Máu Lạnh (Chuyện Có Thật)

Chương 11

Paul - tôi bảo nó ra dây phơi lấy vài đôi tất cho Alvin - Paul quay vào đứng cạnh xem tôi cho quần áo vào va li. Nó muốn biết bố đi đâu. Alvin nhấc bổng nó lên. Ông ấy nói, ‘Pauly, con có giữ bí mật được không?’ Ông ấy chẳng cần phải hỏi. Cả hai đứa nhỏ đều biết chúng không được nói đến công việc của bố - những mẩu này câu nọ mà chúng nghe được trong cái nhà này. Cho nên ông ấy nói, ‘Pauly, con có nhớ hai cái tên mà chúng ta đang tìm kiếm không? Giờ thì chúng ta biết được là chúng ở đâu rồi, bố sắp áp giải chúng về Garden City đây.’ Nhưng Paul lại van nài bố, ‘Đừng, đừng bố, đừng đem chúng đến đây.’ Nó sợ, đứa trẻ lên chín nào cũng sợ cả. Alvin hôn con. Ông ấy nói. ‘Bây giờ thì OK rồi, con, chúng ta sẽ không để cho chúng làm hại ai nữa. Chúng không làm hại cho ai được nữa đâu, con’.”

Năm giờ chiều hôm đó, khoảng hai chục phút sau khi chiếc Chevrolet ăn cắp lăn bánh ra khỏi sa mạc Nevada vào Las Vegas, cuộc đi dạo dài đã đến đoạn kết. Nhưng không phải là trước lúc Perry đến bưu điện Las Vegas nhận một bọc gửi cho hắn qua công ty General Delivery - cái thùng các tông to mà hắn gửi đi từ Mexico, được bảo đảm bằng một trăm đô la, một món tiền vượt xa giá trị những thứ nó đựng ở trong, gồm dầu bắt nắng, quần vải bò, sơ mi rách, quần áo lót và hai đôi ủng khóa sắt. Chờ Perry ở ngoài cửa bưu điện, Dick đang phởn lắm; hắn đã đi tới được một quyết định mà hắn tin chắc sẽ xóa bỏ được tình thế khó khăn hiện nay, sẽ mở ra trước mắt hắn một con đường mới mẻ, một chân trời mới mẻ. Quyết định này bao hàm việc phải hóa trang thành sĩ quan không quân. Đây là một dự án từ lâu đã hấp dẫn Dick, và Las Vegas là cái chỗ lý tưởng để thi thố trò này. Hắn đã chọn xong tên và cấp bậc của sĩ quan, tên thì mượn của một người quen biết trước đây, quản giáo nhà tù Bang Kansas: Tracy Hand. Với tư cách Đại úy Tracy Hand, ăn mặc lịch sự trong bộ binh phục may đo, Dick định “bò trên dải đất này”, đường phố của những sòng bạc không bao giờ đóng cửa ở Las Vegas. Lúc ăn nhỏ, lúc ăn to, hoặc mảnh vụn hoặc miếng bự - hắn đã có ý đánh vào tất cả các sòng bạc, trên đường tiến quân sẽ phân phát “hàng bồ hoa giấy”. Bằng cách viết các séc giả vô giá trị, hắn trông chờ hót được ba, và có thể bốn nghìn đô la trong vòng hai mươi tư giờ. Đó là một nửa phi vụ; nửa thứ hai là: Chào từ biệt, Perry. Dick phát ốm với hắn ta rồi - cái harmonica của hắn, những đau ốm bệnh tật, các trò mê tín dị đoan, đôi mắt ướt át giống mắt đàn bà và cái giọng thì thào, ca cẩm của hắn. Đa nghi, chủ quan, chỉ thấy mình đúng, tàn nhẫn, hắn như một mụ vợ cần phải dứt bỏ. Và chỉ còn có mỗi cách để làm thôi: chẳng nói gì hết, cứ thế chuồn.

Mải mê với dự tính của mình, Dick không để ý tới một chiếc xe cảnh sát đi tuần chạy qua, chậm dần lại, vẻ như thăm thú. Perry cũng giống Dick, không để ý tới, hắn đang đi từ bậc tam cấp bưu điện xuống, cái thùng Mexico đung đưa trên vai, nhìn chiếc xe lảng vảng quanh đó và người cảnh sát ngồi ở bên trong.

Hai sĩ quan cảnh sát Ocie Pigford và Francis Macauley còn mang hằn ở trong đầu những trang dữ liệu đã được ghi nhớ kỹ, bao gồm miêu tả chiếc xe Chcvroler 1956 sơn trắng đen mang biển số Kansas Jo 16212. Cả Perry lẫn Dick đều không hay rằng chiếc xe cảnh sát đã bám theo khi chúng ra khỏi bưu điện. Dick lái và Perry chỉ đường, chúng đi qua năm khối nhà ở phía bắc, quẹo trái, quẹo phải, đi thêm một phần tư dặm nữa thì dừng lại trước một cây cọ chết khô và một bảng hiệu xơ xác vì mưa nắng chữ viết đã phai mờ hết cả, chỉ còn lại cái từ “OOM”.

“Đây hả,” Dick nói.

Perry gật đầu trong khi chiếc xe tuần tra đi sát vào bên.

Ban Thám tử của Nhà tù Thành phố Las Vegas có hai phòng hỏi cung - những cái buồng sáng ánh nê ông rộng mười mét dài mười hai mét, tường và trần bằng chất dẻo celotex. Cộng với một chiếc quạt điện, một bàn kim loại, ghế xếp kim loại, trong mỗi phòng còn có các micro ngụy trang, các máy ghi âm giấu kỹ, và trong cửa lắp một cái lỗ chỉ nhìn được một chiều. Thứ Bảy, ngày thứ hai của năm 1960, cả hai phòng đều được đặt trước cho 2 giờ chiều - giờ mà bốn thám tử Kansas chọn để bắt đầu cuộc đối mặt đầu tiên với Hickock và Smith.

