Mặt trời lúc nửa đêm

Chương 11

Call đi lang thang quanh nhà, cố không nghĩ đến Charity nằm trong giường ở nhà bên cạnh. Anh ta tự buộc mình phải ra về sau bình minh, mặc dù anh ngủ với cô chưa đủ. Anh cần không gian thoáng đãng, cần đi xa. Hai ngày nữa, anh sẽ ghé thăm cô, khi ấy chắc cô sẽ thấy rằng anh đã nói thật, sẽ thấy rằng anh chỉ muốn mối quan hệ giữa họ chỉ là liên hệ về xác thịt. Nếu cô vẫn còn muốn nữa, thì họ sẽ tiếp tục công việc bỏ dở vào sáng nay.

Nghĩ đến chuyện ấy, anh lại ham thích. Mẹ kiếp, anh làm quái gì thế này? Khi còn nhỏ, anh đâu có dâm đãng như thế này. Khi vào học đại học, anh nổi tiếng là người có máu trăng hoa, nhưng chỉ hai năm sau, anh chú trọng đến chất hơn đến lượng.

Chính lúc ấy anh gặp Susan. Cô ta cao, tóc đen, dịu dàng nhất lớp. Anh có con mắt đánh giá được ai là thuộc con giòng cháu giống. Susan thuộc con nhà nòi ở Wentworth, nghĩa là thuộc giới thượng lưu San Francisco, giới giàu có lâu đời. Cô ta lại thông minh, đảm đang, là người vợ hoàn hảo cho người có chương trình nghề nghiệp đầy tham vọng.

Rồi Amy chào đời sau hai năm họ cưới nhau, và anh đã ổn định nghề nghiệp. Lạy Chúa, anh yêu đứa bé, đứa bé là công chúa bé nhỏ quý giá. Và cô bé lên 3 đã yêu bố biết bao.

Ngực Call co thắt vì đau đớn. Giá mà anh thấy được sự tham vọng vô bờ của mình, đã dẫn anh đến bờ vực thẳm như thế nào. Nếu anh thấy được, thì chắc đứa bé vẫn còn sống, cũng như người vợ thân yêu của anh cũng còn, nhưng khi ấy anh còn trẻ quá, anh không sáng suốt. Chỉ sau khi tai nạn xảy ra rồi anh mới thức tỉnh. Sau khi anh đến đây rồi, anh mới thấy sai lầm của mình. Nhưng khi thấy thì đã quá trễ.

Nỗi đau đớn nơi ngực lan khắp người. Call đi qua nhà bếp đến cửa phòng làm việc, cố xua đuổi hết ký ức ra khỏi tâm trí anh. Ngồi vào bàn làm việc, anh mở máy tính ra.

Thư điện tử hiện ra trên màn hình. Có hai tin nhắn, tin đầu là của Peter Held.

- Ông là người tuyệt vời. Tôi không ngờ ông thiết lập phòng thí nghệim tài tình như thế này. Chúng ta sắp giải quyết xong vấn đề rồi đấy, ông Call à. Tôi có linh cảm như thế.

Call đánh thư trả lời, mới bắt đầu đánh thì bỗng anh nghe có tiếng gõ cửa nhè nhẹ. Anh quay lui, thấy nắm cửa quay, rồi Charity Sinclair bước vào.

Cô tươi cười rạng rỡ.

- Em gõ cửa trước mà không ai trả lời. Em đoán chắc anh ở đây, nên em đi vào. Em thấy cửa không khoá.

- Thường thường cửa ngõ chẳng cần khoá, - anh đáp, giọng cau có, bực mình vì cô đã vào lãnh địa của anh khi không được mời. Điều bực mình hơn nữa là cô có vẻ phấn khởi, hân hoan.

- Sáng nay khi ra về, anh đã quên cái ví. – Cô đưa ví cho anh vừa khi anh đứng dậy. – Dĩ nhiên em có thể để đấy, nhưng em nghĩ chắc anh cần chiếc ví.

- Cám ơn - Anh đáp, giọng cộc cằn, tức tối trong lòng, vì anh nghĩ cô muốn đến gặp anh.

Charity nhìn quanh phòng làm việc.

- Vậy hôm nay chúng ta sẽ làm gì? Ngoài trời thật đẹp. Em nghĩ là chúng ta có thể đi một vòng về phố. Xem chiếu phim buổi chiều hay xem gì đấy, em cần mua một ít đồ dùng, chúng ta có thể nhất cử lưỡng tiện.

