Khi xét quan niệm của Hi lạp về nhân loại, tôi chú ý nhất tới điều này: họ cho thần thánh giống với phàm nhân, còn đạo Ki Tô muốn cho phàm nhân theo gót được Thần Thánh. Cái đám thần ở trên núi Olympe của người Hi Lạp quả là một bọn ưa khoái lạc, hiếu sắc, đa tình, nóng nảy, gay gổ nhau, lừa dối nhau, đánh xe và ném lao y như người Hi Lạp vậy; một bọn thần cũng thích hôn nhân và có vô số con hoang. Thần với người chỉ khác nhau ở chỗ thần làm sấm làm chớp được, tạo được cây cỏ trên mặt đất, sống hoài mà không chết và uống mật hoa chứ không uống rượu. Chúng ta thấy thân mật với bọn thần đó quá, có thể đeo bị trên lưng rồi đi săn với thần Apollon, hoặc giữa đường, vẫy thần Mercure lại, nói đùa với ngài ít câu, như nói đùa với một người trạm đưa điện tín ở Western Union (Liên Hiệp Điện Tín Cục của Tây bộ) và nếu câu chuyện phím kéo dài quá thì ta có thể tưởng tượng rằng ngài sẽ bảo ta: “Đúng lắm. Nhưng xin lỗi nhé, tôi phải đem gấp điện tín này lại con đường 72”. Thần của dân tộc Hi Lạp là người, khác xa với Đức Thượng Đế tận thiện của đạo Ki Tô! Những vị thần trên núi Olympe đó chỉ là một giống người siêu việt thôi, một giống vĩ nhân bất tử (vĩ nhân hiểu theo nghĩa có nhiều quyền uy, khả năng, chứ không phải có nhiều đạo đức). Trên cái bối cảnh của núi Olympe đó, người Hi Lạp đã tạo ra được những truyện đẹp lạ lùng như truyện Démeter[2], truyện Proserpine[3] và truyện Orphée[4]. Sự tín ngưỡng các vị thần đó học cho là một điều đương nhiên, vì chính Socrate, khi uống thuốc độc cũng rảy một chút rượu tế thần, cầu thần giúp cho mình mau qua thế giới bên kia. Thái độ đó hơi giống thái độ Khổng Tử. Ở thời đại đó tất nhiên phải như vậy. Nhưng ở thời đại này, tinh thần Hi Lạp sẽ có phản ứng nào? Không làm sao mà biết được. Thế giới Hi Lạp không phải là thế giới ngày nay mà thế giới Ki Tô ngày nay không phải là thế giới Hi Lạp. Tiếc Thay!
Người Hi Lạp nhận rằng làm người thì phải chết một đôi khi phải chịu một định mạng cay nghiệt nữa, nhưng xét về đại thể, thì người Hi Lạp yêu đời sống và vũ trụ và mặc dầu, họ dùng khoa học để khám phá thế giới vật chất, họ cũng rán tìm trong vũ trụ cái thiện, cái chân và cái mĩ. Bản chất của con người ra sao thì họ nhận nó như vậy. Họ không tưởng tượng một lạc viên
Người Trung Hoa cho con người là “vạn vật chi linh” và Khổng giáo còn đặt con người ngang hàng với Trời, Đất nữa: Tam tài[5] là Thiên, Địa, Nhân.
Làm người thì tự nhiên có nhiệt tình, dục vọng và tinh thần. Tự bản thể thì những cái đó không tốt, không xấu. Đàn ông hay đàn bà, ai cũng có tính dục, cũng biết đói, biết khát, cũng có lúc sợ, có lúc giận dữ, cũng chịu cảnh đau ốm, khổ não và cũng chết. Tác dụng của văn hóa theo Khổng giáo là điều hòa những nhiệt tình cùng dục vọng đó; và một khi điều hòa được thì con người cũng ngang hàng với Trời, Đất. Từ nhỏ đến già, tình, dục cùng tinh lực của con người đều thay đổi, phát triển theo từng thời kì, cho nên Khổng tử bảo: “Nhỏ thì phải răng mình vì sự tranh đấu, lớn lên phải răng mình về sắc dục, già thì phải răng mình về tính tham lam” (Thiếu, giới chi tại đấu; cập kì tráng, giới chi tại sắc; cập kì lão, giới chi tại tham), nghĩa là trẻ con thì ham đánh nhau, người lớn thì ham đàn bà, mà người già thì ham tiền.
