúc quan sát Nàng rất đẹp và có thể tôi đã đâm si mê nếu trong lòng tôi không khắc sâu từ trước hình ảnh nàng công chúa Bêđyan-Giêman. Tôi cực kỳ muốn biết tại sao trên một hoang đảo lại có một thiếu phụ tươi như hoa đang ngủ một mình trong toà lâu đài tuyệt không một bòng người nào khác. Tôi rất mong nàng tỉnh dậy, nhưng nàng ngủ sâu quá tôi không dám làm kinh động giấc ngủ của nàng. Tôi đi ra ngoài toà lâu đài, quyết định sẽ quay lại mấy tiếng đồng hồ sau.

Đi dạo trên đảo, tôi khủng khiếp nhìn thấy một số rất nhiều những con thú thân mình to bằng con hổ, nhưg hình dáng và chân cẳng lại cao kềnh, giống nhức con kiến. Tôi sẽ ngỡ đấy là loài thú hung dữ ăn thịt nếu chúng không bỏ chạy khi nhìn thấy tôi. Tôi cũng còn gặp nhiều con dã thú khác, con nào cũng có vẻ như kính trọng tôi, mặc dù bộ dãng của chúng nhìn hung dữ phát khiếp. Sau khi ăn mấy trái cây và dạo chơi hồi lâu trên đảo, tôi quay trở lại toà lâu đài.

người thiếu phụ vẫn ngủ say sưa. Tôi không thể nào ngăn được nữa nỗi khát khao được trò chuyện với nàng. Tôi gây tiếng động, tôi giả vờ ho mong nàng thức giấc. Nàng vẫn cứ thiêm thiếp giấc nồng. Tôi tiến đến gần sẽ sờ vào cánh tay hy vọng nàng giật mình thức giấc, song không cách nào đánh thức nàng dậy. Tôi thấy chuyện này chẳng bình thường chút nào, chắc là phải có bùa ma phép quỷ gì đây. Có thể nàng bị ai bùa mê bắt nàng ngủ thiếp đi, nếu đã phải bùa mê thì làm sao đánh thức nàng dậy. Tôi đã thất vọng, chợt nhìn thấy cái bàn cẩm thạch đặt bên cạnh nàng mà tôi vừa nói đến, trên mặt bàn có khắc mấy dòng chữ. Tôi nghĩ những chữ này hẳn có liên quan đến giấc ngủ của nàng đây. Tôi định kéo cái bàn đi khác, nhưng vừa chạm đến mặt bàn, người thiếu phụ lập tức buông một tiếng thở dài và tỉnh giấc.

Cũng như tôi vừa ngạc nhiên thấy một thiếu phụ xinh đẹp thế này ngủ một mình trong toà lâu đài vắng, thì nàng cũng ngạc nhiên không kém khi nhìn thấy tôi:

- Hỡi chàng trai trẻ!- Nàng hỏi.- Làm sao chàng có thể vào được nơi đây? Bằng cách nào chàng đã vượt qua những trở lực ngăn không cho bất kỳ ai đặt chân vào toà lâu đài, những trở lực vượt quá sức con người. Em không tin chàng  là một người trần. Phải chăng ngài là đấng tiên tri đi vừa tái sinh?

Chẳng phải thế đâu, thưa bà,- tôi đáp.- Tôi chỉ là một con người bình thường. Tôi có thể quả quyết với nàng tôi vào đây chẳng khó khăn gì, chẳng thấy trở lực nào phải vượt qua cả. Tôi vừa chạm đến cái chìa khoá cổng, thì cánh cổng toà lâu đài tự động mở ra. Tôi theo cầu thang lên tận phòng này chẳng bị thế lực nào cản trở. Có điều tôi đã không dễ dàng đánh thức bà dậy, đấy là điều làm mất nhiều thời gian hơn cả.