Anh chỉ đứng nhìn. Anh đã nghĩ, anh bỏ ra về là như muốn nói cho cô biết rằng: Tình dục tuyệt đấy, nhưng chúng ta đừng dùng tình dục để ràng buộc nhau.

- Nếu anh không thích thế - Cô nói tiếp - Thì chở em bay một vòng được không? Anh nói anh có chiếc thuỷ phi cơ đấy. Em thích ngồi trên máy bay nhìn xuống phong cảnh ở dưới.

Hàm xai anh căng ra.

- Cô muốn tôi chở máy bay đi chơi?

Cô nhìn anh, tảng lờ không để ý bộ mặt cau có của anh, mà cứ xem như anh đang cười. Cô cười, nụ cười hơi thiếu tự tin.

- Em chỉ đề nghị thôi. Đi xem chiếu phim cũng được, em biết ở Dawson có rạp xi nê, nhưng em không biết họ chiếu phim gì. Em nghĩ, ở đây anh không nên kén cá chọn canh làm gì.

- Nếu tôi chỉ cần cô vào giường thôi, thì sao?

Cô nhìn anh, ánh mắt say sưa.

- Em nghĩ trước sau gì chúng ta cũng làm chuyện ấy, nhưng…

- Thôi được rồi - anh đáp, nhưng vừa nói ra là anh cảm thấy ân hận liền. – Tôi sẽ lái máy bay chở cô đi chơi.

Cô cười toe toét, vui vẻ, mắt sáng long lanh, xanh biếc như nước hồ sau khi tuyết tan.

- Tuyệt quá! Anh chở em đi đâu?

- Em muốn đi đâu?

Cặp lông nheo cô cụp xuống, dài, rậm, đường tô màu đen nổi rõ lên, lối trang điểm của gái phồn hoa đô hội mà cô không chịu bỏ.

Anh cảm thấy muốn cười, nhưng không chịu để cho nó xuất hiện ra trên mặt.

- Em muốn đi chỗ nào cũng được phải không?

- Nếu hợp lý.

Cô ngước mắt nhìn anh, vẻ hy vọng.

- Em rất muốn đi đến Skagway. Em nghĩ đường chắc xa thật đấy, nhưng…

- Skagway à? Tại sao em muốn đến đấy?

- Alaska là nơi khởi đầu phong trào đi tìm vàng, khi mới đến Yukon, em đã định lái xe từ Whitehorse đến đấy, nhưng em quá nôn nóng nên xem khu mỏ vàng Lily Rose trước.

Anh quay mặt, không muốn nhìn vào ánh mắt cô nhìn anh như thế, vì nhìn đến cô là anh cảm thấy người rạo rực.

- Từ đây bay đến đấy mất 3 giờ, nhưng cảnh đẹp không thể tưởng tượng được. Chúng ta phải kiểm tra xem thời tiết ra sao đã. – Anh ngồi xuống trước máy vi tính, gõ vào bàn phím, đợi tin tức dự báo thời tiết hiện lên màn hình - Thời tiết tốt trong hai ngày sắp đến.

Anh quay lui, thấy cô đang nhìn chăm chú qua vai anh.

- Đi lấy cái túi ngủ đêm - Anh lầu bầu nói, vừa nghĩ mình là đồ điên, lại vừa thích thực hiện chuyến bay, vì lâu rồi anh không lái máy bay đi chơi – Chúng ta sẽ ngủ lại đêm ở đấy rồi xế chiều ngày mai ta về.

- Có thật anh chở em đi chơi trên máy bay không?

- Không phải anh đã nói rồi hay sao?

- Tuyệt vời quá! Em chuẩn bị nhanh thôi. Em sẽ quay lại trong vòng 20 phút nữa. – Cô chạy nhanh ra cửa, để anh ngồi yên nơi máy tính, cố nghĩ đến chuyện vừa xảy ra.

Anh nghĩ trong óc: Vậy mày sẽ đưa cô ta đi Skagway. Để làm gì thế? Mày sẽ lái máy bay, sẽ ăn tối tại một nhà hàng rất sang, rồi làm tình tới tấp, xong về nhà. Anh ngồi thư giãn một lát. Thế là hẹn bồ đi chơi rồi, anh đã có ý định bắt đầu hội nhập vào cuộc sống trở lại, anh đã bắt đầu rồi. Chuyến đi chơi này chỉ là cách tiếp tục hội nhập vào cuộc sống thôi.

