Mùa Hè Định Mệnh

Chương 54

“Sẵn sàng chưa, Jeremy?”

Con sẵn sàng rồi mẹ ạ.

Nhưng nó sợ quá. Ít nhất thì nỗi sợ cũng làm nó mạnh mẽ hơn. Trước ý nghĩ là cái thứ đó sẽ sớm xuất hiện ở cửa ra vào với con dao, tim cậu bé đập loạn lên và hơi thở gấp gáp hơn, cơn đau khủng khiếp trên đầu nó đường như biến mất.

“Con trai, ngay khi cửa mở, con phải chạy.”

Nghe thấy âm thanh sột soạt lần thứ hai, Jeremy ép chặt người vào bức tường đá ẩm ướt bốc mùi. Bây giờ thì nó biết âm thanh đó là gì: tiếng chìa khóa lần mò tìm ổ.

Nó ôm chặt lấy mình và lao về phía trước như một con dơi lao ra khỏi địa ngục.

Cơ hội duy nhất của nó nằm ở yếu tố bất ngờ, nó phải lao qua cô ta trước khi cô ta kịp ngồi dậy. Nếu không làm được điều đó, nó sẽ chết.

Cái khóa kêu lên cót két.

“Mẹ ở bên con, Jeremy. Sẵn sàng…”

Khi Rachel dừng lại theo lệnh của Kay, cành cây đó cách chân cô khoảng năm mươi phân.

Lúc này nụ cười thường trực hiện trên môi Kay, có điều đó là một nụ cười méo mó. Khu hầm mộ bằng đá cổ mà Kay bắt cô vào đã bị vùi lấp một phần, cây leo và rêu mọc phủ bên trên, cái tên Chasen [1] khắc trên cánh cửa kim loại han gỉ.

[1] Tiếng Anh cổ, nghĩa là săn đuổi.

Chasen. Rachel cảm thấy một cơn rùng mình sợ hãi nữa khi nhận ra đó là hầm mộ mà người ta đồn là nơi để hài cốt của nữ nhạc công. Kay, trong trí tưởng tượng điên cuồng của mình, định giết cô trong cái hầm mộ này.

“Đừng cử động.” Kay cẩn thận bước vòng quanh cô để mở khóa bằng chiếc chìa dài có hoa văn mà cô ta lôi ra từ túi của chiếc áo choàng. Đó là một công việc chậm chạp, vì ổ khóa đã cũ và Kay không thể rời mắt khỏi Rachel. Trong lúc chống lại nỗi sợ hãi, Rachel biết rằng khi ổ khóa mở, cuộc chiến đấu vì sự sống của mình sẽ bắt đầu.

“Cô không đưa những người kia đến đây.” Rachel cố gắng để giữ giọng bình tĩnh. Cô mong sẽ làm Kay phân tán đủ lâu để có thể nhích lại gần cành cây hơn.

“Đã có quá nhiều tiếng kêu la phản đối rồi. Nếu cô bị tìm thấy giống như những người kia, tôi sẽ tự đặt mình vào vòng nguy hiểm. Chắc chắn là tôi sẽ đẩy nguy hiểm về phía Thomas. Mà tôi không muốn anh ấy quay trở lại nhà tù.”

“Người ta sẽ lo cho tôi, Kay ạ. Gia đình tôi sẽ đi tìm tôi khắp nơi.”

“Nhưng họ sẽ không tìm thấy cô đâu.” Ổ khóa kêu tách một tiếng rất to, và Kay mỉm cười thỏa mãn. “Cảnh sát sẽ tìm, nhưng người ta sẽ kết luận là cô bỏ đi thôi. Cũng như họ nói hồi tôi giết cô ngày trước. Cũng như họ nói về thằng bé đó.”

“Thằng bé đó…” Rachel cứng người lại vì sợ hãi. “Ý cô là Jeremy Watkins ư? Cô cũng làm gì với nó ư?”

“Nó nhìn thấy tôi.” Kay lôi chìa khóa từ trong ổ ra rồi nhét vào túi. “Nó ở trong đây. Giờ thì chết rồi. Hoặc gần chết, cũng chẳng có gì khác.”

“Cô giết nó rồi ư?” Rachel cảm thấy choáng váng khi nghĩ đến việc cậu bé Jeremy tội nghiệp cũng phải chịu những nhát đâm như mẹ nó. Những nhát tương tự cũng sẽ sớm trút xuống người cô thôi.

“Không như những người kia.” Trong một thoáng trông Kay gần như bối rối. “Tôi không ghét nó. Nó chỉ xen vào việc của tôi thôi. Nên tôi đánh nó và đưa nó vào đây. Tôi định giết nó, nhưng lại bị gián đoạn. Có một thằng điên không phải người ở đây thấy xe tôi đỗ gần nhà thờ nên dừng lại hỏi đường.” Cô ta cười khanh khách, và âm thanh đó thật khủng khiếp. “Cứ như là Chúa không muốn tôi giết nó vào đêm hôm đó vậy. Thế nên tôi quyết định để Chúa đưa nó đi theo ý Ngài. Đến giờ, có lẽ Ngài đã làm việc đó rồi.”

“Làm sao mà cô có thể nói về Chúa bình thản đến thế?” Đó là tiếng kêu từ đáy tim, và ngay khi lời nói rời khỏi môi, Rachel đã muốn thu hồi lại. Sự bối rối biến mất trong ánh mắt Kay và thay vào đó là vẻ quyết tâm lạnh lẽo đã có từ lúc họ ngồi trong xe.