- Em chẳng thể tin lời chàng vừa nói- thiếu phụ nói tiếp - Em tin chắc chắn không có người trần nào có khả năng làm được những việc như chàng vừa nói. Vì vậy em không thể nào tin, cho dù chàng nói sao đi nữa, chàng không thể là một người trần thế.

. Thưa bà, có thể tôi có một chút gì đấy hơn một con người bình thường. Phụ thân tôi là một đấng quân vương, đúng vậy, nhưng dù sao tôi cũng chỉ là một người trần như mọi người khác. Ngược lại, tôi có lý do để nghĩ bà thuộc đẳng cấp cao hơn người trần thế chúng tôi.

- Không, hoàn toàn chẳng phải vậy- nàng đáp.- Em cũng như chàng là người trần thế. Nhưng, xin chàng cho biết, tại sao chàng giã từ triều đình phụ vương, và bằng cách nào đến được hòn đảo này?

Tôi thoả mãn sự hiếu kỳ của nàng. Tôi ngây thơ nói thật, tôi si mê nàng công chúa Bêđy-an-giêman, con gái quốc vương Saban, nên quyết tâm đi tìm nàng tận đầu trời cuối đất Tôi vừa nói vừa đưa tấm chân dung công chúa cho nàng xem, bới nhờ tôi cố giấu thật kín cái hộp cũng như chiếc nhẫn, cho nên bọn thổ dân không nhìn thấy. Thiếu phụ cầm bức chân dung, chăm chú ngắm rồi bảo tôi:

- Em có nghe nói đến quốc vương Saban, ông trị vì một hòn đảo không mấy xa đảo Xêrenđip. Nếu con gái nhà vua ấy cũng đẹp như bức chân dung này, thì nàng xứng đáng để chàng say mê thiết tha đến vậy. Nhưng không nên quá tin vào các bức chân dung hoạ các nàng công chúa, bao giờ người ta cũng tô vẽ cho các nàng đẹp hơn trong thực tế. Xin chàng hãy kể nết câu chuyện của chàng, sau đấy em sẽ nói chàng nghe về những chuyện xảy ra trong cuộc đời em. Tôi thuật tiếp với đầy đủ mọi chi tiết những việc xảy ra kể từ sau chuyến ra đi khỏi thành phố Cairo. Kể xong tôi xin nàng hãy cho nghe về cuộc đời nàng. Nàng bắt đầu thuật lại như sau:

- Em là con gái duy nhất của quốc vương đảo Xêrenđip.Một hôm em đang cùng các cung nhân dạo chơi trong một toà lâu đài phụ vương em cho xây dựng không mấy xa kinh thành Xêrenđip, chợt em nảy ra ý nghịch ngợm muốn tắm trong chiếc bể bằng cẩm thạch trắng xây ngay trong vườn của toà lâu đài. Em sai cởi bỏ trang phục, và cùng với cô cung nhân sùng ái nhất của em nhảy vào bể nước. Chúng em ngâm mình trong nước chưa được bao lâu, bỗng nổi lên một trận cuồng phong. Một cơn lốc bụi xuất hiện trên không gian, ngay phía trên đầu chúng em. Giữa luồng cát bụi ấy xuất hiện một con chim khổng lồ sà xuống, đưa móng chân quắp lấy người em bay đi và đưa đến toà lâu đài này. Đến nơi, chim thay hình đổi dạng, biến thành một thần linh trẻ tuổi. Thần nói với em:

- Thưa công chúa, tôi là một trong những vị thần linh nhiều uy lực nhất trong vũ trụ. Hôm nay tình cờ bay ngang qua đảo Xêrenđip, tôi thấy nàng đang tắm, sắc đẹp của nàng làm tôi say mê. Tôi tự bảo nàng công chúa này trông xinh quá, thật đáng tiếc để nàng làm nên hạnh phúc cho một người trần. Nàng đáng được thần linh yêu quý. Ta nên bắt cóc nàng, mang nàng đến một hòn đảo vắng. Bởi vậy, thưa công chúa, nàng đã đến đây, xin hãy tạm quên đi phụ vương nàng, chỉ nên nghĩ tới việc đáp lại mối tình của tôi. Trong toà lâu đài này không thiếu thốn thức gì, và tôi sẵn sàng mang đến cho nàng tất cả những gì nàng cần thiết.