Call trả lời thư điện tử của Peter, rồi trả lời tin nhắn của Bruce Wilcox, phó chủ tịch của anh ở Công ty Datatrong, công ty tìm thị trường qua mạng Internet của anh. Công ty đang có nguy cơ bị đưa ra toà vì tội “xâm phạm chuyện riêng tư” của người ta. Call đã lo sợ chuyện như thế này có thể xảy ra, mặc dù công ty của anh hoạt động đúng luật. Anh trả lời thêm hai tin nhắn ngắn gọn nữa rồi tắt máy, đứng dậy đi thu xếp đồ đạc để đi chơi.

Khi mặc cái áo len casomia lên người, cái áo từ 4 năm nay anh không mặc, anh tảng lờ như không nghe tiếng lòng cảnh báo, rằng thế nào anh cũng chuốc lấy điều đáng tiếc.

*

Charity thấy chiếc máy bay của Call lắc lư trên mặt nước trong một bến tàu nhỏ của tư nhân trên sông Klondike. Đây là loại máy bay một động cơ, thân máy bay và cặp phao sơn màu đỏ của xe chữa lửa và những đường sọc màu vàng cam chạy dọc theo hai bên.

- Đây là chiếc Dehavilland Beaver, - Call giải thích. - Loại máy bay này rất tiện lợi cho việc di chuyển trong vùng.

Sau khi đã kiểm tra máy bay, anh giúp cô leo lên rồi bước theo cô vào trong khoang. Ngồi vào chỗ, buộc dây thắt lưng, Call xem lại danh sách kiểm tra xong, anh cho máy nổ. Máy nổ ầm ầm, phụt ra phía sau, khói có mùi khét.

Cô nghe tiếng nước chảy ào ào qua cặp phao khi máy bay chạy ra giữa sông, rồi tiếng máy nổ to hơn nữa và thêm tiếng cánh quạt quay tạo ra âm thanh khác. Máy bay chạy nhanh trên mặt nước càng lúc càng nhanh, rồi nó vọt lên khỏi mặt nước và bay vào không trung.

Tim của Charity bay lên theo máy bay, như thể nó có cánh. Từ trên không trung nhìn xuống, cảnh vật đẹp thật mê hồn. Không như các máy bay to lớn, bay nhanh, chiếc Beaver bay thấp đủ cho người đi trên máy bay thưởng thức cảnh đẹp ở phía dưới. Đất lùi xa dần, con sông màu nước xanh đục từ Klondike đổ vào Yukon xuất hiện, dưới mắt cô dòng sông ở đây mở rộng và nước có nhều bùn, hai bên bờ rừng rậm xanh ngắt chạy dài bất tận, thông mọc trải dài từ những ngọn đồi thấp thoai thoải, rồi mọc lên dọc theo các sườn núi đá sừng sững oai nghiêm, đỉnh núi xa xa phủ đầy tuyết.

Dawson City biến mất phía sau họ, nhà cửa, cây cối, đường sá đều mờ nhạt, rồi sau đó chỉ còn một chấm lờ mờ trên toàn cảnh.

- Ngày mai khi trở về, chúng ta sẽ ghé phố mua những thứ em cần - Call nói, anh ngồi sau các dụng cụ điều khiển máy bay, với vẻ uy nghiêm của người phi công, và anh cảm thấy có vẻ thoải mái như đang ngồi ở nhà – Còn bây giờ, em cứ ngắm cảnh thoải mái.

Đúng như điều Charity định làm. Khi họ lên máy bay rồi, Call đánh tín hiệu qua máy rada, báo cho các trạm không lưu biết lộ trình đường bay của anh để bảo đảm an toàn, rồi bay theo hướng Nam về thị trấn Skagway, một hải cảng trên eo biển trong nội địa của bán đảo Alaska, nằm ở phía Nam WhiteHorse, cách một trăm mười dặm đường, nơi họ sẽ dừng để lấy thêm nhiên liệu.

Call liếc mắt nhìn qua chỗ cô ngồi bên cạnh anh.

