Merkin cười cười đáp: "Xem ra không sai rồi, bọn chúng đã chọn một con đường xưa nay chưa có ai từng đi..." Y thở dài một tiếng, nói: "Theo các tư liệu tôi đang nắm giữ, tổng cộng có hai con đường dẫn đến Shangri-la, một con đường đi qua núi thần thánh khiết, còn một con đường nữa, thì đi qua dòng U Minh hà tăm tối. Trong sách cổ có ghi chép, Bạc Ba La thần miếu nằm ở phía bên kia dòng U Minh hà ấy, nhưng con đường đó, xưa nay vốn không thể tìm được trong bất cứ tấm bản đồ nào cả."
Trương Lập phều phào nói: "Cường Ba thiếu gia, tôi muốn ngủ mà không sao ngủ được, bụng đói meo đói mốc, toàn thân đau nhức rã rời, lại vẫn phải chèo thuyền liên tục, lấy đâu ra hơi mà nói chuyện gì nữa chứ."
Trác Mộc Cường Ba nói: "Đừng ỉu xìu như vậy chứ, không phải cậu vẫn luôn rất vui vẻ cởi mở hay sao."
Trương Lập liền nói bằng giọng của mấy diễn viên Kinh kịch: "Giờ tôi vừa lạnh lại vừa đói, rét ơi là rét, một chữ thảm làm sao bộc lộ hết được đây, thảm! thảm! thảm!..."
Nhạc Dương nói: "Được rồi, anh nhìn anh Dũng kia kìa, ai lại như anh, một chút khó khăn vậy mà đã kêu khổ kêu mệt rồi, sau này làm sao đi với Cường Ba thiếu gia được chứ. Lần sau đi đâu thì chớ có bảo với người ta là đi với Cường Ba thiếu gia đấy nhé."
Trác Mộc Cường Ba nói: "Nhạc Dương, nghe giọng cậu thì hình như tinh khí cũng vẫn còn sung mãn lắm, hát một bài cho mọi người phấn chấn tinh thần xem nào."
"Hả? Hát một bài?" Nhạc Dương ngoảnh đầu lại, mặt nhăn như trái khổ qua: "Tha cho tôi đi, Cường Ba thiếu gia, chúng ta đã không ngủ hơn ba chục tiếng đồng hồ rồi, giờ tôi cầm mái chèo còn thấy tay chân mềm nhũn, hát hò gì nữa, chẳng còn hơi sức đâu."
Trương Lập tức thì bật cười hích hích.
Trác Mộc Cường Ba nói: "Cố gắng thêm chút nữa, hát một bài rồi chúng ta ăn chút gì đó, cũng sắp đến đợt nước triều sau rồi."
"Cường Ba thiếu gia, không phải tôi khiêm tốn đâu, nhưng với trạng thái hiện nay của tôi, có hát cũng không thể nào cổ vũ tinh thần cho ai được đâu, mà chỉ khiến mọi người thêm khổ sở thôi." Nhạc Dương nghĩ ngợi giây lát, đột nhiên lớn tiếng gọi: "Còm ơi!"
Triệu Trang Sinh ở đuôi thuyền ứng tiếng đáp: "Gì?"
Nhạc Dương nói: "Cường Ba thiếu gia bảo cậu hát một bài cho mọi người phấn chấn tinh thần!"
"Hát? Hát gì chứ?"
"Tùy cậu đấy, hát bài gì kích động vào, bài gì khiến tinh thần người ta bừng bừng lên ấy."
"Ờ." Triệu Trang Sinh thoáng suy nghĩ, đoạn lớn tiếng hát lên, "Đường phía trước ở đâu, ai cùng ta xông pha..."
Vừa mới hát được đoạn mở đầu, Nhạc Dương đã lớn tiếng ngăn lại: "Không được, không được, bài hát của hội Beyond đau khổ lắm, đổi bài khác đi, đổi bài khác đi."
Triệu Trang Sinh lại đổi một bài khác: "Anh nói chút đau đớn này, có đáng gì, lau khô lệ, chớ sợ hãi, ít nhất chúng ta vẫn còn giấc mơ, anh nói..."