  NGÀY THỨ MỘT TRĂM LẺ SÁU.

Trong khi vị thần linh trẻ nói vậy, tôi chỉ có khóc lóc thở than. Tôi mình tự bảo mình:

- Hỡi cô bé Malica, đây là số phận dành cho cô sao. Phụ vương cô đã tốn công dạy dỗ cô chu đáo thế để rồi chịu nỗi đau mất cô sao? Hỡi ôi? Lúc này cha tôi đang lo, không rõ Con gái hiện nay ở đâu và ra thế nào rồi, e cha tôi đến phải bó mình vì buồn phiền mất đi đứa con gái.

- Không đâu,- thần linh đáp- phụ vương nàng sẽ không chết vì buồn phiền. Còn nàng, thưa công chúa, tôi hy vọng nàng cảm thông tình yêu của tôi.

Tôi bảo với thần linh giọng gay gắt:

- Xin ngài chớ vội mừng về hy vọng hão huyền ấy. Suốt đời tôi sẽ mang mối hận thù sâu sắc đối với kẻ bắt cóc mình.

- Rồi công chúa sẽ thay đổi tình cảm,- thần linh lại nói.- Rồi công chúa sẽ dần dần quen nhìn thấy mặt tôi và trò chuyện tâm tình với tôi. Thời gian sẽ gây nên hiệu quả.

- Chẳng bao giờ có sự thần kỳ ấy.- tôi chua chát ngắt lời thần.- Với thời gian tôi càng thêm thù hận ông hơn. Vị thần trẻ không tỏ ra phật ý về lời lẽ gay gắt của tôi, vẫn mỉm cười. Chắc hẳn thần tin rồi tôi sẽ ngã lòng theo lời thần tán tỉnh. Thần không nề hà bất cứ việc gì không làm để vui lòng tôi. Không rõ y đi lấy ở đâu ra áo quần rất sang trọng mang về cho tôi mặc. Y tìm mọi cách làm cho tôi cảm động. Nhưng nhận thấy hoàn toàn không có chút thay đổi nào trong trái tim tôi, dưới mắt tôi rõ ràng y mỗi ngày mỗi bị căm ghét hơn. Cuối cùng mất kiên nhẫn, y quyết định trả thù thái độ khinh rẻ của tôi.

Vị thần ấy vẩy vào tôi một loại nước phép khiến tôi ngủ say như chết. Y đặt tôi nằm dài trên chiếc sập trong tư thế chàng đã nhìn thấy, và để cạnh tôi cái bàn cẩm thạch này, trên đó khắc sẵn những dòng bùa yêu bắt tôi ngủ say cho đến ngày tận thế. Thần linh ấy còn bày ra hai phép quỷ nữa. Một phép khiến toà lâu đài này mắt người trần không nhìn thấy được. Phép thứ hai ngăn không cho ai mở được cánh cổng mà vào. Sau đấy, thần để tôi lại một mình trong căn phòng này và bỏ đi. Thỉnh thoảng thần quay trở lại, dùng phép đánh thức tôi dậy, hỏi cuối cùng tôi đã sẵn sàng đáp lại nỗi đam mê của y hay chưa. Và bởi lần nào tôi cũng cố tình đối xử cao ngạo, y đành lại bắt tôi tiếp tục ngủ thiếp đi để trừng phạt.

- Ấy thế, thưa ngài, ngài lại có khả năng đánh thức tôi dậy, ngài có thể mở cổng mà vào toà lâu đài nhẽ ra mắt người trần không sao nhìn thấy được. Vậy sao bảo tôi tin được chàng là người trần thế. Tôi có thể nói thêm, ngài còn sống được để vào tận đây là điều kỳ lạ, bởi tôi có nghe vị thần linh ấy nói, những' con thú hung dữ trong khu rừng rậm từng ăn thịt tất cả những ai ghé chân lại hòn đảo, và đấy là nguyên nhân vì sao cho đến bây giờ đảo này vẫn hoang vu.