Thái độ của người Trung Hoa có thể tóm trong câu này: “Cái gì cũng nên vừa phải thôi”, đừng đòi hỏi nhiều quá hay ít quá. Con người ở giữa cái khoảng trời, đất, giữa cái lí tưởng và cái thực tế, giữa những tư tưởng cao thượng và những tình dục đê hèn. Bản chất của con người như vậy: thèm khát hiểu biết cũng như thèm khát nước ngọt, thích một tư tưởng đẹp cũng như thích món thịt bò nấu măng, thưởng thức một câu thơ hay cũng như ngắm nghía một mĩ nữ. Thế giới như vậy đó, đâu có hoàn hảo. Tất nhiên có thể cải thiện xã hội, nhân loại một phần nào được, nhưng người Trung Hoa không tin rằng có sự hòa bình hoàn toàn, có hạnh phúc hoàn toàn. Có một cố sự chứng tỏ quan điểm đó. Một người bị giam ở địa ngục, sắp được đầu thai, tâu với Diêm Vương: “Như quả Đại Vương muốn cho tôi trở về dương gian, thì tôi xin được vài điều kiện”. Diêm Vương hỏi: “Điều kiện nào?”. Người đó đáp: “Tôi xin được làm con một vị Tể tướng, làm cha một vị Trạng nguyên; tôi xin được một ngôi nhà ở giữa một khu đất vạn mẫu, có ao thả cá, có đủ loại trái cây; lại xin có một người vợ rất đẹp và nhiều tì thiếp diễm lệ, hết thảy đền ngoan ngoãn chiều chuộng tôi; lại xin châu bảo chất đầy phòng, lúa chất đầy lẫm, tiền bạc chất đầy rương, mà tôi thì được làm công khanh, một đời vinh hoa phú quí, sống lâu trăm tuổi”. Diêm Vương đáp: “Trên dương gian mà có được con người như vậy thì ta đây đã đầu thai thay ngươi rồi!”.
Bản chất của con người đã như vậy (không hoàn toàn tốt, không hoàn toàn xấu) thì thái độ phải chăng, hợp lí là tìm cách thích ứng với nó. Với lại cũng không có cách nào tránh được nó kia mà. Tình dục hoặc bản năng bẩm sinh ra, là điều không có ích lợi gì mấy để đem ra bàn. Nhưng có điều chắc chắn là để cho chúng sai khiến, làm nô lệ cho chúng thì nguy hiểm lắm. Cho nên phải giữ cái đạo trung. Cái thái độ cận tình hợp lí đó tạo nên một triết lí khoan dung, coi những lầm lẫn, những hành vi xấu xa của con người, bất luận về phương diện pháp luật, luân lí hay chính trị, là có thể tha thứ được nếu nó chỉ là cái chuyện thường tình. Người Trung Hoa còn cho Trời hay Thượng đế là một vị hoàn toàn hợp lí cận tình nữa, và nếu chúng ta sống hợp với lương tri của ta thì không sợ gì cả, mà nếu lương tâm của ta được yên ổn, thì không còn gì sướng hơn, dẫu là ma quỉ cũng không dám động đến ta. Có một Thượng Đế hợp lí cận tình quản nhiệm công việc của những người mà đa số cũng hợp lí, cận tình, như vậy thì thế giới sẽ hoàn toàn có trật tự, thái bình vô sự. Bọn chuyên chế sẽ chết; bọn phản quốc sẽ tự tử; bọn ăn cắp sẽ bị bắt; kẻ giàu tham ham tom góp bảo vật, suốt đời lo lắng, thì con cái họ sẽ phá tán gia sản, và những bảo vật đó sẽ vào tay các gia đình khác; kẻ sát nhân sẽ không tránh khỏi tội chết; những đàn bà bị nhục sẽ được báo thù. Đôi khi, cũng có người bị ức hiếp gào lên: “Trời không có mắt”, nhưng hiếm lắm. Rút cục, dù theo Lão giáo hay theo Khổng giáo thì cái mục đích duy nhất đều là tìm hiểu Tự nhiên để hòa hợp với Tự nhiên, và nếu cần phải đặt tên cho dễ gọi thì tôi đặt cho triết lí đó cái tên: “ Chủ nghĩa Tự nhiên hợp lí”. Một người theo chủ nghĩa đó sẽ sống một cách thỏa mãn, như vạn vật. Đúng như các phụ nữ vô học người Trung Hoa thường nói: “Cha mẹ sinh ra mình, thì mình sinh con. Còn việc gì khác để làm nữa?”.