- Bây giờ em nói lại cho anh nghe lần nữa, tại sao em quyết định đi Skagway.

Cô cười vì câu hỏi quá dễ trả lời.

- Vì đây là cửa ngõ đi vào Klondike, nơi bắt đầu nhiều chuyện. Vào thập niên 1890, Skagway là một thành phố phát triển. Em đọc trong sách báo thấy ở đây còn rất nhiều nhà cổ. Thành phố bây giờ được xem như là một viện bảo tàng sống.

- Skagway là thành phố rất hấp dẫn. Người nào lớn lên ở đây cũng rất rành về những chuyện đi tìm vàng, và nhiều chuyện có nguồn gốc ở đây. Ở Dawson, những người lớn tuổi đã từng đi tìm vàng ai cũng có chuyện vui để kể lại. Mose Flanagan có rất nhiều chuyện này. – Anh nhếch mép như muốn cười – Em biết gì về Skagway?

Charity nghĩ đến những chuyện cô đã đọc, có hàng trăm ngàn người đi tìm vàng đã đên đấy, họ chuẩn bị để thực hiện chuyến hành trình gian khổ vượt qua núi non để đến Dowson City, vì nuôi mộng tìm ra vàng ở Klondike. Cô biết rất nhiều chuyện đau lòng của dân đi tìm vàng, những chuyện nghe đến, ai cũng phải chảy nước mắt, nhưng dĩ nhiên cô không muốn kể những chuyện này. Không phải mọi người đều thích nghe chưyện đi tìm vàng như cô.

- Em biết gia đình đầu tiên đến đấy là gia đình Stampeder, họ đến bằng tàu chạy hơi nước vào tháng 7 năm 1897. Lúc bấy giờ ở đấy chưa phải là thành phố, chỉ mới có hai ngôi nhà bằng gỗ cây cũ kỹ. Ba tháng sau, 20 ngàn người sống ở Skagway, đường sá, lều bạt căng đầy, khách sạn, nhà cửa, quán ăn, quán rượu mọc lên.

- Khá đấy. Rồi sao nữa.

- Mới đầu, 5000 người đi tìm vàng dùng con đường Bạch Đèo để đến Whitehorse rồi đi tiếp đến Dawson và đến các khu mỏ vàng, nhưng đến cuối tháng Chín thì con đường này không đi được nữa. Đường đi tắc nghẽn vì xác chết của sáu ngàn con ngựa và la.

Call nhìn cô:

- Anh đã đi qua con đường ấy rồi. Đường rất hiểm trở. Chỉ rất ít thú vật mới có thể qua được đường đèo ấy.

- Vậy anh đã đến Skagway rồi à?

Anh gật đầu.

- Hai lần. Bố anh đã dẫn gia đình đến đấy khi bọn anh còn nhỏ. Ông cũng rất say mê chuyện đi tìm vàng như em vậy.

- Bây giờ gia đình anh ở đâu?

Anh im lặng một lát. Anh không thích nói về chuyện riêng tư của mình. Cô nghĩ, có lẽ chuyện đời của anh quá gian truân. Hay có lẽ quá khứ của anh quá đau buồn. Nhưng rồi anh cũng trả lời.

- Bố anh mất vì bệnh tim khi anh còn học đại học. Mẹ anh hiện sống ở Prince Georges. Bà lấy chồng khác. Bà có vẻ sung sướng với chồng mới, nhưng anh không thích ông ta. Còn người em trai của anh, Zach, làm luật sư ở L.A.

- Luật sư à? Mấy ông luật sư thôi thì có lắm chuyện tức cười.

Anh nhướng mày có vẻ thích thú, nhưng anh không yêu cầu cô kể cho anh nghe.

- Mẹ em chết khi em 10 tuổi - Charity nói tiếp, cô hy vọng thúc anh kể thêm về cuộc đời anh. - Bố em lấy vợ khác. Bố con không gần gũi nhau như trước, nhưng vẫn giữ tình thân hữu với nhau rất tốt.

Khi không thấy anh nói thêm gì về đời mình nữa, cô bèn bỏ qua chuyện gia đình. Họ nói về Lily Rose, cô nói với anh rằng việc khai thác vàng tài tử của cô tiến triển khả quan, nhưng cô nghĩ công việc này khó giàu có lắm.