Nhạc Dương lại phá đám: "Cũ quá rồi, bài này nghe càng chán hơn."
Trương Lập cũng hùa và theo: "Ừ đấy, giờ tay chân mọi người đều mềm nhũn ra rồi, hát mấy bài phấn chấn ấy làm gì, hát bài gì du dương mềm mại để mọi người nghỉ ngơi khôi phục thể lực, mà phải có ý cảnh nữa, tốt nhất là có thể khiến mọi người cảm thấy hoàn cảnh của chúng ta lúc này rất dễ chịu vậy."
Nhạc Dương không đồng ý: "Hoàn cảnh lúc này còn dễ chịu được à?"
Trương Lập nói: "Tất nhiên là phải phát huy trí tưởng tượng của cậu rồi, cậu có thể nhắm mắt lại mà tưởng tượng, vùng nước xanh ngắt mênh mông này phẳng lặng nhường nào, cảnh vật xung quanh đẹp mê hồn người ra sao, trời xanh mây trắng, biển biếc cát vàng, gió nhẹ phất qua..."
Triệu Trang Sinh được gợi ý, liền nói: "Có rồi, có rồi, tìm được một bài rất hợp đây." Liền sau đó, anh ta cất giọng run run hát lên rằng: "Thuyền nhỏ xinh xinh, đung đưa trên làn nước, đón cơn gió mát lành..., đôi chúng ta cầm đôi mái chèo, thuyền nhỏ xinh xinh..."
Nhạc Dương nghe mà rùng hết cả mình, vội vàng nói: "Không được, đổi bài khác đi, tôi sắp ọe ra rồi đây."
Trác Mộc Cường Ba nói: "Đừng để Trang Sinh hát, đã mấy ngày nay cậu ấy không ăn được gì rồi."
Trương Lập vỗ tay cười lớn lên nói: "Hay lắm hay lắm, chính là ý cảnh này đây. Anh Dũng, anh nói xem có phải không... anh Dũng!"
Trương Lập đưa tay ra, nắm lấy cánh tay cầm mái chèo của Nghiêm Dũng, chỉ thấy bàn tay ấy lạnh như một khối băng, nhìn lại Nghiêm Dũng, trên trán anh vẫn đang rướm mồ hôi, cả người cong lại như con tép khô, đầu gối chống lên ngực, thân thể cuộn tròn, hai hàm răng nghiến vào nhau kêu ken két, rõ ràng là đang cố chịu đựng một nỗi đau khủng khiếp. Trương Lập cả kinh, vội đặt mái chèo xuống đứng bật lên. Trác Mộc Cường Ba cũng để ý đến biểu hiện dị thường của Nghiêm Dũng, vội nói: "Sao vậy? Nghiêm Dũng?"
Nhạc Dương cũng đã kêu lên: "Mẫn Mẫn! Pháp sư Tháp Tây, hai người mau qua đây!"
Nghiêm Dũng khó nhọc ngẩng đầu lên, sắc mặt trắng nhợt như tờ giấy, nhưng vẫn kiên trì nói: "Tôi không sao, cứ mặc tôi, mau chèo thuyền đi!"
Lần này thì không ai tin anh ta nữa. Lúc nói câu ấy, toàn thân Nghiêm Dũng run lên bần bật, tâm trạng kích động, vừa há miệng, anh đã vội ngoảnh đi, áp mặt vào mạn thuyền mà nôn ọe. Lần này thì Trác Mộc Cường Ba nhìn thấy rất rõ, thứ màu cà phê bị nôn ra ấy chẳng phải sô cô la gì cả, mà rõ ràng chính là máu! Sau lần nôn ọe ấy, cuối cùng Nghiêm Dũng cũng không kiên trì chịu đựng được thêm nữa, thân thể lại càng co vào hơn.