“Đây là một phần của một kế hoạch thiêng liêng,” Kay nói nghiêm túc và cầm lấy cái móc uốn cong. Bản lề chắc hẳn là mới được tra dầu, vì cánh cửa mở toang ra dễ dàng mà không hề gây ra tiếng động.

Jeremy lao ra từ trong cái hang động khủng khiếp đó, hét inh ỏi. Tay nó giơ ra phía trước để xô cái hình người với toàn bộ sức mạnh mà nó có. Cô ta đứng ở đó, to lớn và ghớm ghiếc, với khuôn mặt tối om và chiếc áo choàng đen phần phật bay trong gió, nhưng tiếng hét của Jeremy khiến cô ta ngạc nhiên đến mức ngã về phía sau. Jeremy, với tiếng mẹ nó hét lên động viên bên tai, lao qua cô ta đến luồng ánh sáng chói mắt của thế giới mà nó chưa gặp từ lâu lắm rồi. Mùi hương tinh khiết của đất, sinh lực của gió, sự sống mang đến từ cơn mưa rơi trên mặt nó – tất cả như ùa vào nó cùng lúc với ánh sáng. Nó không nhìn thấy gì, nhưng nó không cần nhìn. Nó chỉ cần bay, bay, bay vào ánh sáng.

Rachel cũng hét lên khi Jeremy hiện ra từ trong hang động. Tim cô rộn lên vì biết thằng bé vẫn còn sống, vẫn có thể trốn thoát, nhưng sau đó cô không còn thời gian mà nghĩ nữa.

Kay ngã ra khi Jeremy lao qua cô ta và suýt nữa làm rơi khẩu súng. Rachel chỉ hành động dựa theo bản năng, lao về phía cành cây và tung nó lên như Ted William [1] đang cố hết sức mình. Cành cây đập thẳng vào ngực Kay và hạ cô ta ngã xuống rơi vào hầm mộ.

[1] Ted William (1918 – 2002) là một cầu thủ chơi bóng chày chuyên nghiệp ở Mỹ.

Nhanh như chớp, Rachel đóng sầm cửa lại. Kay giữ chìa khóa. Cô ta đang gầm lên, và Rachel biết cô không thể giữ cửa đóng đủ lâu trước người phụ nữ khỏe hơn kia. Vẫn hành động theo bản năng, cô chống một đầu của cành cây vào cửa và đầu còn lại vào đất mềm.

Nó sẽ không giữ được lâu, nhưng nó sẽ cho Rachel và Jeremy thời gian để chạy trốn.

Kay đã đứng lên. Rachel có thể nghe thấy tiếng cô ta đẩy mạnh người vào cửa để mở nó ra. Rachel đá giày đi, cảm giác như chân mình mọc thêm cánh, cô lao ra chỗ chiếc xe. Nếu cô không nhầm thì Kay đã để chìa khóa chỗ cốp xe.

“Jeremy!” Cô cố gọi thằng bé, nhưng nó đã chạy đi xa trước cô, bay xuống con đường đất dẫn đến đường lát đá, tay nó vẫn giơ về phía trước, hét lên thất thanh như thể đang xé rách cổ họng mình.

Rachel chỉ còn đủ thời gian để liếc nhìn theo nó trước khi cô đến chỗ cái xe. Cô lôi chùm chìa khóa từ ổ khóa cốp – tạ ơn Chúa chúng vẫn ở đó! – rồi nhảy vào ghế lái và nhét mạnh nó vào ổ. Ngay khi máy khởi động, cánh cửa dẫn vào hầm mộ bật tung và Kay lao ra ngoài.

Rachel thấy cô ta và hoảng sợ vào số. Nhấn chân ga xuống sàn, cô làm tung bùn và cỏ lên khi điên cuồng cua một nửa vòng và lao xuống con đường đất để đi ra quốc lộ.

Nhìn vào gương chiếu hậu, cô thấy Kay đang đuổi theo mình. Mặt cô ta nhăn nhúm, chiếc áo choàng đen phần phật bay đằng sau trong gió khiến cô ta trông chẳng khác nào Zorrov[2] hay một con quạ khổng lồ.

[2] Một nhân vật hư cấu trong tác phẩm Lời nguyền của Capistrano do nhà văn Johnston McCulley viết năm 1919, luôn xuất hiện với bộ đồ đen, cưỡi ngựa đen và bịt mặt bằng khăn choàng đen.

Jeremy đã chạy gần đến đường quốc lộ. Rachel vòng xe trước mặt chặn đường nó, và vươn người ra để mở cửa xe.

“Vào đi!” Cô hét lên. Trong một thoáng cô nghĩ cậu bé định vòng ra và chạy tiếp, nhưng nó chạy bổ đến cửa xe đang mở và lộn nhào vào ghế.

Rachel liếc nhìn ra đằng sau qua gương chiếu hậu, không thấy bóng dáng Kay đâu, và đạp mạnh vào chân ga. Cánh cửa hành khách đung đưa trong gió.

“Jeremy. Jeremy, đóng cửa lại!”

Lúc đầu cô nghĩ nó bối rối quá nên không hiểu. Nhưng chưa đầy một giây sau nó đã với tay ra và đóng sầm cửa lại. Rachel nhấn nút khóa tự động, và những chiếc khóa đóng lại.