Có một triết lí ghê gớm trong lời đó. Đời sống thành ra một trình tự về tình lí, mà vấn đề linh hồn bất tử thành ra vấn đề phụ. Do đó mà ta thấy những ông lão trịnh trọng dắt cháu nội đi mua kẹo mạch nha cho nó, vừa đi vừa nghĩ rằng trong mười năm nữa mình sẽ xuống hố hoặc về với ông bà. Điều quí nhất mà chúng ta có thể hi vọng được ở đời này là đừng có những đứa con cháu làm nhục cho ta. Tất cả đời sống Trung Hoa qui cả vào ý tưởng duy nhất đó.
2. KHÔNG THOÁT LI ĐƯỢC CÕI TRẦN
Vậy tình thế của loài người như vầy: chúng ta muốn sống nhưng phải sống trên trái đất này chứ không phải sống trên trời. Đừng để cho óc ta cất cánh bay bổng lên thế giới của các vị thần rồi mà quên khuấy kiếp trần đi. Chúng ta đâu có bất tử như các vị thần? Chúng ta sẽ chết kia mà. Đối với ai muốn sống hoài, bất tử, thì cái đời người sáu bảy chục năm quả là ngắn ngủi, nhưng đối với người nào biết khiêm tốn một chút thì bấy nhiêu cũng khá dài rồi đấy. Trong bảy chục năm học hỏi được nhiều lắm chứ mà hưởng thụ cũng được nhiều lắm chứ. Sống bảy chục tuổi thì được nhìn thấy đời mình, đời con mình, đời cháu mình, thế là ba thế hệ ; được mục kích những cái ngu xuẩn và học những cái khôn của loài người trong ba thế hệ, nhiều đấy chứ! Người nào khôn thì tới cái tuổi đó, sau khi được chứng kiến biết bao sự thay đổi về thời trang, về phong tục, luân lí, chính trị, tất phải thỏa mãn lắm, đứng dậy ra về mà khen rằng: “Vở tuồng hay quá” trong khi bức màn từ từ hạ xuống.
Vì chúng ta trần tục, sinh trên cõi trần, nên không thể thoát li trần thế được. Trên cõi trần này chúng ta chỉ là những khách qua đường, nhưng như vậy có gì đâu để mà than thở? Dù cõi trần này chỉ là một khám đường u ám, thì cũng cứ chuẩn bị đời sống được chừng nào hay chừng đó; mà thực ra nó không phải là một khám đường, nó là một vũ trụ cực đẹp đẽ để tiếp đón ta trong già nửa một thế kỉ; không tận lực chuẩn bị đời sống của ta cho được mĩ mãn thì chẳng hóa ra ta là người vong ân bạc nghĩa ư? Đôi khi chúng ta tham lam quá, tỏ vẻ miệt thị trái đất tầm thường mà lại rất khoan hồng, nhân từ này. Đáng lẽ chúng ta phải có cảm tình, phải thực tâm yêu mến bà Mẹ của vạn vật đó chứ, phải quyến luyến với cái nơi mà ta gởi tạm cái thể xác cùng tinh thần của ta đó chứ.