Đường Mẫn và pháp sư Á La chạy đến, đội trưởng Hồ Dương và Lữ Cánh Nam cũng xông tới, Ba Tang hướng ngọn đèn chiếu về phía đó, chỉ thấy Nghiêm Dũng đang cố gắng khắc chế, nhưng toàn thân vẫn không tự chủ được mà run lên bần bật, bãi nôn màu cà phê phát ra mùi xú uế như của vật bài tiết. Lữ Cánh Nam vừa nhìn thấy tư thế và bãi nôn của Nghiêm Dũng, đã lập tức kinh hãi thốt lên: "Xoắn ruột! Bao lâu rồi?"
Xoắn ruột, Trác Mộc Cường Ba thầm giật thót mình. Đó là một trong vài chứng bệnh có thể dẫn đến chết người do vận động mạnh sau bữa ăn, cảm giác đau đớn có thể khiến người ta cảm thấy như thể ruột trong ổ bụng mình bị vặn cho đứt lìa thành từng đoạn nhỏ. Người bình thường căn bản không thể nào chịu đựng nổi, sao người đàn ông này lại không hề rên lên dù chỉ một tiếng như vậy chứ?
Đường Mẫn kiểm tra triệu chứng, rồi buồn bã nói: "Có lẽ là chứng Chercherski. Anh Dũng, sao, sao anh không nói ra chứ?" Cô đã sờ thấy rõ mồn một, ổ bụng Nghiêm Dũng trương lên như cái trống, hơn nữa còn nghe thấy cả tiếng nước óc ách bên trong nữa, nhắm mắt lại, dường như có thể nhìn thấy bộ ruột bị ngâm trong dịch tiêu hóa và máu làm cho hoại tử, đứt lìa ra thành từng khúc theo đúng nghĩa đen. Một khi đã phát hiện xoắn ruột, ngoài phẫu thuật ra thì không còn phương pháp trị liệu nào khác, càng huống hồ là trong hoàn cảnh rung lắc dữ dội này, cần phải mổ bụng ra kiểm tra kỹ hơn, rồi phẫu thuật trị liệu, bằng không tỉ lệ tử vong sẽ rất cao. Tình hình Nghiêm Dũng có thể nói là đã như cây cung kéo căng hết cỡ, nội tạng của anh chỉ sợ đã có hơn nửa bị dịch tiêu hóa và các loại vi khuẩn ăn mòn gần hết. Nghiêm Dũng lúc này chỉ còn nhờ vào nghị lực để giữ cho thần trí được tỉnh táo, một khi sức mạnh tinh thần ấy biến mất, thì dẫu là Đại La Kim Tiên xuất hiện cũng khó mà giúp hồi sinh được.
Pháp sư Á La cũng khe khẽ lắc đầu, nét mặt hết sức thương tiếc.
Nghiêm Dũng cười gượng nói: "Tôi ngỡ rằng, kiên trì thêm một chút nữa, sẽ có thể... sẽ có thể nhìn thấy Shangri-la, không ngờ... không ngờ... thân thể này rốt cuộc cũng không thể cầm cự được nữa rồi."
Đội trưởng Hồ Dương ôm lấy hai vai Nghiêm Dũng, nói: "Bạn già của tôi, đã đi xa được chừng này rồi, cậu cố gắng thêm một chút nữa đi!"
Nghiêm Dũng vỗ vỗ lên lưng đội trưởng Hồ Dương như thể muốn an ủi anh, đoạn nói với Trác Mộc Cường Ba đang đứng sau lưng Hồ Dương: "Cường Ba thiếu gia, chúng ta, chúng ta... thực sự có thể đến được Shangri-la ư?"
Trác Mộc Cường Ba kiên định đáp: "Có thể, nhất định có thể!"
