Một, Hai, Ba Những Cái Chết Bí Ẩn

Chương Sáu (2)

III

 

Tóc bay trước gió, mặt mở to vì sợ hãi, Jane Olivera chạy tới.

- Howard? - Cô ta nói, dừng lại, hết hơi.

- Jane - anh này trả lời với thái độ vui vẻ - tôi lấy làm sung sướng báo cho cô biết rằng tôi vừa cứu mạng chú cô.

- Anh? - Cô ta nói, sửng sốt.

- Chắc chắn rằng ông đã đến đúng lúc, ông... ông?... - Blunt nói...

Jane nói xen vào:

- Thưa chú, cháu xin giới thiệu với chú Howard Raikes, một người bạn trai của cháu.

Blunt nhìn Raikes và mỉm cười, ra vẻ hiểu thấu đáo.

- A! A! Ông là người đang đeo đuổi Jane!... Tôi phải cảm ơn ông.

Julia Olivera xuất hiện ngay trước khi có một tiếng ồn làm cho người ta nghĩ tới tiếng phì phò của đầu máy xe lửa dưới áp suất.

- Tôi đã nghe một tiếng súng - bà ta giải thích, vừa thở hổn hển - có phải...

Phần còn lại nằm trong họng bà. Bà ta vừa thấy Howard Raikes. Trước hết bà sững sờ, rồi bà bình tĩnh lại để gọi anh này.

- A, anh? Nhưng anh làm gì ở đây? Làm thế nào mà anh dám…

- Mẹ - Jane nói với giọng lạnh lùng - Howard vừa cứu mạng cho chú con!

- Thế nào?

- Đúng thế. Khi người này đã bắn vào chú con, thì Howard đã nhảy xổ vào anh ta và tước lấy vũ khí.

- Cô nói dối! - Frank Carter la lên mạnh mẽ.

Bà Olivera không biết nói gì nữa. Bà ta đứng một lúc, không nói gì, miệng há hốc. Rồi bà ta ngoảnh về phía Blunt.

- May quá, chú Alistair thân mến, không hề gì! Nhưng đấy là một biến cố ghê gớm và chú đã phải cảm thấy một sự xúc phạm kinh khủng. Đối với tôi, tôi vẫn còn hết sức kinh ngạc. Chỉ một tí nữa, thì tôi choáng váng. Tôi tự hỏi xem có nên uống một li nhỏ cô nhắc không…

- Ý kiến tuyệt diệu - Blunt nói - chúng ta về đi...

Bà ta cầm lấy cánh tay Blunt và sức nặng của bà đã đè trĩu cánh tay. Blunt bắt đầu đi, vừa ngoảnh lại ra hiệu cho Poirot và Howard Raikes, hai người này đã sửa soạn bước theo.

- Dẫn nó đi! - ông ta nói - Chúng ta sẽ gọi cảnh sát và trao hắn cho họ.

Frank Carter mở miệng để đáp lại, nhưng ngắc ngứ không nói ra lời. Anh ta tái mét và đôi chân anh nhũn ra. Howard Raikes nắm lấy cùi tay anh ta một cách thô bạo.

- Đi, mày!

Frank Carter vẫn phản kháng yếu ớt.

- Tôi không làm gì cả!

Howard Raikes nhìn Poirot.

- Đối với một nhà thám tử hảo hạng, thực sự ông nói ít quá - anh ta nhận xét - Tại sao ông không làm cho anh này hiểu rằng anh ta chỉ mất thì giờ để chối thôi?

- Bởi vì tôi đang suy nghĩ, ông Raikes ạ.

- Ông cần suy nghĩ điều đó, bởi vì, theo logic đúng, thì ông phải xin từ chức. Nếu Alistair Blunt đang còn sống được, thực tế là không phải nhờ ông.

- Thế thì nhờ vào ông, vào kỳ công thứ hai của ông?

- Ông muốn nói cái gì?