- Cứ vào chiều thứ Sáu là chúng tôi chùi rửa thùng chứa, chúng tôi thường tìm đủ vàng để chi trả các thứ và mua thêm nhu yếu phẩm cho tuần sau.

- Cái nghề đi tìm vàng là thế thôi - Call nói – Người nào cũng tin là chảo vàng kế tiếp sẽ có vàng cho họ giàu có.

- Em không đến đây để làm giàu.

Anh quay mắt nhìn cô. Tiếng máy kêu ù ù, không khí trong buồng lái hơi ngột ngạt vì khí thải.

- Charity, tại sao em đến đây?

Đã đến câu hỏi hóc búa rồi đây. Cô im lặng một lát, nhìn phong cảnh ngoài cửa sổ máy bay.

- Như em đã nói, em đến đây chủ yếu là đi phiêu lưu – Cô nói về bố cô và về những chuyện ông thường đọc cho các chị em cô nghe khi họ còn nhỏ.

- Mấy chị em em đã nguyện rồi. Chúng tôi nguyện rằng mỗi người đều phải thực hiện một chuyến phiêu lưu mạo hiểm trước khi lập gia đình hay là ổn định nghề nghiệp. Patience thường rất thích cảnh Miền Tây Hoa Kỳ. Cô ấy đang làm luận án tiến sĩ ở Đại học Boston. Cô ấy đi theo đoàn trình diễn cỡi ngựa, quăng thòng lọng bắt bò vào mùa hè sắp đến và viết luận án về phụ nữ Miền Tây.

- Đề tài nghe hay đấy.

Cô cười.

- Chị Hope của em viết phóng sự bán cho các tạp chí. Chị ấy hi vọng không chóng thì chầy bài của chị cũng sẽ nổi tiếng.

- Như vậy em đến đây chỉ để phiêu lưu thôi, - anh nói.

- Đến Yukon là điều em hằng mong muốn thực hiện cho được, nhưng…

- Nhưng sao?

- Nhưng trong trường hợp của em, còn có nhiều lý do nữa khiến em phải đến đây. Nói ra nghe có vẻ hơi kỳ quặc, nhưng em phải đến đây, phải nhìn tận mắt, phải hoà đồng vào khung cảnh ở đây. Em nhớ là từ lâu em đã bị nơi này lôi cuốn. Mặc dù sống ở nơi đô hội, nhưng em vẫn luôn luôn thấy được nơi này một cách rõ ràng như thể trước đây em đã ở tại nơi này rồi. Cảnh núi rừng ở đây quen thuộc với em, không xa lạ gì với em hết, như thể em đã biết chúng từ lâu rồi.

- Vì em đọc trong sách báo nhiều quá phải không?

Cô nhìn ra ngoài cửa sổ, nhưng không thấy bầu trời, không thấy rừng thông bạt ngàn trải dài dưới máy bay.

- Đôi lúc em cảm thấy em nhớ nhung nơi này. Em không nghĩ là vì em đọc sách mà thế.

Call cau mày.

- Em nói sao? Có phải em muốn nói tiền thân của em đã sống ở Yukon?

Cô nghe giọng anh có vẻ hoài nghi, nhưng cô không trách anh.

- Không, không quá xa xôi như thế đâu. Em rất thực tế, không tin vào những chuyện xa vời như thế. – Cô nhìn những mặt đồng hồ sắp hàng trên cái khung rộng, đen ở trước mặt: đồng hồ đo độ cao, phong vũ biểu, tốc độ gió, một tá đồng hồ nhỏ kim nhúc nhích, chỉ chỏ, quay qua quay về - Thực ra thì em không biết rõ nguyên nhân nào đã lôi em đến đây. Em chỉ cảm thấy thích nơi này, xem nơi này thân thuộc với em. Đấy, lý do khiến em đến đây là thế đây.

Call nhìn cô thêm một lát nữa, rồi hai tay anh nhẹ lơi ra trên cần lái. Rõ ràng anh nghĩ cô không phải người mất trí. Họ nói chuyện về em trai của anh, nhỏ hơn Call một tuổi và quyết sống độc thân. Họ nói về chuyện kinh doanh và về các kế hoạch anh đang thực hiện.

- Công việc làm ăn của anh đang gặp phải vài chuyện rắc rối. Công ty Datatron có nguy cơ sẽ bị kiện ra toà. Công việc của công rõ ràng là hợp pháp, nhưng nhiều người đang tức giận.