Họ ra đến chỗ giao nhau chỗ đường đất và đường quốc lộ thì Kay hiện ra từ hàng cây bên trái. Rachel hét lên, Jeremy cũng hét lên, và chiếc xe trượt đi khi Rachel luống cuống.

Trước sự kinh hoảng của cô, nó xoay 360 độ trên con đường trơn trượt – và đột nhiên Kay chỉ còn cách họ không đầy mét rưỡi, đứng giữa chiếc xe và đường quốc lộ. Cô ta đang nở một nụ cười gớm ghiếc. Mắt cô ta đang sáng lên như hai hố địa ngục. Hai tay giơ ra, cô ta chĩa khẩu súng thẳng vào mặt Rachel.

Jeremy hét lên, co rúm lại. Rachel cũng hét lên - và đạp mạnh vào chân ga.

Kay bay thẳng lên không trung như một con quạ khổng lồ khi chiếc Escort lao vào cô ta.

Rồi cô ta ngã xuống mui xe, mặt đập vào kính chắn gió. Hoảng loạn, Rachel liếc nhìn đôi mắt đờ đẫn và dòng máu chảy từ mũi và mồm Kay trước khi bản năng lại vào cuộc. Cô xoay vô lăng thật mạnh, làm chiếc xe lao sang bên trái, và cơ thể đó rơi từ mui xe úp xuống đường.

Hồi hộp và di chuyển nhanh nhất có thể, Rachel suýt nữa thì trượt trên vỉa hè trơn láng.

Chiếc Escort lao vào một cái rãnh, cô và Jeremy bị tung mạnh về phía trước. Thằng bé ngã vào chỗ để chân, trong khi Rachel bị đập mạnh vào vô lăng, gần như tức thở. Mất một lúc cô chỉ có thể nằm bất động, ôm lấy vô lăng như một con búp bê bằng vải vụn. Sau đó, từ từ, đau đớn, cô bỏ vô lăng ra sợ hãi nhìn vào gương chiếu hậu. Cô biết con đường đằng sau họ không có ai. Nhưng cô vẫn phải nhìn để chắc chắn. Không có người. Rồi cô nhìn xuống Jeremy.

Chiếc xe nghiêng sang một bên, kẹt vào cái rãnh theo một góc rất điên rồ. Rõ ràng là nó bị kẹt rồi.

“Jeremy, cháu ổn chứ?”

“Mẹ!”

“Không. Là cô Rachel. Rachel Grant.”

“Ồ.” Nó yên lặng một thoáng, rồi ngẩng đầu lên nhìn cô. “Cô ta chết chưa ạ?”

“Rồi. Rồi, cô nghĩ vậy.”

Nó bắt đầu khóc lặng lẽ. “Đầu cháu đau lắm. Cháu muốn mẹ cháu cơ.”

Rachel muốn khóc với thằng bé, vì nó và vì cả chính mình, nhưng trước tiên cô muốn được ở một nơi mà cô biết chắc chắn là an toàn, có nhiều người xung quanh.

“Jeremy, chúng ta bị kẹt rồi, và cô nghĩ chúng ta phải đi khỏi đây. Chỉ là… đề phòng thôi.

Nhà cô cách đây không xa. Cháu có nghĩ là mình đi được đến đó không?”

Nó ngừng khóc và lấy cánh tay lau nước mắt. “Có ạ. Nếu phải làm như thế.”

Rachel khó nhọc đẩy cửa rồi bò ra ngoài. Trời đang mưa rất to, đủ to để khiến tóc cô bết chặt vào da đầu trong vài giây. Jeremy trượt theo sau cô, run lên khi cơn mưa tấn công nó. Nó chỉ mặc chiếc quần soóc bẩn thỉu và áo phông, máu đông lại quanh một vết thương hở có lẽ dài khoảng bảy phân ngay phía trên thái dương bên trái của nó. Thảo nào mà đầu nó đau!

“Đi thôi,” Rachel nói và quay lại nhìn đầy sợ hãi về phía con đường họ vừa đi qua. Cơn mưa rào hạn chế tầm nhìn, nhưng cô không thấy gì đáng sợ. Tuy vậy, cô vẫn nắm chặt tay Jeremy khi họ bắt đầu đi men theo con đường.

Chỗ đó cách đường vào Walnut Grove khoảng hơn hai trăm mét. Khi họ đến đó, Jeremy ướt sũng như Rachel, khuôn mặt xanh xao ngập nước mưa ngước lên nhìn cô.

“Đây là nhà cô ạ?”

“Phải.”

“Chạy thôi.”

Họ chạy đến cửa chính đúng lúc một tiếng sét làm rung chuyển bầu trời và cơn mưa ập xuống như trút.

Cửa bị khóa. Rachel đập thình thình, nhấn chuông cửa nhưng không ai trả lời.

Không có ai ở nhà.

Điều đó thật lạ, nhưng Rachel không định đứng bên ngoài hành lang và cố tìm hiểu tại sao. Cô sẽ vào trong, khóa cửa và gọi điện nhờ cứu trợ.

May mắn thay, họ để một chìa khóa dự trữ bên dưới chậu hoa cạnh cầu thang.

“Có chuyện gì ạ?” Jeremy nhìn quanh lo lắng khi Rachel mở cửa. Trước đó nó là một cậu bé gầy còm, nhưng lúc này nó như một bóng ma, chỉ có da bọc xương và đôi mắt to lõm xuống. Nó đã phải chịu khổ hơn cô rất nhiều. Rachel vòng tay quanh vai nó.