Trong khi công chúa Malica đang tiếp tục kể cho tôi nghe câu chuyện, thì có tiếng quát ầm ĩ trong toà lâu đài. Nàng ngừng lời, lắng tai nghe cho rõ hơn. Trong chốc lát, nhiều tiếng hét khủng khiếp dội vào tai chúng tôi. Công chúa lo lắng kêu lên:

- Trời đất ơi! Chết chúng ta rồi. Thần linh ấy đến đấy, em nghe rõ chính giọng y. Chàng sắp bỏ mạng rồi, không có gì có thể cứu chóng thoát khỏi cơn giận dữ của y. ôi, hỡi hoàng tử đáng thương! Sao định mệnh oái oăm dẫn chàng đến toà lâu đài này? Nếu chàng đã tránh được bọn thổ dân hung ác, thì than ôi, lần này chàng không thoát khỏi sự dã man của kẻ bắt cóc em đâu.

Tôi cũng tin mình sắp chết. Và trong thâm tâm quả tôi không nghĩ thần linh ấy sẽ đối xứ nhẹ tay với mình. Y đùng đùng bước vào toà lâu đài, sắc mặt giận dử, thân hình y cực kỳ cao lớn, tay cầm một cái chuỳ bằng thép to tướng.

Nhưng vừa trông thấy tôi y đã rùng mình. Thay vì giáng cái chuỳ khổng lồ ấy lên đầu tôi, hoặc cất lời doạ nạt, thần linh ấy lại run rẩy tiến đến gần, quỳ mọp dưới chân tôi và thưa như sau:

- Thưa hoàng tử, con trai đáng quân vương vĩ đại, xin ngài hãy ra lệnh, tôi xin sẵn sàng tuân lệnh bất cứ ngài sai bảo việc gì.

Tôi ngạc nhiên lắm, không hiểu sao thần linh này lại quỳ trước mình và nói với mình theo giọng một người nô lệ nói với chủ. Nhưng tôi hết ngạc nhiên ngay khi nghe y nói tiếp: "Chiếc nhẫn ngài đeo ở tay là ấn của đại đế Xalomon(Một nhân vật huyền thoại phổ biến ở nhiều dân tộc châu âu và Trung Đông (PQ).). Bất kỳ ai đeo chiếc nhẫn vào ngón tay thì không bao giờ có thể gặp hiểm nghèo. Người đeo nhẫn này có khả năng vượt qua biển cả lúc bão tố dữ dội nhất mà không sợ bị nhấn chìm. Những thú hoang hung dữ nhất không dám làm hại người ấy. Mọi thần linh phải nhất nhất tuân phục lệnh người ấy truyền. Tất cả mọi bùa yêu phép quỷ đều tan tành trước ân của đức Xalomon".

- Vậy ra nhờ chiếc nhẫn mà ta đã không bị đắm tàu?

- Đúng vậy, thưa ngài,- thần đáp- và chính chiếc nhẫn ấy đã cứu ngài thoát khỏi nanh vuốt những con thú dữ trên hoang đảo.

- Thần hãy cho ta biết tôi hỏi tiếp- người bạn đồng hành cùng với ta lên hòn đảo này, hiện ra sao?