Trườc giờ hẹn đó ít lâu, bộ tứ đặc vụ K.B.I. - Harold Nye, Roy Church, Alvin Dewey và Clarence Sunzt - đã gặp nhau - một hành lang bên ngoài hai phòng hỏi cung. Nye đang sốt nóng. “Một phần vì cúm. Nhưng chủ yếu là vì kích động quá,” sau đó ông nói với một nhà báo như vậy. “Cho tới lúc đó tôi đã chờ ở Las Vegas hai ngày - đáp ngay chuyến máy bay sau đó khi tin về vụ bắt hai thằng đó đến sở chỉ huy ở Topeka. Những anh em còn lại trong đội, Al, Roy và Clarence thì đến bằng xe hơi - một chuyến đi cũng thật khốn khổ. Thời tiết khốn khổ. Qua giao thừa đón năm mới tuyết kẹt đường kẹt sá, nằm chết dí ở một khách sạn cho ô tô tại Albuquerque. Thế nên cuối cùng khi tới được Las Vegas là họ cần có uýt ki ngon và tin tức hay. Tôi đã sẵn sàng cho cả hai thứ. Các bạn trẻ của chúng tôi đã ký trát dẫn độ rồi. Còn tốt hơn thế nữa: chúng tôi đã có ủng rồi, cả hai đôi, đủ đế - hình cái chân mèo và hình kim cương - khớp hoàn toàn với các bức ảnh chụp cỡ thật những vết chân tìm thấy ở nhà Clutter. Các đôi ủng ở trong một cái thùng đựng đồ lặt vặt bọn chúng vừa lấy ở bưu điện ngay trước khi sân khấu hạ màn. Giống như tôi đã bảo Dewey, giả như chúng tôi chẹt chúng nó sớm hơn năm phút thì thôi đấy, đi tong.

Cứ cho là thế đi nữa, vụ của chúng tôi vẫn chưa chắc ăn lắm - cái gì cũng có thể bị chỉ trích được cả. Nhưng tôi nhớ, trong khi chờ ở hành lang - tôi nhớ là đã bị sốt và hồi hộp quá trời, nhưng tự tin. Chúng tôi đều thế cả; chúng tôi cảm thấy mình đã đến được bên mép lề của sự thật. Việc của tôi, của tôi và của Church là ép cho Hickock phải nhè sự thật ra. Smith thì là phần của Al và già Duntz. Đến lúc đó tôi vẫn chưa nhìn thấy bọn nghi phạm - chỉ mới xem đồ đạc của chúng và bố trí trát dẫn độ thôi. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy Hickock cho tới khi hắn được đưa xuống phòng hỏi cung. Tôi đã hình dung hắn là một gã cao lớn hơn kia. Lực lưỡng hơn. Không phải một thằng nhỏ gầy gò như vậy. Hắn đã hai mươi tám, nhưng trông chẳng khác gì một thằng lỏi con. Đói - giơ xương ra. Hắn rám nắng, mặc áo sơ mi lam và bít tất trắng, giày đen. Chúng tôi bắt tay; tay hắn khô hơn tay tôi. Sạch sẽ, lịch sự, giọng hay hay, phát âm rõ ràng, một gã nom tử tế ưa nhìn, có nụ cười rất được lòng người khác - và lúc đầu hắn mỉm cười như thế nhiều lắm.

Tôi nói, ‘Ông Hickock, tôi là Harold Nye, còn ông này là Roy Church. Chúng tôi là đặc vụ của Cục Điều tra Bang Kansas, chúng tôi đến để bàn về việc ông vi phạm lời hứa danh dự. Dĩ nhiên, ông không bắt buộc phải trả lời chúng tôi, nhưng bất cứ điều gì ông nói ra đều có thể được dùng làm bằng chứng để chống lại ông. Bất cứ lúc nào ông cũng có quyền nhờ đến luật sư. Chúng tôi sẽ không dùng bạo lực, không đe dọa, và tôi không hứa hẹn gì với ông cả.’ Hắn ta bình tĩnh lắm.”

“Tôi biết thủ tục,” Dick nói. “Tôi từng bị hỏi cung trước đây rồi.”

“Giờ thì, ông Hickock…”

“Gọi là Dick thôi.”

“Dick này, chúng tôi muốn nói về việc anh đã làm gì từ ngày anh hứa danh dự để được tha ra. Theo chúng tôi biết, ít nhất anh đã hai phen xài xả láng séc giả trong vùng Kansas City.”

“À ừm. Chỉ một xíu thôi mà.”

“Anh có thể cho chúng tôi danh sách những nơi anh đã tiêu séc giả chứ?”

Gã tù, rõ ràng tự hào về cái năng khiếu đích thực của mình, một trí nhớ xuất chúng, bèn kể ra tên và địa chỉ của hai chục nhà hàng, quán cà phê, ga ra xe hơi và nhắc lại chính xác các khoản “mua sắm” ở mỗi chỗ đó cùng số lượng séc đã tiêu trót lọt.

“Tôi thấy lạ đấy, Dick. Tại sao người ta đi nhận séc của anh được nhỉ? Tôi muốn biết bí quyết.”

“Bí quyết thế này: Thiên hạ toàn là lũ lừa.”

Roy Church nói, “Hay đấy, Dick. Rất ngộ. Nhưng lúc này thì chúng ta hãy quên cái chuyện séc ấy đi.” Tuy ông nói mà nghe như cổ họng bị lót một lớp lông lợn, còn hai bàn tay thì rắn lên đến nỗi ngỡ chừng ông có thể đấm đổ tường được (thực ra đó chính là trò mà ông vẫn thường ưa biểu diễn), có những kẻ từng tưởng lầm Church là một tay nhỏ nhắn hiền lành, một ông chú nhà ai đầu hói má hồng hồng. “Dick này,” Church nói, “giá như anh nói với chúng tôi đôi chút về hoàn cảnh gia đình anh.”