“Không, không có gì đâu,” cô nói dối, và đưa nó vào nhà. Rất cẩn thận, cô khóa cửa lại, sau đó với tay bật công tắc đèn ở sảnh trước.

Đèn vẫn hoạt động. Rachel thở ra một hơi nhẹ nhõm. Cô không nhận ra mình đã sợ bóng tối thế nào hay vẫn còn đang hoảng loạn ra sao.

“Đi nào, Jeremy. Vào bếp và gọi cảnh sát thôi. Sau đó chúng ta có thể sưởi ấm và ăn thứ gì đó, rồi…”

“Cô có xúc xích không?” Nó hỏi mà không mấy quan tâm.

Rachel cười to, ôm lấy cậu bé và đặt nó ngồi vào một chiếc ghế trong bếp. “Chắc chắn là có rồi,” cô nói. “Cháu tự tìm lấy nhé, để cô đi gọi điện.”

Nó tự phục vụ mình theo lời cô, mở cửa tủ lạnh và lục lọi trong lúc cô cầm điện thoại lên gọi cảnh sát. Những ngón tay Rachel vẫn đang run rẩy. Khi người phụ nữ trả lời, cô nói, “Tôi là Rachel Grant. Tôi cần nói chuyện ngay với cảnh sát trưởng Wheatley.”

“Ông ấy có lệnh triệu tập và … cô nói cô là Grant ư?”

“Phải.”

“Ôi, Chúa ơi, cả sở cảnh sát đang đi tìm cô. Chúng tôi cứ nghĩ cô bị bắt cóc! Cô đang ở đâu?”

“Tôi đang ở nhà tôi. Đúng là tôi đã bị bắt cóc, Jeremy Watkins cũng ở đây, chúng tôi vừa đâm Kay Nelson bằng ô tô, và…”

Rachel ngừng lại khi thấy một bóng người hiện ra trên ô kính ở cửa sau. Mắt mở to vì sợ hãi, cô nhận ra khuôn mặt với đôi mắt hoang dại đầy máu cùng nụ cười toe toét gớm ghiếc đang nhòm vào bên trong. Dưới ánh điện thế này, họ không thể nào thoát khỏi đôi mắt của Kay.

“Cho người đến đây càng nhanh càng tốt! Cô ta đang ở ngoài cửa!” Rachel rít vào điện thoại. Cô buông rơi ống nghe xuống, không kịp cúp máy.

Kay xoay nắm đấm. Tạ ơn Chúa là cửa đã khóa! Nếu nó giữ được chân cô ta cho đến khi cảnh sát đến…

Jeremy nhìn quanh, thấy Kay ở cửa liền hét lên. Kay bắt đầu cười, lắc lư ngón tay trước mặt thằng bé. Rachel lao lại chỗ nó.

“Đi nào,” cô nói nhanh, dừng lại để lấy con dao thái thịt từ cái thớt đặt trên bàn trước khi lao lên lầu cùng với Jeremy. “Cảnh sát đang đến. Cô ta không thể vào được. Chúng ta an toàn. Chúng ta an toàn.”

“Làm ơn đừng để cô ta bắt được cháu lần nữa! Mẹ! Mẹ, mẹ ở đâu? Cháu cần mẹ!”

“Đi nào, Jeremy!”

Khi họ lên đến tầng hai, Rachel hoảng loạn vì nghe thấy tiếng cửa kính vỡ.

“Cô ta đang đến!” Jeremy gần như phát cuồng, Rachel cũng cảm thấy như vậy. Nhưng lần này cứu trợ đang đến, và cô biết chỗ cất một khẩu súng.

Nó là của bố cô, và theo Rachel biết, nó chỉ được sử dụng một lần trong suốt mười năm nay, chỉ để chắc chắn là nó vẫn còn dùng được. Nó ở trên nóc tủ đựng tài liệu ở tầng ba. Đạn đã được nạp sẵn.

Có tiếng kính vỡ nữa, rồi một tràng cười ngạo nghễ rú lên khiến máu Rachel như đông cứng lại.

“Cô Grant…”

“Suỵt!” Rachel mạnh mẽ nói với thằng bé. Trong một giây, đúng một giây, cô đã nghĩ đến việc chạy lên tầng ba và khóa cửa lại. Nhưng ổ khóa rất mỏng manh, và nếu Kay phá được nó, cô và Jeremy sẽ bị nhốt. Không, tốt hơn là lên thẳng gác mái và lấy khẩu súng, Kay sẽ phải tìm họ.

Kay đã vào đến bên trong. Rachel nghe tiếng cô ta khịt mũi, thấy tiếng bước chân trên kính vỡ, và thấy muốn bệnh. Jeremy rên rỉ vì sợ hãi. Rachel bịt tay vào miệng nó và đưa nó lên cầu thang hẹp dẫn đến tầng ba.

Cô nghe thấy tiếng gọi của Kay phía dưới. “Rachel!” Có điều giọng nói đó không còn là của Kay nữa. Nó kỳ quái, the thé và hiểm độc.

Jeremy đang run. Rachel kéo nó sát vào mình, lao lên phòng khiêu vũ, cầu nguyện cho cảnh sát đến kịp lúc.

“Rachel!”

Kay đang lên lầu! Họ đã để lại dấu chân ướt và đầy bùn đất nên cô ta có thể đi theo. Chắc là cô ta bị thương, nếu không thì đã đuổi kịp họ rồi.