- Tôi có đủ quyển uy biết rõ hiện tại và quá khứ,- thần linh đáp- tôi xin thưa, người bạn của ngài đã bị các con kiến khổng lồ ăn thịt ngay đêm đầu tiên khi nằm ngủ bên cạnh ngài. Trên hoang đảo này có vô số những con kiến khổng lồ, chính vì chúng mà đảo này người không có người ở Tuy nhiên không vì vậy ngăn cản dân các đảo lân cận, nhất là dân sống bên quần đảo Manđivơ hằng năm sang đây đẵn gỗ trầm hương. Nhưng mang được trầm hương ra khỏi đảo chẳng phải dễ dàng. Họ phải làm theo cách như sau: Vào mùa hè, họ cho tàu cập đảo, mang theo trên tàu những con ngựa cao to và rất nhanh nhẹn. Họ cho ngựa lên đảo rồi cười ngựa phóng thật nhanh, chạy đi tìm nơi có cây trầm hương tốt. Khi thấy lũ kiến khổng lồ xúm lại, họ ném cho chúng những tảng thịt lớn đã mang theo. Trong thời gian lũ kiến mải mê xúm vào ăn các tảng thịt, đủ thời giờ cho họ đánh dấu những cây gỗ cần chặt, sau đấy quay xuống tàu ngay. Chờ đến sang đông, họ mới quay trở lại đẵn những cây gỗ đã đánh dấu, lúc này không lo lũ kiến giết hại vì kiến không ra khỏi ổ vào mùa đông giá lạnh.

Tôi không thể nén đau thương khi nghe số phận anh Xaơt kết thúc thảm thương như vậy. Tôi hỏi tiếp thần linh, vương quốc Saban nằm ở nơi nào, và liệu nàng công chúa Bêđy-an-giêman con gái của quốc vương hiện còn sống trên đời hay không. Thần đáp:

- Thưa ngài, trong vùng biển này có một hòn đảo, nơi ấy đúng là có một nhà vua danh hiệu Saban trị vì, nhưng nhà vua không có con gái. Nàng công chúa Bêđy-an-giêman mà ngài vừa nói đến, quả là con gái của một nhà vua cũng mang vương hiệu Saban, nhưng ông sống xưa kia vào thời đại đế Xalomon cơ.

- Vậy ra nàng Bêđy-an-Giêman không còn trên đời này nữa sao?-tôi hỏi.

- Chắc hẳn thế-thần đáp.-Bởi công chúa chính là người tình của đấng đại tiên tri Xalomon.

  NGÀY THỨ MỘT TRĂM LẺ BẢY.

Tôi rất buồn hay tin người tôi hằng yêu dấu đã qua đời từ thủa nảo thủa nào. Tôi tự nhủ: „Thật ta ngu ngốc làm sao! Tại sao ta không hỏi ngay phụ vương bức chân dung nàng công chúa cất trong kho tàng của người là chân dung ai? Hẳn người đã cho ta biết điều ta vừa nghe thần linh này nói. Và như vậy, có phải đỡ trải qua bấy nhiêu khổ ải, hiểm nguy. Ta đã dẹp bỏ được tình yêu nó khi mới chớm nở, không để mối tình vô vọng tác động sâu vào đầu óc ta đến vậy. Ta đã khỏi phải rời thành phố Cairo. Anh Xaơt đã khỏi bỏ mình. Cái chết của anh đúng là do những tình cảm hão huyền của ta đem lại“.

Tôi nói với nàng công chúa Malica:

- Tất cả những gì có thể an ủi tôi phần nào lúc này, thưa công chúa xinh tươi, là giúp ích cho nàng. Nhờ đeo chiếc nhẫn thần ở ngón tay, tôi có khả năng đưa nàng trở về với phụ vương nàng.

Rồi tôi quay lại bảo thần linh:

- Bởi ta là người có diễm hạnh sở hữu chiếc Ấn của đức vua Xalomon, khiến ta có quyền uy sai khiến mọi thần linh, ông hãy tuân lệnh ta. Ta truyền cho ông đưa ta cùng với nàng công chúa Malica về ngay Quốc đảo Xêrenđip, để chúng ta ở trước cổng kinh thành.

- Tôi xin tuân lệnh ngài, -thần linh đáp- cho dù tôi rất buồn phải mất đi nàng công chúa của mình.