Gã tù ôn lại. Một lần, khi hắn lên chín hay mười tuổi thì bố hắn ốm. “Sốt thỏ,” bệnh kéo dài mấy tháng, trong thời gian đó gia đình sống nhờ vào sự cứu trợ của nhà thờ và lòng từ thiện của hàng xóm - “nếu không thì chúng tôi đã chết đói rồi.” Ngoài chuyện này ra, tuổi thơ của hắn là O.K. “Chúng tôi không bao giờ có nhiều tiền, nhưng cũng không bao giờ thật sự là túng quẫn,” Hickock nói. “Chúng tôi luôn có quần áo sạch sẽ và có cái ăn. Tuy bố tôi thì nghiêm lắm. Ông chỉ vui khi nào đã bắt tôi làm đủ thứ tạp dịch. Nhưng bố con tôi vẫn O.K với nhau, không có cãi cọ nghiêm trọng. Bố mẹ tôi cũng không khi nào cãi nhau. Tôi không nhớ có trận đấu khẩu nào không. Bà cụ tuyệt vời, mẹ tôi ấy. Bố tôi cũng là người tốt. Tôi có thể nói là bố mẹ tôi đã làm hết sức mình cho tôi.” Đi học? À, hắn cảm thấy hắn có thể hơn một học sinh trung bình nếu như hắn bớt một phần thời gian “phí phạm” cho thể thao vào sách vở. “Bóng chày. Bóng đá. Tôi chơi trong mọi đội bóng. Sau trung học, tôi lẽ ra đã có thể vào cao đẳng nhờ học bổng bóng đá. Tôi muốn học kỹ sư, nhưng dù có học bổng thì học mấy thứ ấy cũng tốn kém lắm. Tôi không biết, có lẽ kiếm được việc làm thì sẽ an toàn hơn.” Trước sinh nhật lần thứ hai mươi mốt, Hickock làm người tuần đường cho bên đường sắt, lái xe cứu thương, thợ sơn xe, thợ cơ khí ở gara; hắn cũng đã cưới một cô gái mười sáu tuổi. “Carol. Bố cô ấy là mục sư. Ông ta phản đối tôi kịch liệt. Bảo tôi là đồ vô dụng toàn phần. Làm được cái gì rắc rối là ông ta làm hết. Nhưng tôi thật sự trồng cây si vì Carol. Bây giờ vẫn vậy. Một cô công chúa thật sự. Có điều, xem đấy, chúng tôi có ba đứa con. Con trai cả. Mà chúng tôi thì quá trẻ để có ba đứa con. Có thể cũng được nếu như chúng tôi đừng bị ngập sâu vào nợ nần. Giá như tôi kiếm ra thêm được tiền. Tôi đã cố.”

Hắn thử đánh bạc, bắt đầu tiêu séc giả và thử nghiệm nhiều hình thức ăn cắp khác. Năm 1958, hắn bị xử ở tòa án Johnson vì tội đột nhập nhà người ta ăn cắp và bị kết án năm năm tù ở Nhà tù Bang Kansas. Nhưng vào lúc đó Carol đã ra đi và hắn lấy một cô gái khác làm vợ, mười sáu tuổi. “Đểu cáng ghê gớm. Nó và cả nhà nó. Trong khi tôi đi tù thì nó ly hôn. Tôi không phàn nàn. Tháng Tám rồi, khi tôi ra khám, tôi đã nghĩ mình có mọi cơ may để bắt đầu lại. Tôi có việc làm ở Olathe, sống với gia đình, đêm đêm ngủ ở nhà. Tôi đang làm ăn rất tốt…”

“Cho tới ngày 20 tháng Mười một,” Nye nói và Hickock có vẻ như không hiểu gì. “Cái ngày anh thôi làm việc tốt mà bắt đầu tiêu séc giả. Tại sao?”

Hickock thở dài nói, “Chuyện này viết thành sách được.” Rồi hút một điếu thuốc vay của Nye và được Church lịch sự châm cho, hắn nói, “Perry, thằng bạn thiết Perry Smith của tôi, được tha theo lời hứa danh dự hồi mùa xuân. Sau đó, khi tôi ra tù, hắn viết cho tôi một bức thư. Dấu bưu điện ở Idaho. Hắn nhắc tôi cái việc chúng tôi hay bàn với nhau. Về Mexico. Ý đấy là chúng tôi sẽ đi tới Acapulo, một trong những nơi như thế, mua một tàu đánh cá và tự trông nom lấy - chở khách du lịch ra câu cá ở ngoài khơi.”

Nye nói. “Cái tàu đó, các anh định lấy gì trả?”

“Tôi đang đến đoạn đó đây,” Hickock nói. “Thế này, Perry bảo tôi hắn có một bà chị sống ở Fort Scott. Bà ta đang cầm hộ Perry một món tiền cũng khá nặng tay. Mấy nghìn đô la. Tiền bố hắn nợ hắn từ khi bán cơ ngơi điền sản đâu như tận trên Alaska. Hắn nói hắn đến Kansas để lấy món tiền.”

“Và hai anh sẽ dùng tiền đó để mua cái tàu.”

“Chính xác.”

“Nhưng hóa ra lại không như thế.”

“Tình hình là Perry ra tù chậm phải đến một tháng. Tôi gặp hắn ở một trạm xe buýt ở Kansas City.”

“Khi nào?” Church hỏi. “Thứ mấy trong tuần?”

“Thứ Năm.”

“Và khi nào các anh đi Fort Scott?”

“Thứ Bảy.”

“14 tháng Mười một.”

Mắt Hickock lóe lên ngạc nhiên. Người ta có thể thấy là hắn đang thầm hỏi tại sao Church lại có thể nói ra ngày giờ chắc nịch đến như vậy; và Church - do thấy mình đã trót khuấy lên sự ngờ vực sớm quá, thế là không hay - liền vội nói, “Các anh rời đi Fort Scott lúc nào?”

“Chiều hôm đó. Chúng tôi sửa cái xe của tôi một lát, ăn một chầu ớt cay ở quán cà phê West Side. Phải vào khoảng ba giờ.”

“Khoảng ba giờ. Chị của Perry Smith có chờ các anh không?”

“Không. Vì, ông hiểu không, Perry đánh mất địa chỉ bà ta. Mà bà ta lại không có điện thoại.”