- Đúng là ông, có phải không, cách đây vài ngày đã bắt giữ một người vừa bắn vào ông Blunt và ngài Thủ tướng?

Howard Raikes ngập ngừng vài giây trước khi đáp lại với sự vui vẻ giả tạo.

- Thực thế, thì người ta sẽ nói rằng điều đó đã trở thành một thói quen ở tôi.

- Đúng - Poirot nói - Chỉ có một sự khác nhau. Hôm kia, người mà ông bắt giữ không phải là người đã bắn... Ông nhầm rồi.

- Hôm nay, ông ta cũng nhầm nữa - Frank Carter càu nhàu.

- Đấy là điều mà tôi còn do dự, khiến cho không ai hiểu cả - Poirot lẩm bẩm.

IV

 

Đứng trước tấm gương soi, tập trung tư tưởng vào thao tác tinh tế để đảm bảo sự cân xứng hoàn hảo của hai cánh nơ cavát, Hercule Poirot mặc quần áo để đi ăn tối.

Ông không bằng lòng, nhưng sẽ lúng túng nếu phải nói tại sao.

Vụ này, ông buộc phải đồng ý, đã là rất rõ. Frank Carter bị bắt quả tang.

Poirot không có một chút thiện cảm nào đối với Carter và không có một tí tin tưởng nào vào anh ta cả. Ông xét đoán không thiên kiến anh này và xem anh ta như là "một gã ít thú vị", một trong những tên vô lại ấy luôn luôn tìm được những người, nhất là phụ nữ để biện hộ cho vụ kiện của họ, ngay cả khi họ không thể bênh vực được.

Mánh khóe bảo vệ của hắn ta là yếu ớt thảm hại. Hắn ta kể rằng đã được các nhân viên Sở Tình báo Anh tiếp cận và yêu cầu hắn thu lượm "tình hình".

Hắn ta phải tới làm vườn cho Blunt và mang lại cho họ những sự việc và cử chỉ của các bạn đồng nghiệp của Blunt. Câu chuyện không dựa lên cái gì cả, và sự việc đã được chứng minh một cách dễ dàng. Vả chăng, đó là một sự nghèo nàn thảm hại trong sáng tạo. Đấy đúng là loại ngụ ngôn mà người ta chờ đợi ở Carter, Poirot nghĩ.

Về vụ ám sát, Carter đã lặp lại rằng không phải hắn đã bắn, rằng hắn là nạn nhân của một cuộc mai phục, một mưu mô mà hắn không hiểu gì cả. Thực sự người ta không biết nói gì để bênh vực hắn.

Không có gì, ngoại trừ một điều cũng lạ là hai lần, cách nhau vài ngày, Howard Raikes đã tới chính xác vào lúc mà những phát súng lục bắn vào Alistair Blunt.

Nhưng khó thấy đấy không phải là một sự trùng hợp. Vụ ám sát ở đường phố Downing, chắn chắn không phải Raikes là thủ phạm, và sự có mặt của anh ta ở Exsham không có gì là khác thường. Anh ta đến để được gần người mà anh ta yêu, và câu chuyện của anh ta đứng vững hoàn toàn, phải đồng ý là như vậy.

Sự kiện hẳn là đã phục vụ anh ta một cách như trời giúp. Khi một người vừa cứu mạng anh, anh không thể cấm ông ta vào nhà mình được và điều ít nhất mà anh có thể làm là chứng tỏ tình bạn với người ấy và đón tiếp ân cần ông ta. Alistair Blunt đã không thiếu điều đó. Sự việc ít làm vui lòng bà Olivera, nhưng bà ta nhận thức được rằng không thể ngăn trở điều đó, và dù vui lòng hay miễn cưỡng, cũng cần phải chịu đựng cái anh chàng không ai muốn dung nạp ấy, một khi đã đặt chân vào nhà, là muốn ở lì lại đó.