Ta nên như Thoreau – một nhà văn Mĩ theo chủ nghĩa tự nhiên ở thế kỉ 19 – coi mình như đồng loại với trái đất và cũng như trái đất, gặp mùa đông thì cứ nhẫn nại đợi một tia nắng xuân. Dù sao, trần thế mới là chân thực, thiên đường chỉ là hư ảo: được sinh ở giữa cái khoảng chân thực và hư ảo đó, quả là hạnh phúc cho loài người.
Bất kì một triết lí thực tế, lương hảo nào cũng phải thừa nhận rằng chúng ta có một thể xác. Đã đến lúc chúng ta phải thừa nhận rằng mình là loại động vật; từ khi có những tấn bộ về khoa sinh vật học, nhất là về khoa sinh-hóa học (sinh vật và hóa học) thì điều đó không còn nghi ngờ gì nữa. Khốn thay, các vị “sư”, các triết gia của ta lại thuộc vào cái giới mệnh danh là tri thức, mà các nhà tri thức lại tự hào về cái tinh thần của họ cũng như các bác thợ giày tự hào về miếng da họ dùng. Đôi khi các nhà đó cho danh từ “tinh thần” chưa được mắc mỏ, trừu tượng mà dùng những danh từ “tinh túy”, “linh hồn” và viết bằng chữ hoa để nhát ta. Thế là trong cái xưởng học thuật, thân xác con người đã biến thành tinh thần, rồi kết đặt lại thành “tinh túy”, nhưng người ta quên rằng ngay như chất rượu kia, sở dĩ ta uống được là vì nó có một “thực thể”, chứ nếu chỉ có “tinh túy” không thôi thì làm sao uống cho vô[6]. Và bọn phàm nhân tội nghiệp chúng ta lại phải uống cái “tinh túy ngưng tụ ” đó. Cái thái độ quá trọng tinh thần đó thật là tai hại, làm cho người ta không nhận thức được đầy đủ bản chất con người. Sở dĩ nó phát sinh là vì người ta không hiểu rõ về sinh vật học, tâm lí học, về nghĩa vụ của ngũ quan, của cảm xúc và nhất là của bản năng trong đời sống. Con người đã do nhục thể và tinh thần tạo thành thì nhiệm vụ đầu tiên của triết học là phải trỏ cho ta rằng hai phần đó điều hòa nhau.
Có điều này hiển nhiên nhất là các triết gia không chịu nhận rằng chúng ta có một thân thể. Thấy những khuyết điểm, những bản năng, những xung đột đã mang của chúng ta, các nhà thuyết giáo đâm ra chán ngán, đôi khi muốn rằng chúng ta được như những vị thiên thần, nhưng chúng ta hoàn toàn không tưởng tượng nổi đời sống các vị thiên thần đó ra sao. Đa số cho rằng thiên thần có một thân thể, một hình dáng như chúng ta trừ hai cánh. Lắm lúc tôi nghĩ rằng như vậy có lợi ngay cả cho các vị thiên thần nữa.
Vì ta thử tưởng tượng đời sống các vị thiên thần sẽ khổ sở ra sao nếu các vị đó không có một thân thể, không có cặp mắt để nhìn dòng nước trong, không có chân để nhúng vào dòng nước đó mà cảm thấy mát mẻ thú vị, không được thấy một dĩa thịt vịt Bắc Bình hoặc thịt vịt Long Island, một dĩa bánh kẹp, không có lưỡi để nếm những thức đó, không có răng để nhai rau ráu, không được nhìn vẻ mặt của những người thân yêu, không có một chút cảm xúc nào cả. Ôi buồn biết mấy, nếu một này nào đó chúng ta phải trở lại cõi trần này như những vị thần linh, lặng lẽ tiến vô phòng của con chúng ta để nhìn chúng ngủ, mà không có bàn tay vuốt ve chúng, không có cánh tay để ôm chúng, không có ngực để cảm thấy cái hơi nóng của chúng, không có vai để chúng áp mặt, ngả đầu vào, không có tai để nghe tiếng nói của chúng.