“Vậy các anh tính gặp bà ta như thế nào?”

“Bằng cách hỏi bưu điện vậy.”

“Có hỏi không?”

“Perry hỏi. Họ nói bà ấy dọn đi chỗ khác rồi. Đến Oregon, chắc vậy. Nhưng bà ấy chẳng để lại một địa chỉ nào để tìm theo được.”

“Chắc phải là một đòn choáng nhỉ. Khi mà các anh cứ trông mong vào một khoản tiền lớn đến thế.”

Hickock tán thành. “Vì là... chúng tôi quyết định dứt khoát đi Mexico. Không thế thì chúng tôi sẽ chẳng bao giờ thanh toán được séc giả. Nhưng tôi hy vọng... Bây giờ xin nghe tôi; tôi nói sự thật. Tôi nghĩ một khi đã đến Mexico và bắt đầu làm ra tiền rồi, lúc đó tôi sẽ có khả năng thanh toán cho họ. Các séc ấy.”

Nye xen vào, “Khoan đã, Dick.” Nye là một người thấp bé, nóng tính, ông khó kìm được cái tính hăng đốp chát cũng như cái tài nói vừa đau vừa thẳng của mình. “Tôi muốn nghe một ít về chuyến đi Fort Scott,” ông nói, cố gượng nhẹ. “Khi không gặp được chị của Smith ở đó nữa thì các anh làm gì?”

“Đi bộ loanh quanh. Uống chầu bia. Lái xe về.”

“Ý ông nói là về nhà?”

“Không, về Kansas City. Chúng tôi dừng lại ở Zesto, tiệm ăn lẹ cho xe hơi vào ăn rồi ra ngay. Ăn bánh mì kẹp pa tê. Rồi thử chút hàng anh đào Cherry Row.”

Cả Nye và Church đều không hiểu Cherry Row là gì.

Hickock nói, “Các ông đùa à? Cảnh sát nào ở Kansas City mà chẳng biết.” Khi hai ông nhắc lại là mình không biết thật, Hickock giải thích rằng đó là một rẻo công viên nơi người ta gặp “phần lớn là phò chuyên nghiệp”, nhưng nói thêm rằng “có cả đám nghiệp dư nữa. Y tá, nữ thư ký. Tôi hay vớ bở với bọn họ lắm.”

“Thế tối ấy có vớ bở không?”

“Tệ. Cuối cùng vớ phải hai con đểu.”

“Tên gì?”

“Milfred. Đứa kia, con của Perry là Joan, tôi nghĩ vậy.”

“Tả xem nào.”

“Có lẽ là chị em. Đều tóc vàng. Bụ bẫm. Tôi không rõ lắm về chuyện đó. Xem nào, hai đứa đã mua một chai pha sẵn Orange Blossoms - tức là cam và vodka ấy mà - và tôi đã có phần xỉn. Chúng tôi cho bọn gái uống một ít rồi lái chúng nó đến Bến Nhộn. Tôi nghĩ các vị đàng hoàng lịch sự thế này chắc chưa nghe đến bao giờ nhỉ?”

Họ chưa nghe thật.

“Nó ở trên đường Blue Ridge. Tám dặm phía nam Kansas City. Một thứ phối hợp hộp đêm với khách sạn mini. Ông trả mười đô la để có một chìa khóa vào một ca bin.” Hickock nhe răng ra cười cợt nhả.

Tiếp tục, hắn tả cái ca bin mà hắn nói cả bốn đứa đã qua đêm; giường đôi, một tấm lịch Coca Cola cũ, một cái rađiô chỉ chạy khi khách hàng bỏ vào một đồng tiền. Cung cách điềm tĩnh, sự mạch lạc và kiểu trình bày tỉ mỉ các chi tiết có thể kiểm chứng được của hắn làm Nye ngạc nhiên - tuy dĩ nhiên là cha này đang nói dối. Chậc, mà hắn có nói dối thật không đấy? Hoặc vì cơn cúm sốt hoặc vì lòng tự tin đột ngột bị nguội đi, Nye vã mồ hôi lạnh ra.

“Sáng ra chúng tôi thức dậy thì thấy là mình bị hai con đó lừa, cuỗm sạch tiền rồi,” Hickock nói. “Tôi không mất nhiều. Nhưng Perry thì mất cái ví có bốn năm chục đô la.”

“Các anh làm gì với chuyện đó?”

“Có cái gì mà làm chứ.”

“Các anh có thể báo cảnh sát.”

“Á, à, thôi. Cho nghỉ. Báo cảnh sát. Một thằng được tha theo lời hứa không được phép nhậu nhẹt chơi bời mà lại đi báo tin cho các ông à. Hoặc là hợp tác với một cha cũng ở Old Grad...”

“Được rồi, Dick. Hôm ấy Chủ nhật. 15 tháng Mười một. Hãy nói xem hôm đó từ lúc ra khỏi Bến Nhộn các anh làm gì.”

“À, chúng tôi ăn điểm tâm ở một bến xe tải đỗ gần Happy Hill. Rồi chúng tôi đi tới Olathe, tôi thả Perry xuống đó, ở cái khách sạn hắn trọ. Chắc lúc đó khoảng mười một giờ. Sau đó, tôi về nhà ăn tối với gia đình. Chủ nhật nào cũng vậy. Xem ti vi - trận đấu bóng rổ hoặc có khi là bóng bầu dục. Tôi khá là mệt.”

“Anh gặp lại Perry Smith lúc nào?”

“Thứ Hai. Hắn đến chỗ tôi làm việc. Tiệm sửa xe Bob Sands.”

“Và các anh nói đến chuyện gì? Mexico?”

“À, chúng tôi vẫn thích cái ý ấy, ngay cả khi không có tiền để làm những chuyện chúng tôi trù tính - làm ăn kiếm tiền ở đấy. Nhưng chúng tôi muốn đi, và hình như cũng là đáng để mạo hiểm đây.”

“Đáng để một lần nữa vào nằm khàn ở Lansing chứ?”

“Cái đó thì không nghĩ đến đâu. Chậc, chúng tôi chẳng bao giờ có ý lại để nhà nước nuôi báo cô nữa đâu mà.”