Poirot ngẫm nghĩ về bài toán của mình, quan sát Howard Raikes suốt cả ngày. Diễn khéo vai trò của mình, người thanh niên hết sức tránh trình bày những tư tưởng cách mạng của mình và nói chính trị. Anh ta kẻ những câu chuyện vui về du lịch, những kỷ niệm về các cuộc đi chơi xa bằng đi bộ ở những xứ hẻo lánh.

“Con chó sói đã đội lốt cừu, Poirot nghĩ. Ta sẽ tò mò để biết xem cái gì ở dưới cái lốt ấy!".

Khi Poirot đang sửa soạn đi ngủ, thì có người gõ cửa. Ông trả lời: "Mời vào!" và thấy xuất hiện Howard Raikes, rất thoải mái và hình như rất vui về sự ngạc nhiên mà anh ta gây ra.

- Ông không chờ để gặp tôi sao? - Người thanh niên nói - Tôi đã nhìn ông nhiều, tối nay, và ông đã làm cho tôi buồn. Ông có vẻ suy tư, lo lắng...

- Có lẽ thế, nhưng tại sao điều đó đã làm cho anh băn khoăn?

- Tôi không biết, nhưng có điều là nó đã làm cho tôi buồn phiền. Tôi tự bảo rằng ông phải có những việc gì đó hơi khó chịu đựng?

- Và đấy là lúc nào?

- Do đó, tôi nghĩ rằng tốt nhất là nói tất cả sự thật với ông. Về câu chuyện ngày hôm kia. Thực tế, là ông đã đoán ra, ngày hôm đó, tôi đã khá coi thường cảnh sát. Vả chăng, không có chú ý. Tôi nhìn thấy khi ngài Thủ tướng đi ra khỏi nhà số 10 phố Downing, thì tôi thấy Ram Lai bắn vào ông ta. Ram Lai, tôi biết hắn. Đây là cháng trai rất tốt, hơi dễ nổi nóng, nhưng đã chỉ huy cuộc chiến đấu tốt để giải phóng Ấn Độ. Việc ám sát đã bất thành, viên đạn đã sướt qua những cái bụng quý giá của hai nhân vật vĩ đại hàng ki-lô-mét như ông biết; vậy thì tôi đã quyết định diễn một vở kịch ngắn tạo cho Ram Lai một cơ hội để trốn thoát. Tôi đã tóm lấy cổ áo của một cậu bé đứng gần tôi và tôi đã gào lên rằng tôi đã bắt được người bắn súng. Tôi hy vọng Ram Lai lợi dụng cơ hội đó chuồn đi, nhưng cảnh sát đã tóm cổ anh ta. Mọi sự việc đã xảy ra đúng như vậy.

- Còn sáng nay?

- Sáng hôm nay, đấy là việc hoàn toàn khác: Không có Ram Lai ở trong vùng đó và đúng là Carter đã bắn. Hắn ta còn cầm súng lục ở tay khi tôi nhảy xổ vào hắn. Tôi tưởng tượng rằng hắn ta sẽ bắn phát thứ hai...

Poirot nghe, hoài nghi rõ ràng.

- Anh quá lo lắng để bảo vệ bản thân ông Blunt?

Raikes mỉm cười:

- Theo điều mà tôi đã kể cho ông ngày hôm kia thì điều này theo ông là kỳ cục chăng? Tôi hiểu điều đó. Tôi cho rằng, vì quyền lợi của nhân loại, Blunt là một người cần phải thủ tiêu. Nhưng chúng ta phải hiểu nhau. Không phải tôi căm giận cá nhân ông ta. Trong giới ông ta, tôi thấy ông ta là người khá thiện cảm. Những tư tưởng của tôi cũng vẫn như hôm qua... ấy thế mà khi tôi thấy một anh chàng coi ông ta như một cái bia, tôi đã nhảy vào để chuyển hướng phát đạn... Điều đó chỉ chứng tỏ rằng người ta là một động vật mà mọi hành vi không do một logic chặt chẽ chi phối.