- Như thế là thần đã may mắn lắm rồi đấy, tôi đáp.-Ta chỉ đòi thần đưa chúng ta đến đảo Xêrenđip. Vì tội bắt cóc nàng Malica, thần đáng để ta dùng quyền uy chiếc nhẫn này trừng phạt đáng tội như đại đế Xalomon xưa từng trừng phạt các thần linh nổi loạn thời ngài còn trị vì.

Thần linh không dám nói gì hơn. Ngay lập tức, y thi hành lệnh của tôi. Y nâng nàng công chúa và tôi trên hai cánh tay và đưa chúng tôi trong nháy mắt bay đến trước cổng kinh thành Xêrenđip. Thần hỏi:

- Phải chăng đấy là tất cả những gì ngài muốn kẻ này thực hiện? Ngài có lệnh gì cần truyền nữa không?

Tôi đáp không, thế là thần linh biến mất luôn.

Vào kinh thành, chúng tôi tạm trú ở quán trọ đầu tiên trông thấy dành cho du khách. Công chúa và tôi bàn bạc xem nên viết thư đến triều đình hay tự tôi thân đến gặp quốc vương báo tin công chúa đã trở về. Chúng tôi nhất trí, tôi nên đi thì hơn. Vậy là tôi thân hành đến cung điện của vua.

Kiến trúc cung vua Xêrenđip thật khá lạ kỳ. Cung điện được xây trên một nghìn sáu trăm chiếc cột bằng cẩm thạch. Muốn vào tận cung vua, phải trèo lên một cầu thang cao ba trăm bậc lát bằng một thứ đá rất đẹp. Lên đến gian phòng đầu tiên, gặp một đội lính canh. Viên võ quan nhìn thấy tôi, biết là người nước ngoài, ông bước tới hỏi tôi có việc gì muốn tâu quốc vương hay chỉ đến đây xem vì hiếu kỳ. Tôi đáp, tôi muốn được yết kiến nhà vua, tâu một chuyện cực kỳ quan trọng. Viên võ quan đưa tôi vào gặp tể tướng. Ông dẫn tôi sang ra mắt quốc vương. Nhà vua hỏi:

- Chàng trai trẻ, chàng là người nước nào?

- Tâu bệ hạ, -tôi đáp- nước Ai Cập là nơi tôi ra đời. Phụ vương tôi đang trị vì nước đấy. Tôi xa phụ vương tôi đã ba năm, và trong ba năm ấy, tôi trải qua không biết bao nhiêu khổ ải.

Quốc vương Xêrenđip là một cụ già đáng kính, nghe tôi nói vậy cụ tuôn luôn nước mắt:

- Hỡi ôi, ta chẳng sung sướng gì hơn anh. Thế là cũng đã ba năm, ta mất đứa con gái duy nhất, làm ta đau đớn khôn nguôi bởi chắc không thể nào còn hy vọng gặp lại con.

- Tâu bệ hạ,- tôi thưa –tôi đến yết kiến ngài hôm nay để tâu ngài rõ tin tức về nàng công chúa ấy.

Vua kêu lên:

- Ôi! Anh vừa nói gì vậy? Anh đến đây báo cho ta biết con gái ta đã qua đời? Phải chăng anh là người chứng kiến lúc cháu lìa trần?

- Tâu, không phải thế-tôi đáp.-Công chúa vẫn an khang, và ngay trong hôm nay ngài có thể gặp nàng.

- Anh tìm được con gái ta ở đâu? Con gái ta bị giấu nơi nào?

Tôi kể quốc vương nghe mọi việc vừa xảy ra, đặc biệt thuật tỉ mỉ về toà lâu đài vô hình và vị thần linh. Vua nghe hết sức chăm chú. Tôi vừa nói xong, vua ôm hôn và bảo:

- Hoàng tử à, ta biết ơn hoàng tử sâu xa! Ta quý con gái ta lắm, ta tưởng đã mất hết hy vọng gặp lại con, ai ngờ hoàng tử đã mang cháu về cho ta, ta biết lấy gì trả ơn hoàng tử? Nào chúng ta hãy cùng đi ngay,-vua nói tiếp- hãy cùng đến quán trọ. Ta vô cùng nôn nóng được ôm hôn con gái Malica của ta.