- Chắc anh nói đến công tu moi tin tức thị trường trên mạng Internet chứ gì?

Anh gật đầu.

- Đúng, công ty ấy đấy. Về mặt tài chính, công ty thu được nhiều tiền, nhưng thỉnh thoảng có nhiều người bực mình khi bị người khác chõ mũi vào công việc làm ăn của họ.

- Anh nói công việc của công ty hợp pháp?

- Hợp pháp không có nghĩ là chúng ta thích nó. Có hai công ty doạ sẽ kiện ra toà, họ mới doạ thôi. Chúng tôi đang đợi xem họ có làm không?

Cô ngẩng đầu nhìn anh.

- Em có cảm giác là anh rất muốn dập tắt chuyện này.

Anh nhún vai.

- Anh thường thích đương đầu với các đối thủ trong kinh doanh. Anh nghĩ chuyện này vẫn xảy ra mãi trên thương trường.

Máy bay bay với vận tốc đều đều là 130 dặm một giờ, Charity ngồi dựa lưng ra ghế, nói chuyện vui vẻ, vừa ngắm cảnh ở dưới. Call cho máy bay hạ thấp hai lần để chỉ cho cô thấy vật đáng nói xuất hiện trên đường. Anh chỉ cho cô thấy con nai đực lớn ở gần bên bờ suối có cây cối phủ um tùm, bộ gạc trên đầu nó mới nhú thêm nhung, cho thấy nó lớn thêm một tuổi.

Sau đó cô lại ngồi dựa ngửa người ra ghế, sung sướng khi thấy vẻ mặt Call có vẻ hân hoan khi anh điều khiển các bộ phận lái.

- Anh thích lái máy bay phải không?

Anh liếc mắt nhìn cô rồi đáp:

- Những năm anh quá bận việc không lái máy bay riêng của mình được, thì công ty thường chở anh đi. Công ty American Dynamics có chiếc phản lựng với phi hành đoàn gồm hai phi công túc trực thường xuyên. Lúc nào đi đâu là họ chở anh đi. Lúc ấy anh có chiếc Baron hai động cơ, nhưng ít khi anh lái nên anh bán đi. Khi anh đến Dawson được hai năm, anh mua chiếc Beaver tân trang lại hoàn hảo. Ừ phải, anh rất thích lái máy bay.

Họ hạ xuống Whitehorse nghỉ ngơi và lấy thêm nhiên liệu rồi bay vượt qua rặng núi cao cuối cùng và hạ xuống Skagway, thành phố này nằm trên cửa sông Skagway River, nơi sông đổ ra biển. Thành phố nằm trên một chỗ bằng phẳng trên biển được bao quanh toàn núi đá lởm chởm, núi ở đây còn cao và hiểm trở hơn núi bao quanh Dawson nhiều.

Charity nhìn những ngọn núi cao lởm chởm rợn người, cô nghĩ đây là rào cản đáng sợ cho dân muốn đến Klondike để tìm vàng, thành công hay thất bại đều xuất phát ở đây.

Khi Call cho máy bay bay quanh và từ từ hạ xuống theo đường trôn ốc trên vịnh, cô nói:

- Anh biết không… có hàng trăm ngàn người đi từ đây để đến Dawson. Nhưng chỉ quãng 1/3 là đến được.

Call đẩy cần ga lui để giảm tốc độ, rồi cho máy bay hạ xuống nước, hai chân phao khổng lồ va vào mặt nước làm cho nước văng tung toé. Anh cho máy bay chạy đến bến dành cho thuỷ phi cơ, khoá máy bay lại. Sau khi dừng lại ở trạm hải quan một lát, họ đi đến chiếc Chevy màu trắng, Call đã dùng điện thoại di động gọi đến hãng Avis để thuê xe này.

Tấm bảng gần đấy quảng cáo hãng Taxi của giới tìm vàng cho thuê xe cũ rẻ tiền, nhưng Call không phải loại thuê xe cà tàng rẻ tiền.

- Anh không thích thuê xe cà tàng - Anh nói – Anh muốn thuê xe tốt để chúng ta có thể muốn đi đâu cũng được, không sợ xe hỏng.

Không những anh có xe thật tốt rồi, mà cái gì của anh đang có cũgn đều thuộc loại hoàn hảo. Nhà cửa sạch sẽ tươm tất, máy bay thì thuộc loại hảo hạng.