Bám vào suy nghĩ đó, Rachel mạnh mẽ bảo mình chạy vào góc tường dẫn đến phòng khiêu vũ với Jeremy. Căn phòng chìm trong bóng tối dày đặc vì những ô cửa sổ to đều hướng ra bầu trời đen kịt mưa gió bên ngoài. Tuy nó tối om nhưng Rachel không có thời gian mà sợ. Cô đẩy Jeremy xuống dưới chiếc ghế cũ và lặng lẽ nhảy qua chiếc bàn đến chỗ tủ tài liệu.

Lần tay trên nóc, hoảng hốt vì sợ nghe thấy tiếng Kay đằng sau bất cứ lúc nào, cô phát hiện ra khẩu súng đã biến mất.

“Rachel!” Tiếng gọi độc địa đó đã đến rất gần, và Rachel tuyệt vọng nhận ra Kay đang ở tầng ba và đang đến phòng khiêu vũ rất nhanh.

“Trốn đi!” Cô rít lên với Jeremy. Nó rúc xuống đằng sau chiếc ghế, cuộn người lại, lấy tay che đầu.

Dưới tầng, cô có thể láng máng nghe thấy tiếng đồng hồ điểm sáu giờ.

Rachel vừa kịp trốn đằng sau tủ tài liệu thì Kay hiện ra ở cửa. Cô ta gập người và dường như nghiêng về một bên. Chiếc áo choàng của cô ta kéo lê trên sàn nhà, để lại một vệt bùn đằng sau. Với mái tóc bết chặt vào da đầu và điệu cười rùng rợn trên môi, cô ta trông không giống con người. Tim Rachel ngừng đập khi mắt Kay phát hiện ra bóng cô. Tay cô nắm chặt cán con dao vừa mang theo. Nếu cô có thể ngăn Kay lại, cảnh sát sẽ đến…

Rồi Kay giơ tay lên, và Rachel hoảng hốt khi thấy cô ta vẫn còn khẩu súng.

Từ đằng sau chiếc ghế, Jeremy bắt đầu nức nở.

Mắt Kay đảo qua tìm nó, rồi bước một bước về phía thằng bé đang trốn.

Tiếng bước chân chạy trên cầu thang và dọc sảnh chính làm Kay dừng lại. Rachel cảm thấy nhẹ nhõm hẳn. Chắc đó là cảnh sát. Tạ ơn Chúa, tạ ơn Chúa! Kay chuyển sự chú ý từ thằng bé đang hoảng sợ sang phía cửa, chĩa súng về ô cửa để mở và lùi lại mấy bước để nhìn được cả Rachel, Jeremy và những kẻ đến giải cứu.

Yên lặng như một con chuột, Jeremy tận dụng thời cơ để trườn vào gầm ghế. Trong phòng chẳng còn chỗ nào khác để trốn.

Rachel cầu cho thằng bé không cần đến nơi lẩn trốn.

Johnny lao qua ô cửa, túm lấy khung cửa để giữ thăng bằng khi đôi giày thể thao của hắn trượt trên sàn gỗ sáng bóng. Hắn ướt như chuột lột, ướt đến nỗi nước chảy từ người hắn tạo thành vũng quanh chân. Hắn mở to mắt và thở hồng hộc trong lúc nhìn quanh phòng.

“Johnny.” Môi Rachel mấp máy tên hắn, nhưng không thành lời. Sự hoảng sợ làm cổ họng của cô tắt ngẹn ngay khi hắn thấy cô và nỗi sợ hãi đã dịu đi một chút trên gương mặt hắn. Trừ tiếng thở hổn hển của Johnny và tiếng bão đang gầm rú bên ngoài, cả ngôi nhà lớn hoàn toàn yên lặng. Rõ ràng là hắn đến một mình.

Điều đó nghĩa là cả ba người họ đều phó mặc số phận vào tay Kay – và Kay có súng.

“Thomas.” Kay chớp mắt và bước một bước về phía hắn. Khẩu súng ngập ngừng rồi hạ xuống một chút. Một nụ cười xuất hiện trên môi cô ta. Mắt cô ta sáng lên. Hình ảnh đó như một cơn ác mộng.

“Chúa ơi,” Johnny nói, mắt hắn mở to nhìn Kay, cố hiểu trạng thái của cô ta – và khẩu súng.

“Ý em là Johnny. Anh không biết mình là Thomas, đúng không? Nhưng đúng là thế đấy. Và anh là của em. Cũng như em là của anh. Tình yêu mãi mãi của anh.”

Johnny liếc nhìn Rachel thật nhanh, cô không dám ho he nửa lời để thu hút sự chú ý của Kay. Cô ta mê đắm Johnny, biết đâu hắn sẽ khiến cô ta nói mãi cho đến khi cảnh sát đến, và chắc chắn là họ sẽ đến sớm.

“Tôi nhận được những bức thư của cô hồi còn ở trong tù” Johnny nói. Hắn hoàn toàn tập trung vào Kay, mặc dù không thể giấu được sự đề phòng trong mắt. “Chúng là của cô, đúng không? Chúng rất đẹp.”

“Anh thật thông minh.” Kay cười khanh khách, âm thanh the thé làm Rachel nổi da gà.

“Anh luôn luôn thông minh như thế, Thomas ạ.”