Đang ghi ghi chép chép vào sổ tay, Nye nói, “Sau ngày tiêu xả láng séc giả - hôm đó là ngày 21 - anh và bạn anh, Smith đều biến mất. Dick này, giờ hãy phác qua những sự đi sự đứng của các anh từ lúc đó cho tới lúc các anh bị bắt ở Las Vegas đây xem. Nói khái quát thôi.”

Hickock huýt sáo miệng rồi trợn mắt lơ láo. “Chu cha!” hắn nói và rồi, vận hết cái thứ khả năng giống như là khả năng ôn nhớ lại toàn bộ quá khứ, hắn bắt đầu bản tường trình cả chuyến đi dài - khoảng mười nghìn dặm mà hắn và Smith đã đi trong sáu tuần qua. Hắn nói liền một giờ hai mươi lăm phút - từ hai giờ năm mươi tới bốn giờ mười lăm phút - và kể ra, trong khi Nye có ghi lại, tên các xa lộ và khách sạn, motel ven đường, sông, thị trấn, thành phố, một dàn hợp xướng những cái tên quyện lấy nhau; Apache, El Paso, Corpus Christi, Santillo, San Luis Porosí, Acapulco, San Diego, Dallas, Omaha, Sweetwater hay Nước Ngọt, Stillwater hay Nước Tĩnh, Tenville Junction, Tallahassee, Needles, Miami, khách sạn Nuevo Waaldorf, khách sạn Somerset, khách sạn Simone, khách sạn Arrowheand, khách sạn Cherokee, và nhiều, nhiều tên khác nữa. Hắn cho cả tên người ở Mexico mà hắn đã bán chiếc Chevrolet cũ đời 1949 của hắn, thú thật là đã ăn cắp một chiếc mới hơn ở Iowa. Hắn tả lại những người hắn và Perry đã gặp: một bà già người Mexico, giàu và dâm; Orco, một “triệu phú” Đức; một cặp võ sĩ quyền anh người da đen “diện ngất” lái một chiếc Cadillac màu tím nhạt “diện ngất”; ông chủ mù của một trại nuôi rắn đuôi chuông ở Florida; một lão già ngắc ngoải với thằng cháu nội; và nhiều người khác nữa. Khi kể xong hắn khoanh tay lại ngồi với một nụ cười hài lòng, tựa hồ đang chờ nghe lời bình về cái hài hước, sự rõ ràng minh bạch và vẻ hồn nhiên con nít của câu chuyện đi đường của mình.

Nhưng Nye đang lia vội ngòi bút đuổi theo lời kể, và Church, uể oải, một bàn tay nắm lại gí vào lòng bàn tay mở, thì chẳng nói gì - rồi thình lình ông nói, “Tôi đoán là các anh biết tại sao chúng tôi lại ở đây chứ.”

Miệng Hickcock thẳng ngay lại - dáng ngồi cũng vậy.

“Tôi đoán các anh cũng đã hiểu là chúng tôi chẳng khi nào lại bỏ công đi từng ấy đường đất đến Nevada chỉ để tán chuyện với hai kẻ lừa đảo dăm ba tấm séc giả mà thôi.”

Nye đã gấp sổ tay lại. Ông cũng đang nhìn chằm chằm gã tù, quan sát thấy một mạch máu đang nổi lên ở trên thái dương bên trái hắn.

“Chúng tôi có làm cái việc như thế không, Dick?”

“Gì cơ?”

“Đi xa đến như thế để chỉ nói về có một dúm séc thôi.”

“Tôi chẳng nghĩ ra được lý do nào khác cả.”

Nye vẽ một con dao găm lên bìa sổ tay. Trong khi vẽ, ông nói, “Dick, nói tôi nghe nào. Anh có nghe nói đến vụ án mạng Clutter bao giờ chưa?” Việc này, sau đó ông viết trong báo cáo chính thức về cuộc hỏi cung, “Nghi phạm có một phản ứng mãnh liệt nhìn thấy rõ. Hắn trở nên xám ngoét. Mắt hắn giật lia lịa.”

Hickock nói, “Chà, giờ thì thôi nhé. Dừng lại đây đi. Tôi không phải kẻ giết người chó chết nào hết á.”

“Câu hỏi là,” Church nhắc hắn, “anh có nghe thấy các vụ giết người nhà Clutter không?”

“Chắc là tôi có đọc được một chuyện kiểu kiểu như thế,” Hickcock nói.

“Một vụ án mạng xấu xa. Xấu xa. Hèn nhát.”

“Và gần như là hoàn hảo,” Nye nói. “Nhưng các anh đã phạm hai sai lầm, Dick. Một là anh đã để lại một nhân chứng. Nhân chứng sống. Sẽ làm chứng trước tòa. Sẽ đứng ở bục nhân chứng mà nói với ông chánh án rằng Richard Hickock và Perry Smith đã trói, dán miệng và tàn sát bốn người không có thứ gì tự vệ trong tay.”

Mặt Hickock lấy lại màu đỏ bình thường. “Nhân chứng sống. Không thể có được!”

“Vì anh tưởng các anh đã thanh toán được hết tất cả mọi người rồi chứ gì?”

“Tôi nói thế bao giờ! Không ai có thể gán cho tôi vụ án mạng chó chết nào hết. Séc giả. Ăn cắp vặt tí ti thì có. Nhưng tôi không phải là quân giết người khốn nạn.”

“Thế tại sao,” Nye hỏi đánh độp, “tại sao anh phải nói dối chúng tôi?”

“Tôi nói sự thật mười mươi với các ông.”

“Thỉnh thoảng thôi. Không phải lúc nào cũng thật. Chẳng hạn về chiều thứ Bảy, ngày 17 tháng Mười một ấy. Anh bảo là đi xe đến Fort Scott.”

“Đúng.”

“Và tới đó rồi thì các anh đến bưu điện.”

“Đúng.”

“Để lấy địa chỉ của chị Perry Smith.”

“Phải.”