Jeremy cũng thế, đồ đạc của anh ta cũng đều loại tốt, nhưng anh ta xài một cách hết sức cầu kỳ, áo sơ mi sắp xếp trong tủ phải cách nhau một inch, giày đều là loại đắt tiền, đôi nào cũng được cho vào bao nỉ nhỏ để lên từng ô trên kệ gắn vào tường. Lạy Chúa, anh chàng còn gửi áo sơ mi dùng mặc đi dự tiệc từ Manhattan đến New Jersey để giặt ủi, vì anh ta thích tiệm giặt ủi đặc biệt ở đấy. Charity cười thầm, cô cố hình dung ra cảnh Jeremy ba ngày không cạo râu.

Dựa người ra ghế ngồi trên chiếc Chevy, cô thư giãn trong khi Call lái xe về trung tâm thành phố. Mặc dù hôm ấy trời khô ráo, trong sáng, nhưng ở Skagway hôm trước có mưa, nên đường sá vẫn còn bùn. Xe chạy từ từ trên đường một lát rồi vào phố, đậu lại trên một con đường nhỏ.

- Ta đi bát phố một vòng, rồi sau đó tìm chỗ nghỉ đêm – Anh nói, mắt nhìn vào mắt cô, cô hiểu rất rõ ý nghĩa trong ánh mắt của anh: “nhưng cô không có thì giờ để ngủ nhiều đâu”.

Charity làm ngơ trước ánh mắt nóng hổi của anh và không để ý đến tâm trạng bồi hồi xao xuyến của mình khi thấy anh mắt đa tình ấy. Cô đến đây để xem Skagway, cô không muốn mất nhiều thì giờ về chuyện đó ở đây. Đây là dịp may hiếm có để cô xem nơi này.

Họ đi chơi một buổi chiều, vào xem các cửa hàng buôn bán. Mặc dù lượng du khách đến thành phố càng lúc càng tăng, nhưng thành phố vẫn giữ nguyên bộ mặt của cuối thập niên 1890. Những vỉa hè dài vẫn còn lát ván, những ngôi nhà sườn gỗ giống như ở Dawson chạy dọc theo con phố chính, phố Broadway, và những nhà hàng có tên như Nai Tím, Hàng khô Lynch, và Kennedy, khách sạn Mile Zero Bed có điểm tâm và quán rượu Thợ Mỏ.

Khi họ nhìn vào cửa sổ trưng bày của một cửa tiệm nhỏ có tên là Klothes Rush, cô nói với Call:

- Đấy không phải là khu đổ bộ ban đầu của dân đi tìm vàng. Đấy là thành phố có tên Dyea ở trong cái vịnh chỉ cách đấy vài dặm.

- Anh đã đến đấy rồi. Không còn để lại vết tích gì nhiều đâu, chỉ còn vài di tích lịch sử, hai nghĩa địa cũ… Ở đâu Skagway còn, thì Dyea tàn lụi. Con đường mòn Chilkoot bắt đầu ở đấy.

- Đường mòn Chilkoot – Charity nhìn về phía núi như thể cô thấy được con đường ấy – Con đường dài 32 dặm, nhỏ nhất trong lịch sử. Con đường chính đi vào Yukon – Cô nhìn anh – Theo anh thì chúng ta có thể đến đấy được không?

- Nếu em muốn đi, thì sáng mai leo núi đến chơi, anh thường mang theo áo quần đi chơi núi trong máy bay. Nhưng con đường hiểm trở kinh khủng đấy nhé, không giống như đi đến hồ đâu.

- Đúng. Đường núi phải leo cao đến 3.700 feet, có nơi đến gần như thẳng đứng. Anh có tưởng tượng được cảnh 20 ngàn người cố leo lên con đường ấy trong thời tiết băng giá của mùa đông không?

- Anh đã xem các bức ảnh cũ, trong quầy rượu của quán rượu Thợ Mỏ có treo một bức. Ta đến đấy đi, anh muốn uống ly bia lạnh.