Thuyết thiên thần không có thể xác là một thuyết mơ hồ, không làm cho ta mãn ý. Kẻ nào bênh vực thuyết đó có thể nói: “Phải, nhưng trong thế giới thần linh, chúng tôi không có những thỏa mãn trần tục đó”. “Thế thì có cái gì thay vào không?”. Bí, hoặc chỉ có thể đáp: “Có sự hư vô, sự hòa bình, sự an tĩnh”. “Như vậy lợi gì không?”. “Khỏi phải làm việc, khỏi phải khó nhọc, khỏi phải lo buồn”. Vâng, tôi nhận rằng bọn tội nhân bị cực hình sẽ ao ước được một cảnh thiên đường như vậy lắm.
4. MỘT QUAN NIỆM CỦA KHOA SINH VẬT HỌC
Nếu ta tìm hiểu kĩ cơ năng của thân thể và trình tự của tinh thần, thì chúng ta sẽ có một nhãn quan đích xác hơn, rộng rãi hơn về bản thân chúng ta, và danh từ “động vật” sẽ giảm được một phần cái ý nghĩa hep hòi, độc ác mà trước kia người ta gán cho nó. Câu tục ngữ: “Hiểu tức là tha thứ” có thể đem áp dụng ở đây. Hễ hiểu rõ cơ năng của thân thể thì ta sẽ không khinh thị thân thể ta nữa, điều đó có vẻ lạ lung mà rất đúng. Xét bộ tiêu hóa của ta, đừng vội bảo nó cao quí hay đê tiện, mà cứ tìm hiểu nó đi; khi đã tìm hiểu rồi ta sẽ thấy nó rất cao quí. Tất cả các cơ năng khác như: đổ mồ hôi, bài tiết, nội tiết, cảm xúc, tư tưởng… thì cũng vậy, cũng đều cao quí cả. Người ta sẽ không khinh trái thận nữa; người ta sẽ không cho một chiếc răng hư là dấu hiệu của sự suy nhược, là lời nhắc nhở nên sửa soạn linh hồn để mà chầu trời nữa, mà người ta lại phòng một bác sĩ nha khoa. Tôi vẫn thích được thấy một triết gia sâu răng hoặc một thi sĩ lạc quan bị bệnh khó tiêu. Tại sao triết gia đó lại không tiếp tục bàn luận đi mà lại ôm hàm răng y như chúng ta vậy? Tại sao thi sĩ đó không ca hát nữa? Quên cái công dụng của ruột, chẳng phải là vô ân bạc nghĩa ư? Nếu nó không hoạt động điều hòa thì tinh thần có vui vẻ mà ca hát được không?
Khoa học nghiên cứu kĩ sự kì diệu và sự bí mật của các cơ năng trong thân thể, ít nhất cũng đã dạy cho ta biết tôn trọng thân thể ta hơn. Trước hết, về phương diện khởi nguyên của loài người, chúng ta bắt đầu hiểu rằng chúng ta không do đất sét tạo thành mà được đứng đầu các loài động vật. Rồi về phương diện thân thể con người, chúng ta được thấy rằng nó bí mật và diễm lệ vô cùng. Chúng ta bắt đầu nhận ra rằng vật chất như có trí năng. “Mỗi bộ phận trong cơ thể như hiểu được những nhu cầu hiện tại và tương lai của toàn thể và tự biến đổi để thích ứng với những nhu cầu đó. Cơ thể ta nhận định được cái gần và cái xa, tương lai và hiện tại” (Alexis Carrel trong cuốn L’Homme, cet inconnu).