“Tên tôi là Johnny, cô biết đấy.” Hắn mỉm cười, nhét tay vào túi quần bò, và dựa một vai vào ô cửa. Nước chảy ra từ đuôi tóc của hắn, và chiếc áo phông ướt sũng dính chặt lấy những cơ bắp trên ngực hắn.

“Đừng cử động!” Khẩu súng lại giơ lên, và lời cảnh báo của Kay sắc như dao. Khi Johnny không phản đối, Kay lại hạ khẩu súng xuống một chút và hơi nhún vai. “Anh gọi mình thế nào cũng được. Em biết anh là ai.”

“Làm sao cô biết?” Phong thái thoải mái, lười nhác của Johnny không lộ ra một chút căng thẳng nào trong lòng hắn. Rachel vẫn đang núp đằng sau tủ tài liệu, nhô người sang một bên, vẫn nắm chặt cán dao thái thịt đến nỗi các khớp ngón tay trắng bệch.

“Em nhận ra anh khi anh hôn em lần đầu tiên.”

“Lần đầu tiên tôi hôn cô ư?” Sự ngạc nhiên hiển hiện trong giọng Johnny. Hắn đứng thẳng người lên.

“Em nói đừng cử động!” Bàn tay cầm súng dao động đầy cảnh báo. Rồi giọng Kay lại thay đổi, mềm mỏng hơn. “Đó là nụ hôn đầu đời của em. Anh nhớ không? Đó là bữa tiệc Giáng sinh, khi chúng ta ở trường cấp ba ấy. Em đi với một bạn gái – em không có ai để hẹn hò – và anh đi với nhóm bạn của anh. Anh thật đáng yêu. Em không thể không nhìn theo anh, nhưng em không nghĩ là anh thèm để ý đến em. Em đi qua một ô cửa – dây tầm gửi phủ lên đầu em – và anh đang đứng ở đó. Anh chộp lấy em và hôn em. Rồi lại hôn em lần nữa.

Em biết anh nghĩ về em mỗi đêm cũng như em vẫn luôn nghĩ về anh – và em cũng biết anh là ai từ nụ hôn đầu đó. Người đàn ông của em. Của em.”

“Khỉ thật, bữa tiệc Giáng sinh duy nhất tôi từng đến, tôi say đến mức gần như không đứng lên nổi. Tôi không nhớ gì về chuyện đó.” Đó là một lời nói khinh suất, lỡ thốt ra vì ngạc nhiên, và đó là một sai lầm.

“Anh không nhớ ư?” Sự đau đớn hiển hiện trong giọng Kay. Mắt cô ta nheo lại. “Phải, em đoán là anh không nhớ mà. Em vẫn luôn chung thủy với anh, nhưng anh… anh qua lại với biết bao người con gái từ hồi đó đến nỗi có lẽ anh không nhớ nổi một nửa trong số họ.”

“Bây giờ thì tôi nhớ ra rồi…” Nhưng nổ lực của Johnny để cứu vãn tình huống đã bị gạt đi.

Kay đứng thẳng hơn, mặt nhăn lại vì căm giận khi cô ta liếc mắt hiểm độc nhìn Rachel trước khi lại tập trung vào Johnny.

“Anh luôn luôn là một kẻ hay tán tỉnh, đúng không? Chắc anh tự hào về bản thân mình lắm nhỉ. Anh có thấy anh đã khiến em trở nên thế nào không? Ann Smythe, Marybeth Edwards, Glenda Watkins, tất cả đều chết vì anh. Và còn nữa, bao nhiêu người khác nữa qua những thế kỷ mà chúng ta ở bên nhau. Anh nghĩ là em muốn giết họ lắm à? Anh nghĩ là em muốn giết Rachel lúc này à? Người đó phải là anh, anh, chính anh.”

Tiếng còi xe cảnh sát rú lên trong cơn bão. Kay ngừng lại, nghe ngóng, Rachel cũng lắng nghe, đứng nguyên tại chỗ. Cả cô và Johnny đều không dám rời mắt khỏi Kay.

“Cảnh sát đang đến. Họ sẽ đưa em vào tù. Và cô ta sẽ có anh.” Giờ thì Kay đang lảm nhảm, giọng cô ta mỗi lúc một the thé. “Em phải giết cô ta… Không. Em sẽ giết chúng ta. Anh và em. Chúng ta sẽ ở bên nhau mãi mãi và cô ta sẽ không bao giờ có anh. Trong kiếp này thì không!”

Kay thốt ra một tràng cười điên loạn khiến tóc gáy Rachel dựng đứng. Bàn tay cầm súng giơ lên, nhắm thẳng vào đầu Johnny. Theo bản năng, Johnny bước lùi lại một bước, giơ một bàn tay lên để chặn viên đạn sắp bay đến.

“Hãy chết đi, tình yêu của em,” Kay nói và cười rộ lên.

“Không!” Rachel hét lên và nhảy bật dậy. Bên ngoài, sấm rền vang. Mưa quật vào cửa sổ.

Tiếng còi cảnh sát hú mỗi lúc một to hơn…

Kay liếc nhìn Rachel chưa đến một giây. Trong thời gian đó, Johnny lao vào cô ta nhanh như một quả bóng.

Kay hét lên và nhảy lùi lại. Khẩu súng nhả đạn với âm thanh nghe như tiếng nổ.

Johnny hét lên và ngã xuống sàn nhà ngay gần mục tiêu của mình, lăn dần, lăn dần đến hướng của Rachel, tay hắn ôm chặt lấy một bên cổ. Rachel hoảng sợ khi thấy máu đỏ trào ra giữa các ngón tay của hắn.