Họ đi vào quán. Quán xây cất năm 1898, và cũng như nhiều di tích khác trong thành phố, quán đã trải qua những ngày vàng son trong thời đổ xô đi tìm vàng. Quán vẫn giữ nguyên hình ảnh của ngày xa xưa ấy, quầy rượu gồm một tấm ván dài bằng gỗ sồi đã bị mòn vẹt chạy hết chiều dài của căn phòng hẹp, nền nhà lát gỗ cũng bị mòn vẹt, tường được dán giấy nối màu đỏ, nhiều nơi đã bị hoen ố. Thế nhưng quán vẫn không có vẻ gì tàn tệ mà chỉ cũ kỹ thôi, và trông vẫn duyên dáng.

Charity leo lên ngồi trên chiếc ghế đẩu bằng gỗ ở trước quầy rượu. Call ngồi trên một chiếc khác bên cạnh, gác một chân mang giày da nặng trên thanh gác chân dài bằng đồng. Trong khi người bán rượu tìm bia Ammer của Alaska, thì Charity nhìn bức tranh treo sau quầy, bức tranh phóng to cỡ 3x4 feet, từ một bức ảnh đen trắng nổi tiếng mà cô đã được xem một lần rồi và không bao giờ quên.

Bức ảnh được một nhà báo đi theo đoàn tìm vàng thực hiện, ông chụp cảnh tượng một bức tường nước đá và tuyết rất dốc, khó cho ngựa đi được, bức tường hiện lên 1200 bậc cấp bằng nước đá, họ gọi đoạn đường này là Cầu Thang Vàng (The Golden Staircase). Ở phía trái, dưới chân ngọn đồi là một hàng đàn ông mỏi mệt dài bất tận lê bước đi đến, loạng choạng vì lạnh cóng, cố lên đỉnh đồi ở phía bên phải, họ là thợ mỏ đi tìm vàng, người nào người nấy mang đầy thứ trên người, đến nỗi không đứng thẳng lên nổi, hai tay hai chân và mặt đầy râu trắng xoá vì sương tuyết, và tê cóng vì cái lạnh thấu xương. Cảnh tượng trong bức tranh trông lạnh khủng khiếp, ngay khi nhìn từ xa, bức ảnh cũng để lộ rõ sự mệt mỏi của mọi người. Nhìn bức tranh, Charity quá xúc động đến độ cô nghẹn ngào trong họng.

- Điều đáng ngạc nhiên là những ông này vẫn kiên trì chịu đựng. – Call nói.

- Trong số này cũng có đàn bà – Charity nói, nhưng cô cố không nghĩ đến cảnh khổ sở mà họ phải chịu đựng.

- Anh nghĩ đàn bà không nhiều, một ít thôi, họ quả thật là những người rất can trường.

- Bức ảnh này được chụp vào mùa đông 1899, trước một năm, ở Dawson đã xảy ra cảnh đói khát. Cảnh sát khuyên người nào đi đến các mỏ vàng phải mang theo nhu yếu phẩm đủ dùng trong một năm, vào quãng 2000 pounds. Một số đàn ông đi qua về ngọn đồi ấy nhiều lần hơn một ngàn dặm để mang thực phẩm qua biên giới.

- Và họ còn đi đến các mỏ vàng xa hơn 300 dặm nữa - Charity hớp một hớp bia lạnh.

- Họ đốn cây ở hồ Lindeman, làm bè theo sông Yukon đến Dawson. Khổ thay là có nhiều người chết đuối tại các thác nước ở Miles Chasm. Người ta gọi nơi này là Mồ Chôn Thợ mỏ.

Call vừa uống bia vừa nhìn Charity và nói:

- Em rành chuyện này quá nhỉ.

Cô nhìn bức tranh, đáp:

- Chắc anh đã nghe chuyện “Tiếng gọi nơi hoang dã” chứ? Em nghĩ em đã nghe theo tiếng gọi ấy.

- Này cô nương, cô có máu hoang dã trong người… Ít ra là khi trên giường –Anh nói, nhìn cô với ánh mắt khao khát. Anh để ly bia đã hết xuống quầy – Khi nào em uống xong, chúng ta kiếm chỗ nghỉ đêm.

Charity nhìn vào cặp mắt hau háu của anh, để ly bia còn một nửa xuống quầy, đáp - Bất cứ khi nào anh muốn là em sẵn sàng.

Cặp mắt của Call trở nên xanh ngắt:

- Em yêu ơi, anh thì sẵn sàng từ khi em bước vào phòng làm việc của anh lúc 9 giờ sáng nay.