Nye đứng dậy. Ông đi vòng ra sau lưng Hickock, đặt tay lên lưng ghế hắn ngồi, cúi xuống tựa như thì thào vào tai người tù. “Perry Smith không có bà chị nào sống ở Fort Scott,” ông nói. “Hắn không có chị ở đó bao giờ. Và chiều thứ Bảy bưu điện Fort Scott đóng cửa.” Rồi ông nói, “Dick, nghĩ kỹ đi. Hôm nay thì thế thôi. Sẽ còn nói với anh nữa.”

Sau khi Dick đã được giải đi rồi, Nye và Church băng qua hành lang, nhìn vào lỗ quan sát một chiều lắp trên cánh cửa phòng hỏi cung, theo dõi cuộc thẩm vấn Perry Smith - một cảnh tượng nhìn chứ không nghe thấy được. Lần đầu tiên trông thấy Perry Smith, Nye ngạc nhiên về đôi chân hắn ta - chân hắn ngắn quá đến nỗi bàn chân bé như chân trẻ con, không thể chạm được tới sàn. Đầu Smith - mái tóc da đỏ cứng queo, nước da tối pha trộn màu Ailen với màu da đỏ cùng những nét tinh quái, ngỗ ngược - làm cho ông nhớ lại người chị xinh đẹp của nghi phạm, bà Johnson tử tế. Nhưng cái thằng trẻ con-đàn ông bất thành nhân dạng, lùn tì mập chắc này chẳng có gì đẹp; đầu lưỡi đỏ hồng nhọn hoắt của hắn thòi ra, lật phật như lưỡi con thằn lằn. Hắn đang hút thuốc, và từ những hơi khói thở ra đều đều của hắn, Nye có thể suy ra rằng hắn vẫn còn “trinh” - tức là vẫn chưa được thông báo về mục đích thật sự của cuộc thẩm vấn.

Nye đúng. Vì Dewey và Duntz, những tay nhà nghề kiên trì, đã dần dần bó hẹp chuyện đời gã tù vào những sự kiện của bảy tuần vừa qua, rồi rút lại chỉ còn tập trung vào cái cuối tuần chủ chốt - trưa thứ Bảy tới trưa Chủ nhật, ngày 14 tới ngày 15 tháng Mười một. Bây giờ, sau khi đã bỏ ba giờ đồng hồ ra dọn đường cho đòn đánh, họ không còn cách thời điểm tung đòn bao xa nữa.

Dewey nói, “Perry, chúng ta hãy xem lại vị trí của chúng ta. Anh được tha theo lời hứa, với điều kiện là anh không bao giờ được quay trở lại bang Kansas.”

“Cái bang của Hoa hướng dương ấy mà. Tôi ngấy tận cổ với nó rồi.”

“Đã cảm thấy như vậy sao anh còn quay về đó? Chắc anh có một lý do nào mạnh lắm.”

“Tôi đã nói với ông rồi. Để gặp chị tôi. Để lấy tiền chị ấy đang giữ cho tôi.”

“À, đúng. Bà chị mà anh và Hickock cố tìm ra ở Fort Scott, Perry, từ Fort Scott đến Kansas City bao xa?”

Smith lắc đầu. Hắn không biết.

“Được, anh phải mất bao nhiêu thì giờ để lái xe đến đó?”

Không trả lời.

“Một giờ? Hai? Ba? Bốn?”

Người tù nói mình không nhớ.

“Dĩ nhiên anh không thể nhớ được. Vì cả đời anh đã bao giờ đến Fort Scott đâu.”

Cho đến lúc đó, chưa có nhà thám tử nào cật vấn vào bất cứ chỗ nào trong lời khai của Smith. Hắn cựa quậy trên ghế; lè đầu lưỡi ra liếm môi.

“Sự thật là các anh chẳng ai nói với chúng tôi sự thật hết. Các anh không hề đặt chân đến Fort Scott. Các anh không hề gọi con điếm nào cũng chẳng đưa chúng đến một khách sạn nào.”

“Chúng tôi có. Đừng đùa.”

“Tên họ là gì?”

“Tôi không hỏi.”

“Anh và Hickock ngủ một đêm với các cô gái điếm ấy mà lại không hỏi tên ư?”

“Toàn tụi điếm ấy mà.”

“Nói tên cái khách sạn ra cho chúng tôi nào.”

“Hỏi Dick ấy. Hắn sẽ biết. Tôi không bao giờ nhớ những cái tào lao như vậy.”

Dewey bảo người đồng sự. “Clarence, tôi nghĩ đã đến lúc chúng ta chỉnh cho Perry thẳng ra rồi đấy nhỉ?”

Duntz nhoài ra đằng trước. Ông là một người nặng cân với sự lanh lẹ bất thần của võ sĩ quyền Anh hạng trung, nhưng mắt ông thì không lộ và lờ đờ lững khững. Ông nói ề à; mỗi từ nói ra đều ngập ngừng và mang giọng vùng nuôi bò ngựa, kéo dài cả một hồi. “Vâng, thưa ngài,” ông nói,

“Về khoản thì giờ.”

“Nghe rõ này, Perry. Vì ông Duntz sắp nói thật sự ra anh ở đâu cái đêm thứ Bảy ấy đấy. Các anh ở đâu và các anh đang làm gì.”

Duntz nói, “Các anh đang giết nhà Clutter.”

Smith nuốt khan. Hắn bắt đầu co gập đầu gối.

“Các anh ở ngoài Holcomb, bang Kansas. Ở nhà ông Herbert W. Clutter. Trước khi rời đi, các anh đã giết tất cả những người ở trong ngôi nhà đó.”

“Không bao giờ. Tôi không bao giờ.”

“Không bao giờ gì?”

“Biết người nào tên là Clutter.”

Dewey gọi hắn là đứa nói dối, thế rồi chơi lá bài mà khi hội ý trước đó cả bốn thám tử đã nhất trí là chơi úp kín, ông bảo hắn, “Chúng tôi có một nhân chứng sống, Perry. Một người mà các chú mày không nhìn thấy.”