- Có một cái hố rộng ngăn cách lý thuyết và thực hành - Poirot nói với vẻ trịnh trọng.

- Đấy đúng là ý kiến của tôi.

Raikes đang ngồi trên giường, đứng dậy. Anh ta luôn luôn mỉm cười.

- Dù sao chăng nữa, tôi nghĩ rằng đấy là một điểm mà tôi phải giải thích cho ông - anh ta kết luận - Xong rồi. Tôi xin rút lui. Chúc ông ngủ ngon, ông Poirot!

Anh ta đi ra, nhẹ nhàng khép cửa lại ở phía sau mình.

V

“Chúa ơi, cứu chúng con ra khỏi những kẻ độc ác”. Bà Olivera hát không đúng lắm, nhưng trong giọng bà ta có một mềm tin chỉ rõ ràng."Kẻ độc ác" đối với bà sáng hôm ấy có một bộ mặt đã được xác định rõ: bộ mặt của Howard Raikes.

Đấy ít ra cũng là ý kiến của Poirot, đứng bên cạnh ông chủ nhà, tham dự vào ngày lễ chủ nhật ở giáo đường nhỏ ở trong làng. Khi thấy họ chuẩn bị ra đi, Howard Raikes đã mỉm cười hơi khinh khỉnh và đã hỏi ông Blunt xem ông ta có đi lễ nhà thờ đều đặn không? Alistair đã lầm rầm một câu trả lời, mập mờ rằng ở nhà quê có những sự bắt buộc khó mà tránh được và người ta không thể "bỏ rơi" cha xứ. Một tình cảm điển hình Anh đã làm ngạc nhiên người thanh niên Mỹ, nhưng Poirot đã hoàn toàn thấu hiểu những giọng trẻ con rất cao hát:

Luật của chúng nhọn như lưỡi con rắn,

Và cái nọc độc ẩn nấp dưới môi chúng...

Giọng nam cao và giọng nam trầm lại hát:

Chúa ơi, bảo vệ cho con khỏi bọn dị giáo hèn nhát,

Và  những sự quyến rũ của bọn độc ác...

Hercule Poirot không nhúc nhích. Dù vẫn đứng thẳng, nhìn trước mặt ông nhưng không thấy, như một người bị thôi miên. Những người khác thì điềm tĩnh, không phải không có tiếng ồn, nhưng ông không nhận thấy, và để gọi ông trở lại thực tại, cần phải có một cú nhỏ kín đáo mà Jane Olivera hích vào cánh tay ông.

Linh mục chủ lễ bắt đầu đọc:

- Ở đây bắt đầu chương thứ mười lăm của cuốn sách thứ nhất của Samuel...

Poirot nghe không chú ý.

Bộ óc của ông làm việc: những sự kiện cho đến lúc này không có quan hệ bề ngoài với nhau, bây giờ đã sắp xếp thành một kết cấu lôgic. Mỗi một,cái đều tìm thấy chỗ của nó, mỗi một cái đều được giải thích. Poirot nghĩ tới những cái vòng của giầy, một đôi tất, một cái mặt bị nghiền nát, những khiếu thưởng thức văn học thảm hại của Alfred - anh nhân viên phục vụ, sự hoạt động của ông Amberrotis, vai trò của ông Morley và lần đầu tiên  ông đã xem xét vụ này như thực trạng của nó.

Bài đọc kết thúc:

- Vì cuộc nổi loạn là tội lỗi do quỷ sứ mong muốn. Bởi vì anh đã vứt bỏ lời Chúa, Chúa đã tước mất của anh chế độ quân chủ. Ở đấy chấm dứt cuốn sách thứ nhất.

Đầu óc luôn luôn ở chỗ khác, Hercule Poirot đứng dậy để cùng các người khác cất tiếng hát bài thánh ca tụng Chúa.