Nói xong vua truyền cho tể tướng cho người chuẩn bị một cái kiệu. Lệnh vua được thi hành nhanh chóng. Quốc vương mời tôi cùng vua lên kiệu. Chúng tôi đến quán trọ nơi công chúa Malica cũng đang nôn nóng chờ đợi, đi sau kiệu chỉ có mấy võ quan cưỡi ngựa theo hầu.

Không lời lẽ nào tả hết nỗi mừng vui của quốc vương Xêrenđip và công chúa Malica được gặp lại nhau. Sau những phút bàng hoàng đầu tiên, quốc vương bảo công chúa Malica thuật lại ngay cho vua nghe chi tiết vụ bắt cóc cũng như việc tôi giải thoát nàng. Vua rất vui mừng khi biết tiết hạnh con gái mình không bị tên bắt cóc làm ô nhục, và nhờ vậy càng làm tăng thêm lòng biết ơn người giải thoát công chúa. Vua tỏ ra vô cùng cảm kích trước thái độ đứng đắn và lòng hào hiệp của tôi.

Chúng tôi trở về cung điện. Vua sai người mời tôi đến ở một ngôi nhà tráng lệ ngay trong hoàng cung. Tiếp đó vua truyền lệnh tiến hành lễ tế tạ ơn trời đất đã cho công chúa trở về bình yên. Sau buổi lễ chính, nhân dân kinh thành Xêrenđip mở hội tưng bừng. Trong triều, bày đại tiệc mời tất cả các quan chức lớn bé trên quốc đảo cùng đến dự. Buổi tiệc rất tuyệt vời, sau khi ăn uống mọi người tha hồ ăn cau trầu.

  NGÀY THỨ MỘT TRĂM LẺ TÁM.

Quốc vương Xêrenđip hết lời khen ngợi và có nhiều cử chỉ vỗ về tôi. Ông đưa tôi cùng đi săn bắn. Cuộc vui nào ông cũng mời tôi tham dự. Vua quý tôi đến mức một hôm ông bảo riêng:

- Con trai của ta ơi, đã đến lúc ta muốn nói với con một ý định ta suy nghĩ từ lâu. Con đã trả lại cho ta đứa con gái, con đã an ủi một người cha buồn phiền, ta muốn đền ơn con. Ta muốn con làm phò mã của ta và là người sẽ kế vị ngai vàng nước Xêrenđip.

Tôi cảm tạ quốc vương về lòng tốt của vua, và cầu xin vua chớ phật lòng nếu tôi khước từ vinh dự lớn vua ban cho. Tôi tâu vua rõ nguyên nhân đã khiến tôi phải rời xa thành phố Cairo của mình. Tôi thú thật trong tim tôi không bao giờ phai mờ hình ảnh công chúa Bêđy-an-Giêman. Tôi vẫn say mê nàng cho dù vô vọng. Tôi tâu với vua:

- Hoàng thượng hẳn không muốn gả con gái mình cho một chàng trai mà nàng chẳng bao giờ chinh phục được trái tim anh ta. Tâu bệ hạ, công chúa Malica xứng đáng được hưởng cuộc đời hạnh phúc hơn thế.

- Vậy làm sao cho ta bày tỏ lòng biết ơn đối với việc hoàng tử đã giúp ta? Vua hỏi.

- Tâu bệ hạ, -tôi đáp- tôi đã được đền đáp nhiều lắm rồi. Sự đón tiếp nồng hậu ngài dành cho tôi, niềm vui giải thoát nàng công chúa khỏi tay thần linh đã bắt cóc nàng, đấy là những phần thưởng rất lớn đối với tôi. Tất cả những gì tôi cầu xin bệ hạ lúc này là ban cho tôi một con tàu đưa tôi trở về thành phố Basra.