Nghiêm Dũng nói: "Vậy thì tốt, vậy thì tốt." Anh cho tay vào trong áo, lần mò một lúc, rồi lấy ra một tấm ảnh, là ảnh của chính anh, không biết là chụp dưới chân ngọn núi nào. Nghiêm Dũng đưa tấm ảnh cho đội trưởng Hồ Dương, đoạn nói: "Đội trưởng, có lẽ tôi không cầm cự được đến lúc ấy đâu, khi nào mọi người đến đó, thì cắt hình người trong ảnh ra, rồi... chụp... chụp lại một tấm khác. Như vậy, như vậy thì không sơ hở gì đâu... đội trưởng, hứa với tôi, nếu mọi người có thể trở về, xin anh hãy mang di chúc và tấm ảnh đó giao cho con trai tôi, nói với nó, cha nó cuối cùng... cuối cùng đã đến được Shangri-la rồi, không còn gì ân hận nữa, không còn gì tiếc nuối nữa!" Mấy câu cuối cùng ấy, cơ hồ như Nghiêm Dũng đã phải dùng hết sức lực để gào lên. Trước lúc lâm chung, hai mắt anh vẫn trợn mở trừng trừng, đôi tay nắm chặt vào cổ áo đội trưởng Hồ Dương, tựa như không cam tâm ra đi như vậy, anh vẫn chưa nhìn thấy Shangri-la mà mình khát khao mong mỏi cơ mà!
Hai tay đội trưởng Hồ Dương run bần bật, anh cầm tấm ảnh, đôi hàng lệ nóng cuối cùng cũng không ghìm nổi mà tuôn trào ra nơi khóe mắt đầy những nếp nhăn.
Lại thêm một ngọn đèn nữa chìm xuống, tựa như ngôi sao băng vạch qua bầu trời đêm tĩnh lặng, ánh sáng của nó chỉ lóe lên ngắn ngủi trong một khoảnh khắc, nhưng không ai có thể phủ nhận vẻ đẹp thê lương mê mẩn ấy.
Ngọn đèn từ từ chìm xuống biển, trái tim những người đang sống cũng theo đó chìm dần theo xuống đáy nước lạnh lẽo. Lại một tính mạng nữa mất đi, bọn họ thực không biết lúc này mình nên bi thương hay là tuyệt vọng, những cuộc biệt ly sinh tử diễn ra liên tiếp trong khoảng thời gian ngắn ngủi khiến cảm xúc họ đều trở nên tê liệt, người tiếp theo rất có thể sẽ đến lượt chính bản thân mình. Trong lòng mỗi người ít nhiều đều có suy nghĩ ấy, bọn họ đang trôi theo dòng U Minh hà, một nơi vốn đã thuộc về mặt bên kia của sự sống. Sau khi xác Nghiêm Dũng chìm xuống, trên thuyền đã không còn tiếng cười, cơn gió lạnh buốt thổi tới bủa vây từng người, ai nấy im lặng nhìn về phía ngọn đèn gắn trên mũ Nghiêm Dũng dần dần biến mất, cho tới khi không còn nhìn thấy ánh sáng ấy nữa mới thôi. Nhạc Dương đột nhiên dụi dụi mắt, dường như anh có cảm giác, đèn gắn trên mũ của Nghiêm Dũng vẫn chưa chìm xuống đủ sâu thì đã đột nhiên biến mất, có phải ảo giác chăng? Anh lại dụi mắt lần nữa, những hạt nước còn chưa khô chảy dọc theo mấy sợi tóc nhỏ xuống mu bàn tay, mở mắt ra, ánh sáng mong manh của ngọn đèn nhỏ ấy đã hoàn toàn biến mất. Nhất định là ảo giác, Nhạc Dương thầm nhủ.
Lại thêm ba tiếng đồng hồ nữa trôi qua, họ đón đợt nước triều thứ ba trong tiếng hét hò giận dữ. Lần này thế nước rõ ràng là nhỏ hơn lần thứ hai rất nhiều, con thuyền hình rắn của bọn Trác Mộc Cường Ba không bị lật nhào lần nào. Xem ra họ đã tiến vào khu vực trung tâm của vùng biển ngầm này rồi, hoặc ít nhất thì cũng đã rời xa được miệng loa kèn ấy. Sau đợt nước triều này, Trương Kiện cũng rời bỏ mọi người, anh lẳng lặng ra đi trong lúc cơn nước triều đang dữ. Khi mặt nước trở lại phẳng lặng, mới phát hiện anh đã ngừng hơi thở. Theo kết quả kiểm tra của Đường Mẫn và pháp sư Á La, anh ra đi hết sức yên bình, có lẽ cũng không đau đớn gì, chỉ như người đang say ngủ trở về với vòng tay bảo vệ của Chúa.