“Đừng sợ, Thomas. Cái chết không đau đâu,” Kay thì thầm bước tới chỗ hắn, chĩa khẩu súng vào dáng người đang nằm sấp của Johnny, rõ ràng là định hoàn thành nốt công việc.

“Không!” Rachel hét lên, lao vào Kay cùng với con dao giơ lên.

“Con điếm!” Kay đưa mắt lên, và khẩu súng nhả đạn một lần nữa. Tác động của nó như một cú đá của ngựa vào vai vậy. Rachel bị đẩy về phía sau trong lúc con dao rơi từ tay cô xuống, văng đi gần hai mét.

Kay lại chuyển sự chú ý sang Johnny. Hắn đang nằm bất động, máu tuôn ra từ vết thương lõm ở một bên cổ. Kay nhắm khẩu súng vào đầu hắn.

Không biết từ đâu xuất hiện một tia chớp khổng lồ và một âm thanh xé tai. Một cành cây đập vào ô cửa sổ chạy từ sàn đến trần ở đầu bên kia căn phòng, làm tất cả choáng váng.

Kay, người đứng gần nhất, bị thủy tinh vỡ bắn vào người. Cô ta gào lên và quay người lại để nhìn những ô cửa sổ. Bỏ quên Johnny nằm đằng sau, cô ta bước một bước về phía đó, rồi một bước nữa, như thể bị thu hút bởi một thứ gì đó mà cô ta thấy trong bóng tối đầy mưa gió.

Trong giây phút đó, chiếc xe lăn của Stan, vốn đang ở gần Rachel, chắc hẳn đã bị cuốn vào luồng gió mạnh và ướt át đang tràn vào căn phòng, đột nhiên di chuyển.

Với sự chắc chắn không cần phải giải thích, Rachel biết mình phải làm gì.

Phớt lờ cơn đau trên vai, cô chạy ra chỗ chiếc xe, túm lấy tay cầm, và lấy hết sức lao về phía Kay. Chiếc xe đâm thẳng vào đằng sau đầu gối của người đàn bà điên loạn. Kay ngã mạnh xuống chiếc ghế, nhưng trọng lượng của cô ta dường như chỉ làm nó lao nhanh hơn. Rachel chỉ kịp bỏ tay cầm ra trước khi chiếc xe đâm vào phần còn lại của ô cửa sổ rồi lao mạnh ra ngoài. Kay hét lên một tiếng khi cô ta bị bắn ra khỏi ô cửa sổ vỡ, và biến mất trong bóng tối.

Rachel quay người, cố đi về phía Johnny, rồi sụp xuống. Cô vẫn quỳ trên đầu gối, run rẩy, tuyệt vọng lấy mép váy cuộn lại rồi nhét vào vết thương đang rỉ máu trên cổ hắn, trong lúc cả sáu viên cảnh sát của Tylerville lao vào phòng.

Ngày hôm sau, ở một bệnh viện của Tylerville, một nhóm người túm tụm lại trên hành lang bên ngoài một cánh cửa đóng kín. Tom Watkins, các con và bạn gái Heather của anh ta, cùng với cảnh sát trưởng Wheatley đang nói chuyện với một bác sĩ mặc áo trắng.

“Sẵn sàng chưa?” Bác sĩ cắt ngang cuộc chuyện trò để nhìn xuống Jeremy khi thằng bé giậm chân đầy sốt ruột.

Jeremy gật đầu.

“Vậy thì đi thôi.” Bác sĩ đi đến cánh cửa đang đóng, mở ra, rồi đứng lại. Tom và Jeremy cầm tay nhau bước qua cửa. Sau đó Tom lùi lại.

“Con đi tiếp đi,” anh ta nói với con trai, rồi bỏ tay nó ra.

“Bố chắc chứ?”

“Ừ. Con vào đi.”

Jeremy bước qua bác sĩ và lưỡng lự. Căn phòng rất tối và yên lặng so với sảnh bên ngoài.

Nó không thể nhìn rõ hình người nằm trên giường. Biết đâu người ta đã mắc phải sai lầm khủng khiếp thì sao? Nó không nghĩ là mình chịu được điều đó.

“Cháu là Jeremy à?” Một cô y tá đang ngồi bên giường đứng lên và mỉm cười với nó.

Jeremy gật đầu.

“Cô ấy cứ muốn gặp cháu.” Cô y tá vẫy tay gọi nó lại.

Jeremy gần như không dám cử động, nhưng nó bắt mình bước thêm mấy bước. Cô y tá nhìn cơ thể bất động trên giường.

“Con trai cô đây, Watkins,” người phụ nữ khẽ nói.

Jeremy thấy tim mình đập rộn lên khi người đó cử động.

“Jeremy?” Đó là một tiếng thì thào yếu ớt, yếu đến nỗi Jeremy gần như không nghe được. Nhưng nó biết giọng nói đó.

“Mẹ?” Nó bước thêm một bước nữa, rồi lao đến. Nếu cô y tá không túm lấy eo nó bằng cả hai tay và bảo nó, “Yên nào, yên nào. Chúng ta không muốn làm mẹ cháu bị đau, đúng không?” thì nó đã nhảy lên giường mẹ rồi.