Chẳng hạn, thật là lạ lùng, ruột của ta tự biết chữa lấy những vết thương của nó, hoàn toàn ngoài ý muốn của ta: “Khi một khúc ruột nào bị thương thì nó không vận động nữa, tự tê liệt trong một thời gian như để ngăn các chất dơ trong ruột, không cho nó chảy vô trong bụng. Rồi có một bộ phận khác ở trong ruột tự tiến tới, đắp lên vết thương, dính chặt vào nó. Bốn năm giờ sau, lỗ hổng đã bít kín rồi. Trong trường hợp bác sĩ ngoại khoa dùng kim khâu vết thương thì cũng chính là nhờ ruột có một bộ phận tự đắp lên, dính vào vết thương mà ta hết bệnh”.
Nhục thể thông minh như vậy thì tại sao ta lại khinh thân thể ta chứ? Nó là một bộ máy biết tự dinh dưỡng lấy, tự điều khiển lấy, tự sửa chữa lấy, tự sinh sản lấy; một bộ máy lắp sẵn từ khi ta mới sanh, chẳng cần chăm sóc tới mấy mà cũng chạy liên tiếp ba phần tư thế kỉ như chiếc đồng hồ quả lắc của ông nội chúng ta.
Bộ máy đó là một loại thính thị vô tuyến, có một hệ thống thần kinh và lâm ba (lymphe), so với các máy điện tín, điện thoại phức tạp nhất thế giới thì hoàn hảo hơn nhiều. Nó lại có một hệ thống để sắp đặt các tin tức, tài tình đến nỗi tin tức nào ít quan trọng thì sắp vào một cái kho trên thượng lương còn những tin thường dùng tới thì sắp vào chỗ tiện lợi hơn; nhưng cả những tin sắp trong kho, từ ba chục năm trước, họa hoằn mới dùng tới, mà cũng không thất lạc, muốn tìm là được liền. Bộ máy đó tiến được như một chiếc xe hơi, nó hoàn toàn không có tiếng động và chiếc xe hơi đó nếu gặp tai nạn, bể kính hoặc gãy tay lái, thì tự nó tạo ra chất để thay thế tấm kính, bánh tay lái, cùng lắm thì dùng miếng tay lái còn lại chạy đỡ cũng được, tức như trường hợp một trái thận bị cắt bỏ thì trái thận kia bành trướng ra, tăng sức hoạt động lên để lọc hết số lượng nước tiếu bình thường. Nó lại giữ được một nhiệt độ là 370, và tạo lấy những chất hóa học để biến đổi thức ăn thành da, thịt…
Hơn nữa, nó có ý thức về tiết điệu của đời sống, về thời gian, chẳng những về ngày, giờ mà cả về những quãng dài mười năm. Vì cơ thể ta qui định tuổi thơ, tuổi dậy thì, tuổi thành niên, khi nào không cần lớn thêm nữa thì nó ngưng phát triển. Nó tự chế tạo những chất trừ độc, mà kết quả kì diệu lạ lùng. Mà nó làm tất cả những công việc đó trong sự an tĩnh hoàn toàn, không náo động như các nhà máy, nhờ vậy mà các nhà siêu hình học của chúng ta mới được yên ổn, không bị quấy rầy để tự do suy nghĩ về cái “tinh thần” hoặc cái “ tinh túy” của mình.