Lại một ngọn đèn nữa tắt đi, những người còn sống vẫn dập dềnh theo con sóng. Nhạc Dương chăm chú nhìn Trương Kiện chìm dần rồi biến mất, lần này thì đã nhìn rõ hơn, không hề sai, ngọn đèn gắn trên mũ Trương Kiện mới chìm được chừng chục mét thì đã đột nhiên biến mất, giống như có vật thể gì rất lớn đột nhiên ập tới chắn đi vậy. Nhạc Dương kể lại hiện tượng này với Trác Mộc Cường Ba. Gã lặng lẽ hỏi: "Cậu cho rằng, đó là thứ gì?"
Nhạc Dương đáp: "Có sinh vật, dưới nước này có sinh vật, hơn nữa chúng còn đang ở xung quanh con thuyền này, như thể đang đợi chờ thức ăn rơi xuống vậy."
Trác Mộc Cường Ba tức giận gầm lên: "Ý cậu là, thi thể của Nghiêm Dũng và Trương Kiện đều đã bị thứ ở dưới nước kia ăn sạch rồi sao?"
Nhạc Dương cúi đầu nói: "Tôi nghĩ, đúng vậy." Nhưng rất nhanh sau đó, anh lại ngẩng đầu lên, nói tiếp: "Thế nhưng, nếu thực sự có sinh vật, thì chúng ta cũng có thức ăn rồi!"
"À!" Trác Mộc Cường Ba thoáng nghĩ ngợi, đoạn nói: "Ý cậu là, chúng ta có thể câu cá! Đằng nào mọi người cũng đều đang nghỉ ngơi, chúng ta có thể thử xem sao! Trương Lập, gỡ đèn pha chiếu thử xuống nước xem nào."
Chiếu đèn cả chục phút đồng hồ, nhưng chẳng phát hiện được gì. Những người trên thuyền lại thảo luận một phen, cho rằng khả năng ấy không lớn lắm, sinh vật sống trong bóng tối thông thường đều bị ánh sáng hấp dẫn, ánh sáng mạnh như vậy chiếu xuống mà không phát hiện có dấu vết gì, thì khả năng chúng tồn tại không lớn lắm. Xét cho cùng, đây cũng là nơi sóng to gió lớn, sinh vật khó mà sống nổi.
Trương Lập lại lắp đèn pha, con thuyền nhỏ tiếp tục tiến sâu vào bóng tối. Trong ánh mắt của đám người bốn mươi tám tiếng đồng hồ liên tiếp không ngủ này đã xuất hiện vẻ mơ hồ, không ít người bắt đầu nhớ đến câu "trôi dạt ngàn vạn năm trên dòng U Minh hà". Rốt cuộc là còn bao nhiêu lâu nữa? Lẽ nào vùng biển ngầm dưới lòng đất này, thực sự không có bờ bên kia hay sao?
Một tòa nhà nào đó ở Chechnya, nhìn bên ngoài trông chẳng khác nào một tòa nhà bình thường, nhưng ai đặt chân vào bên trong sẽ nhận ra nó vắng lặng không một bóng người. Tất cả cư dân đã được mời ra ngoài, hay bản thân nó là một nơi hoang phế? Nhưng nếu nói đây là một tòa nhà bỏ hoang, vậy tại sao các thiết bị bên trong vẫn còn đầy đủ trọn vẹn, ở mỗi góc đều đặt máy quay, đèn điện sáng rực?
Thang máy dừng ở tầng mười tám dưới lòng đất. Một người đàn ông cao chừng mét tám, và một người khác hơi thấp hơn cùng bước ra ngoài. Cả hai bịt kín mặt. Vừa bước ra khỏi cửa thang máy, đã có hai người bịt mặt tay cầm thiết bị điện tử, kiểm tra toàn thân một lượt để chắc chắn họ không mang theo vũ khí hay vật phẩm gì bằng kim loại. Hai con chó berge Đức đã được huấn luyện đặc biệt ngồi chồm hổm một bên. Nếu ngửi thấy trên người hai kẻ mới đến có chút mùi gì của hóa chất dễ cháy hoặc dễ nổ, chúng sẽ không chút khách khí mà lao tới tấn công. Sau khi kiểm tra hai người bịt mặt từ trong thang máy bước ra, hai người kia lại tự dùng thiết bị điện tử rà người mình một lượt, tỏ ý họ cũng không mang theo bất cứ vũ khí gì.