Một phút hẳn hoi trôi qua, và cái im lặng của Smith làm Dewey sướng rơn, vì một người vô tội thì sẽ hỏi ai là nhân chứng đó, nhà Clutter là những người nào và tại sao họ lại nghĩ là hắn giết - dù gì thì hắn cũng nói ra một cái gì. Nhưng Smith ngồi im, khép chặt hai đầu gối lại.

“Sao nào, Perry?”

“Ông có aspirin không? Họ lấy mất aspirin của tôi rồi.”

“Khó chịu à?”

“Chân tôi khó chịu.”

Lúc đó là năm giờ rưỡi, cố ý để cho đột ngột, Dewey kết thúc cuộc hỏi cung. “Mai chúng ta bắt đầu từ chỗ này,” ông nói. “Nhân đây, anh có biết ngày mai là thế nào không? Sinh nhật của Nancy Clutter. Nếu chưa chết thì ngày mai cô ấy tròn mười bảy tuổi.”

“Nếu chưa chết thì ngày mai cô ấy tròn mười bảy tuổi.” Tỉnh dậy vào lúc rạng sáng, Perry tự hỏi (về sau hắn kể lại vậy) có đúng hôm nay là sinh nhật của cô gái không, và quả quyết là không phải, đây chỉ là một cách để họ moi ruột gan hắn ra, cũng như chuyện có một nhân chứng - một “nhân chứng sống” kia đấy. Không thể có được. Hay là họ muốn nói... Giá mà hắn nói chuyện được với Dick nhỉ! Nhưng hắn và Dick đang bị giam riêng; Dick bị nhốt trong một xà lim tầng khác, “Nghe cho kỹ, Perry, vì ông Duntz đây sắp nói ra chuyện anh đã thực sự ở đâu...” Giữa chừng cuộc hỏi đáp, sau khi để ý thấy nhiều lần người ta bóng gió nói tới một dịp cuối màn đặc biệt của tháng Mười một vừa qua thì hắn đã nơm nớp sợ cái mà hắn biết là sẽ đến, nhưng khi nó đến, khi gã cao bồi to lớn có cái giọng ngái ngủ nói, “Anh đang giết gia đình Clutter” thì, ôi, hắn gần như chết đứng. Hắn chắc phải sụt mất năm ký trong vòng hai tích tắc ấy. Nhờ trời hắn đã không để cho họ thấy. Hay hy vọng là thế. Còn Dick? Họ chắc cũng lại chơi trò đe dứ này với Dick. Dick khôn ranh láu cá, một thằng cha giỏi làm bộ, nhưng cái “gan góc” của nó cũng không thể tin cậy, nó quá dễ hốt hoảng. Cứ cho là thế đi nữa, Perry vẫn tin là Dick sẽ vững dù có bị họ o ép thế nào. Trừ phi nó muốn bị treo cổ. “Và trước khi rời nhà ấy đi anh đã giết tất cả những người ở đó.” Hắn sẽ không ngạc nhiên nếu như tất cả cựu Ấp viên ở Kansas đều đã được nghe câu chuyện này. Họ đã đã thẩm vấn đến hàng trăm người và chắc chắn là đã khép tội tới cả chục mống, hắn và Dick chỉ là hai đứa thêm vào số đó mà thôi. Mặt khác, ừ, liệu Kansas có phái bốn đặc vụ đi hàng nghìn dặm chỉ để nhốt lấy một cặp tù nhép vi phạm lời hứa không cơ chứ? Có lẽ như thế nào đó họ đã tình cờ vớ phải một cái gì đó hay ai đó - một “nhân chứng sống”. Nhưng chuyện ấy là không thể có được. Trừ phi… hắn sẵn sàng cho đi cả một cánh tay hay một cẳng chân để được nói chuyện với Dick năm phút.

Và lúc đó Dick thức giấc trong xà lim tầng dưới, cũng (về sau hắn nhớ lại) đầy khao khát được trò chuyện với Perry - tìm hiểu xem thằng ma cô kia đã nói gì với họ. Lạy Chúa, ta đâu thể tin tưởng rằng nó sẽ nhớ nổi dù chỉ một chút lờ mờ về cái bằng cớ ngoại phạm là chúng có mặt tại Bến Nhộn lúc xảy ra án - tuy chúng đã bàn với nhau khá nhiều lần. Và khi bọn chó chết kia lại dọa hắn về một nhân chứng nữa! Cá mười ăn một là thằng quỷ lỏi sẽ nghĩ họ có ý nói tới một người chứng kiến tận mắt đây. Trái lại hắn, Dick, thì lập tức biết ngay cái gọi là nhân chứng ấy chắc chỉ là Floyd Wells thôi, thằng bạn cũ và chung xà lim với hắn trước đây. Thời gian mấy tuần cuối hạn tù, Dick đã định đâm chết Floyd - đâm nó chết, đâm thẳng vào tim bằng một cây “dao lá liễu” tự chế - thế mà hắn lại không giết, ngu thế không biết. Ngoài Perry ra, Floyd Wells là người duy nhất có thể gắn liền tên của Hickock với Clutter. Cái thằng Floyd vai xuôi cằm lẹm ấy - Dick đã tưởng là nó sợ quá kia chứ. Thằng chó ấy chắc là trông đợi một món thưởng khớ đây - được tha theo lời hứa hoặc được tiền, hoặc cả hai. Nhưng trước khi nó được thì trời đã sụp rồi. Vì lời mách lẻo của một thằng tù đâu thể là tang chứng được. Tang chứng phải là dấu chân, dấu tay, nhân chứng, lời tự thú. Mẹ kiếp, nếu cái lũ cao bồi kia cứ phải tiếp tục vin vào chuyện Floyd Wells kể thì chẳng có gì phải lo lắng nhiều. Xét đến cùng, Floyd nguy hiểm không bằng một nửa Perry. Nếu Perry chùng gân mà nhè mọi chuyện ra thì hắn sẽ cho cả hai thằng vào Cái Xó. Và đột nhiên hắn nhìn thấy sự thật: chính Perry mới là người mà đáng lẽ hắn phải làm cho im miệng. Trên một đoạn đường núi ở Mexico. Hoặc trong lúc đi bộ qua sa mạc Mojave. Tại sao đến bây giờ cái ý đó mới đến với hắn chứ? Vì bây giờ, bây giờ thì đã quá muộn rồi.