“Mẹ!” Đúng là mẹ rồi. Người bệnh quay đầu, và ánh sáng màu xanh từ bảng điều khiển bên giường chiếu sáng khuôn mặt người ấy.

“Jeremy.” Glenda mỉm cười âu yếm với con, và tay cô thò ra khỏi cái chăn để tìm tay nó. Cô y tá bỏ thằng bé ra sau một cái siết tay cảnh báo. Jeremy cầm lấy tay mẹ bằng cả hai tay và cúi xuống thân hình yếu ớt của mẹ. Nước mắt – những giọt nước mắt hạnh phúc, nhẹ nhõm, biết ơn – dâng đầy trong mắt, rồi tràn xuống hai má nó.

“Con tưởng là mẹ chết rồi.” Nó nức nở.

“Chưa đâu.” Glenda cố mỉm cười yếu ớt. “Mẹ không dễ bị giết như vậy đâu. Họ nói mẹ sẽ ổn thôi. Con đừng lo.”

Jeremy cúi xuống gần hơn để áp má vào má mẹ.

“Đó là cơn ác mộng khủng khiếp nhất đời con.” Giọng nó vỡ ra, nức nở, nó úp mặt vào bờ vai gầy của mẹ.

“Mẹ cũng gặp ác mộng,” cô thì thầm. “Những cơn ác mộng khủng khiếp. Mẹ thấy con bị nhốt trong một hang động tối tăm và gọi mẹ. Mẹ đã cố, cố để đến với con.”

“Con thực sự đã bị nhốt trong hang, và con đã gọi mẹ.” Jeremy ngẩng đầu lên nhìn mẹ chằm chằm.

“Thế ư? Mẹ cứ mơ là con gặp nguy hiểm.”

“Đúng vậy mẹ ạ. Mẹ đã cứu con. Người phụ nữ xấu xa đó định giết con…”

“Thế là đủ rồi,” cô y tá nói. “Chúng ta không muốn làm mẹ cháu buồn, đúng không nào?

Cháu có thể kể cho mẹ về cuộc phiêu lưu của cháu sau. Vì bây giờ, mẹ cháu cần được yên tĩnh và nghỉ ngơi.” Cô y tá đặt một bàn tay lên vai nó.

Jeremy cắn môi. Glenda với tay lên kéo nó lại gần. Mẹ con ôm chặt lấy nhau khi cơn ác mộng đã dần trôi đi.

Ngoài hành lang, Tom Watkins cau có với cảnh sát trưởng Wheatley.

“Ông không có quyền bắt những đứa trẻ này tin rằng mẹ chúng đã chết. Chúng nó đã sống trong địa ngục đấy.”

Wheatley thở dài. “Tôi đã nói với anh rồi, Tom ạ. Mục đích quan trọng nhất của tôi là giữ cho Glenda sống. Chúng tôi không thể bảo vệ cô ấy khỏi tất cả mọi người ở Tylerville 24/24 trong suốt một tuần. Khi chúng tôi tìm thấy Glenda thì cô ấy đã bất tỉnh rồi, và đến ngày hôm qua cô ấy mới tỉnh lại. Nghe nói cô ấy cứ la hét tên của Jeremy rồi tỉnh lại. Nếu chúng tôi nói với người nào đó, đặc biệt là lũ trẻ, rằng cô ấy còn sống, thì cả thị trấn sẽ biết. Anh biết mọi người ở đây thế nào mà. Và không có ai, kể cả anh, làm tôi tin chắc một trăm phần trăm là vô tội. Chúng tôi cử người canh gác ngoài phòng cô ấy, nhưng chỉ cần một sơ suất cô ấy có thể sẽ chết thật. Đừng quên là cô ấy đã thấy kẻ giết người.”

“Phải, phải.”

“Có vẻ như điều tốt nhất có thể làm là để cho kẻ giết người tin rằng cô ấy đã chết cho đến khi Glenda tỉnh dậy và nói cho chúng ta biết ai đã đâm cô ấy.”

“Cô ấy nói chưa? Ý tôi là nói cho tôi biết với.”

“Ồ, rồi. Khoảng giờ này ngày hôm qua. Đến khi cô ấy cho chúng tôi cái tên của Kay Nelson thì cô ta đã đang tấn công cô Grant, Harris và con trai ông rồi.”

“Tạ ơn Chúa là họ đều còn sống.”

“Tạ ơn Chúa.”

Cánh cửa phòng bệnh của Glenda mở ra, và Jeremy bước tới. Cô y tá vẫn chờ ở cửa.

“Mẹ muốn gặp mấy em gái và Jake.” Jeremy hớn hở mặc dù nước mắt vẫn còn trên má nó.

“Mẹ! Mẹ!” Ba đứa trẻ lao vào cánh cửa đang mở.

“Mỗi lần một cháu thôi,” cô y tá vui vẻ nói.

Ashley lao vào trước, và cánh cửa đóng lại sau lưng cô bé.

“Mẹ,” giọng Jake đầy tiếc nuối. Môi dưới của nó run lên.

“Rồi sẽ đến lượt các cháu mà,” bác sĩ nói và đặt tay an ủi lên vai hai đứa trẻ.

“Mẹ còn sống, Jake ạ,” Jemery bảo em, rồi nhìn Lindsay. “Mẹ còn sống, Lin ạ!”

“Chuyện đó thật tuyệt, đúng không?” Tom Watkins mỉm cười.

“Đúng vậy, bố ạ. Thật tuyệt,” Jeremy đáp và cười toe toét.