Tôi cho rằng về phương diện sinh lí, đời sống con người không khác chi một bài thơ. Nó có vần luật, tiết điệu, có những chu kì thịnh suy của nó. Mới đầu là tuổi nhỏ ngây thơ rồi tới tuổi xuân vụng về, rán thích ứng với xã hội, nhiều nhiệt tình, nhiều tham vọng, dại dột mà có lí tưởng; tiếp tới một tuổi hoạt động kịch liệt, rút được nhiều kinh nghiệm trong xã hội và về bản chất con người; tới tuổi trung niên, hoạt động giảm đi, tính tình dịu đi, như một trái cây đương chín hoặc một thứ rượu ngon đã hết nồng, đối với nhân sinh lần lần có một quan niệm khoan dung hơn, ôn hòa hơn, nhưng cũng ngạo nghễ hơn, “bất chấp” hơn; rồi tới khi bắt đầu xế bóng, các hạch nội tiết hoạt động giảm đi, chúng ta mới thật là có được cái triết lí của tuổi già, cái tuổi hòa bình, ổn định, nhàn dật mà mãn nguyện; sau cùng, sinh mệnh tàn lụi và ta ngủ một giấc vĩnh viễn. Đáng lẽ, người ta phải nhận được cái đẹp của những nhịp điệu đó trong đời sống như nhận được cái đẹp trong những bản đại hòa tấu chứ; nhận được chủ đề, những chỗ gấp, chỗ khoan cùng chỗ hòa âm cuối cùng của nó. Sự tiến triển của các chu kì trong một đời sống bình thường thì đại thể là như vậy; nhưng bản nhạc của đời cũng do cá nhân diễn tấu nữa. Một vài người tấu vụng, nhiều âm không điều hòa, mỗi lúc một lớn mãi lên, át hẳn cả điệu chính, có khi còn làm cho khúc nhạc phải nhưng lại và người đó phải nhảy xuống sông hoặc bắn một phát súng vào đầu mình. Chỉ tại những người đó thiếu sự giáo dục, chứ bình thường thì đời người phải tiến trong một một cuộc vận chuyển rất mực nghiêm túc.
Ai cũng phải nhận rằng đời người từ tuổi thơ, tuổi tráng niên tới tuổi già là một sự hòa hợp mĩ mãn, cũng như ngày thì có buổi sáng, buổi trưa và buổi chiều mà năm thì có bốn mùa. Không có cái gì tự nó tốt hay xấu. Hễ hợp với tuổi với mùa thì là tốt. Nếu chấp nhận quan niệm sinh lí đó và rán sống hòa hợp với tuổi của mình thì chỉ trừ những kẻ điên rồ, tự cao tự đại, hoặc hoài bão những lí tưởng viễn vông, còn thì ai cũng nhận rằng đời có thể đẹp như một bài thơ. Shakespeare đã diễn ý đó trong một thiên nói về bảy giai đoạn trong một đời người, và nhiều văn nhân Trung Hoa cũng đã chủ trương như vậy. Lạ thay, Shakespeare không lúc nào có nhiều tinh thần tôn giáo và rất ít lưu tâm đến tôn giáo. Tôi cho rằng sở dĩ ông vĩ đại là nhờ đó; bản chất con người ra sao thì ông nhận nó như vậy không xen vào sự an bài của hóa công, cũng như không xen vào cá tính các nhân vật trong kịch của ông. Shakespeare y như hóa công, y như thiên nhiên; không có lời khen nào vinh dự cho một nhà văn, hoặc một nhà tư tưởng bằng lời ấy. Ông chỉ sống, nhận xét, rồi qua thế giới khác.
Chú thích:
[1] Trong tiết này, tác giả không xem xét quan niệm của những người theo đạo Phật, vì “quan niệm đó bi thảm quá”; nhưng ông có xét quan niệm của những người theo đạo Ki Tô trong ba trang đầu; chúng tôi lược bỏ những trang đó vì thấy không cần thiết cho ý nghĩa của toàn chương.
[2] Démeter: nữ thần Đất, dạy nghề nông, che chở hôn nhân. Nữ thần đi khắp trời đất tìm con gái là Parséphone bị Hadès bắt cóc.
[3] Proserpine: Nữ thần Nông bị thần Platon bắt cóc.
[4] Orphée: thần giỏi thơ và nhạc, vợ là Eurydice chết, Orphée xuống âm phủ, đòi Pluton (tức như Diêm Vương) trả lại Eurydice cho mình.
[5] Tam tài là ba ngôi.
[6] Ý tác giả muốn nói: tinh thần mà không có vật chất thì vô dụng. Ông mỉa những người quá trọng tinh thần và khinh vật chất.