Cuối cùng, vào lúc ba giờ năm phút chiều hôm đó, Smith thú nhận chuyện đi Fort Scott là giả. “Đó chỉ là một cái cớ Dick nói với gia đình hắn. Để cho hắn có thể đi vắng cả đêm ở ngoài. Nhậu tí chút. Chẳng là bố Dick theo dõi con sát sao lắm - sợ hắn vi phạm lời hứa. Cho nên chúng tôi tìm cái cớ bà chị. Chỉ là để cho ông Hickock yên tâm.” Ngoài ra, hắn nhắc đi nhắc lại hoài câu chuyện đó, bất chấp bao nhiêu lần uốn nắn và cáo buộc hắn nói dối, Duntz cùng Dewey vẫn không thể làm cho hắn thay đổi được - có chăng chỉ khiến hắn thêm vào vài chi tiết mới mẻ. Tên của hai gái điếm, hôm nay hắn nhớ ra là Milfred và Jane (hay Joan). “Chúng lừa chúng tôi,” bây giờ hắn nhớ lại. “Chuồn đi đem theo tất tật món tiền còm của chúng tôi trong khi chúng tôi đang ngủ.” Cho dù Duntz đã làm mất cái vẻ bình tĩnh của hắn đi - đã lột bỏ, cùng với áo ngoài và cà vạt, cái dáng đường hoàng uể oải bí ẩn của hắn - Smith vẫn còn cái vẻ hài lòng và thanh thản; hắn không chịu suy suyển. Hắn chưa bao giờ nghe nói đến nhà Clutter hay Holcomb, thậm chí đến Garden City nữa.

Bên kia gian sảnh, trong gian phòng sặc khói thuốc lá, nơi Hickock đang qua lần hỏi cung thứ hai, Church và Nye áp dụng một chiến lược vòng vo vu hồi. Trong cuộc thẩm vấn mà đến lúc này gần như đã kéo dài những ba tiếng đồng hồ, không ai trong hai người nhắc đến vụ án mạng dù chỉ một lần - sự bỏ lơ này làm cho gã tù luôn luôn hồi hộp và cáu kỉnh. Họ nói đến đủ thứ khác: triết học tôn giáo của Hickock (“Tôi biết địa ngục. Tôi đã từng ở đó. Có lẽ cũng có thiên đường thật. Nhiều người giàu có nghĩ như vậy.”); tiền sử tính dục của hắn (“Tôi lúc nào cũng ứng xử như người bình thường trăm phần trăm”); và một lần nữa, câu chuyện về cuộc lẩn trốn việt dã mới đây của hắn (“Tại sao chúng tôi cứ đi mãi như thế, lý do duy nhất là chúng tôi tìm việc làm. Tuy chẳng tìm được việc gì tử tế. Tôi đã đào mương một ngày trời…”) Nhưng những điều không nói ra mới là trung tâm của sự chú ý - cái nguyên nhân của việc Dick ngày càng thất vọng, các nhà thám tử đang chắc chắn như vậy. Lúc này hắn đang nhắm mắt, day mí bằng những ngón tay run rẩy. Và Church nói, “Có trục trặc gì không?”

“Nhức đầu. Tôi hay bị những cái chó chết này.”

Nye liền nói, “Dick, nhìn tôi đây.” Hickock nghe lời, với một cái vẻ mà nhà thám tử hiểu ra như là cầu xin hãy nói, hãy kết tội và để cho hắn trốn thoát vào trong chánh cung của sự phủ nhận trước sau như một không thay đổi. “Hôm qua khi chúng ta bàn đến chuyện này, anh có thể nhớ lại lời tôi nói rằng các vụ giết người ở nhà Clutter là một vụ án gần như hoàn hảo. Bọn giết người chỉ phạm có hai sai lầm. Thứ nhất, chúng đã để lại nhân chứng. Thứ hai, ừm, tôi sẽ cho anh xem.” Đứng dậy, ông lấy từ trong góc phòng ra một cái hộp và một cái cặp, cả hai vật này ông đã mang vào phòng hỏi cung từ đầu. Ông lấy trong cặp ra một tấm ảnh lớn. “Cái này,” ông nói, để tấm ảnh lên bàn, “là bản phóng nguyên khổ một vài vết chân tìm thấy gần xác ông Clutter. Còn đây,” ông mở cái hộp ra, “là những đôi ủng đã để lại những dấu đó. Đôi ủng của anh, Dick.” Hickock nhìn rồi quay đi. Hắn ngồi hai khuỷu tay tì lên đầu gối, mặt vùi vào hai bàn tay. “Smith,” Nye nói, “lại còn ít thận trọng hơn. Chúng tôi cũng có đôi ủng của hắn, chúng hoàn toàn khớp với một bộ dấu chân khác. Những dấu chân có dính máu.” Church đánh áp sát. “Đây là cái điều sắp xảy đến với anh, Hickock,” ông nói. “Anh sẽ bị đưa lại về Kansas. Anh sẽ bị kết án bốn vụ giết người ở cấp một. Vụ thứ nhất: vào ngày hoặc vào khoảng ngày 15 tháng Mười một năm 1959, một người tên Richard Eugene Hickock, một cách phi pháp, cố ý và cố tình, có tính toán trước, và trong khi dính vào việc gây ra tội ác, đã giết và lấy đi sinh mạng của Herbert W. Clutter. Vụ thứ hai: vào ngày hoặc vào khoảng ngày 15 tháng Mười một năm 1959, cũng Richard Eugene Hickock, một cách phi pháp...”

Hickock nói, “Perry Smith giết nhà Clutter.” Hắn ngẩng đầu, từ từ ngồi thẳng trên ghế, như một người vật nhau đang loạng choạng đứng dậy. “Perry đấy. Tôi không ngăn hắn lại được. Hắn đã giết tất cả.”