Quốc vương thực hiện điều tôi mong ước. Vua truyền chuẩn bị một chiếc tầu mang theo đầy đủ lương thực và sẵn sàng để khởi hành bất kỳ lúc nào tôi cho là đến lúc. Tuy nhiên quốc vương vẫn tìm cách lưu tôi lại triều đình một thời gian nữa. Ngày nào vua cũng nói rõ ông rất không hài lòng vì tôi không chịu ở lại quốc đảo Xêrenđip.

Cuối cùng ngày lên đường đã đến. Tôi giã từ quốc vương cùng nàng công chúa và lên tàu. Trên đường đi, chúng tôi gặp nhiều cơn bão tố dữ dội hẳn đã làm đắm chiếc tàu, nhưng nhờ có chiếc nhẫn đeo ở ngón tay, chúng tôi cập bến cảnh Basra an toàn sau một chuyến đi dài. Từ Basra, tôi theo một đoàn lữ hành lớn gồm các thương nhân người Ai Cập cùng họ trở về thành phố Cairo vĩ đại.

Đã có nhiều thay đổi lớn trong thời gian tôi vắng mặt. Phụ vương tôi đã qua đời. Anh trai tôi hiện đang kế vị. Vị tân vương đón tiếp tôi nồng hậu với tình cảm anh em ruột thịt. Anh nói anh rất hài lòng thấy tôi trở về. Anh cho biết chỉ mấy ngày sau khi tôi ra đi, cha tôi tình cờ mở cái hòm con đựng chiếc Ấn của đại đế Xalomon và chân dung công chúa Bêđy-an-Giêman, không thấy còn hai vật ấy, phụ vương nghi tôi đã lấy mang đi. Tôi thú thật với anh trai tôi, và trao trả cho anh chiếc nhẫn thần.

Thoạt gặp vua anh tôi làm ra vẻ rất xúc động về những bất hạnh của tôi. Vua cho số phận tôi thật lạ lùng và ngỏ ý phàn nàn cho tôi, làm nỗi buồn của tôi cũng vơi được chừng nào. Tuy nhiên tất cả biểu hiện tình cảm ấy hoá ra chỉ là giả dối. Ngay hôm đầu tiên, sau khi tôi trao trả chiếc nhẫn, anh tôi sai nhốt tôi vào một cái tháp canh. Đêm hôm ấy, vua sai một võ quan đến giết chết tôi. Nhưng viên võ quan ấy đem lòng thương hại, ông bảo tôi:

- Thưa hoàng tử, quốc vương anh cả của ngài sai tôi đến đây sát hại ngài. Quốc vương sợ sau này hoàng tử biết đâu sẽ nảy ý muốn tranh giành ngôi báu và rồi có thể gây nên rối loạn trong nước chăng. Vì quá thận trọng, ngài muốn giết hoàng tử luôn để ngừa hậu hoạ. May mắn cho ngài, tôi là người được vua sai làm việc ấy. Vua nghĩ tôi sẽ thi hành mệnh lệnh độc ác của ngài, vua chờ đợi bàn tay tôi vấy máu hoàng tử. Nhưng tôi thà để tay tôi vấy máu chính tôi! Hoàng tử hãy chạy trốn ngay, cổng nhà giam đã mở. Hoàng tử hãy lợi dụng lúc đêm tối ra khỏi thành phố Cairo ngay, hãy đi thật nhanh chớ nên dừng lại chừng nào ngài vẫn thấy mình chưa hẳn được an toàn.

Sau khi hết lời cảm tạ viên võ quan hào hiệp, tôi chạy trốn khỏi tháp canh. Phó thân cho số mệnh, tôi vội vàng đi thật nhanh ra khỏi biên giới quốc gia anh trai tôi. Tôi may mắn đến được quốc gia của ngài, tâu bệ hạ, và tìm thấy ở triều đình ngài một nơi cư trú an toàn.