Người bịt mặt dáng thấp hơn nói bằng tiếng Anh với người đi bên cạnh: "Đã kiểm tra ba lần rồi, ông Shakurov cẩn thận thật!" Gã cao hơn gật đầu đáp: "Những người đến đây lần này đều là nhân vật lớn như ông cả, thủ lĩnh không thể không cẩn thận hơn mấy lần, dù bất cứ người nào xảy ra vấn đề, chúng tôi cũng không thể gánh nổi trách nhiệm." Đối với tay Badila đến từ châu Mỹ này, có thể nói y vừa khâm phục, lại vừa kính sợ. Tạm không nhắc đến chuyện Badila là đại biểu của phía Vua Ma Túy, chỉ riêng dũng khí một mình đến đây của y, những kẻ tham dự hội nghị khác đã không ai bì được rồi.
Vì giữa các thế lực hắc đạo không thể nào không tồn tại xích mích, có thể nói, ông Shakurov đã tận hết tâm cơ để giữ cho cuộc gặp lần này được tốt đẹp. Không chỉ những người tham gia hội nghị đều phải bịt mặt, tuyệt đối không mang theo bất cứ vũ khí, mà cả những kẻ bảo vệ hội nghị cũng không được mang theo vũ khí. Mỗi người tham gia có thể mang theo tối đa là hai mươi vệ sĩ, ngoài tay Badila ra, những người khác vừa khéo mang đủ hai mươi người, bọn họ đều được sắp xếp cho ở bên ngoài tòa nhà này. Đám thủ hạ được sắp xếp giữ khoảng cách như nhau với khách tham gia hội nghị, để đồng thời vẫn nhìn thấy vị trí của ông chủ mình trong phòng họp thông qua camera giám sát, hễ thấy hơi có động thái gì khác lạ là có thể lập tức xông vào trong vòng một phút.
Chỉ nghe Badila nói: "Tổ chức hội nghị thế này là rất mạo hiểm đó."
Người cao hơn cười hùa theo nói: "Đúng vậy, đúng vậy... Valery, dẫn ông Badila xuống." Lại đổi một gã bịt mặt cao lớn, cơ bắp nảy nở đến mức gần lòi ra cả ngoài áo dẫn Badila đi cầu thang bộ tiếp tục xuống dưới. Tên cao lớn lúc nãy đưa tay lên quệt mồ hôi trên trán. Ở cùng một chỗ với tay Badila này dù thế nào cũng không phải chuyện vui vẻ sung sướng gì. Qua lớp vải che mặt, ánh mắt của Badila thực khiến người đối diện y cảm thấy căng thẳng. Đó là ánh mắt như thế nào chứ? Hồ nghi? Không. m hiểm? Không, càng không. Bi thương? Gần gần như vậy. Ánh mắt ấy toát lên một vẻ bi thương gì đó, tựa như y mới có người thân chết đi vậy, nhưng thế vẫn chưa đủ, trong ánh mắt ấy còn có một vẻ gì đó khiến y căng thẳng, hoặc có thể nói là... sợ hãi!
Trong phòng họp bày một chiếc bàn tròn, xung quanh có mười bảy mười tám chiếc ghế, phía trước mỗi ghế đều đặt một tập hồ sơ, một cái bút ký, nếu người nào không biết, chắc chắn sẽ ngỡ rằng đây là cuộc họp hết sức bình thường mà thôi. Chỉ có điều, những người tham dự hội nghị đều tương đối đặc biệt. Lúc này đã có mười người đến, tất cả đều bịt mặt, đồng thời cố ý giữ khoảng cách với nhau. Ở khoảng giữa còn lại bảy tám chiếc ghế trống.
Người chủ trì cuộc họp, Shakurov, ngồi đối diện với cửa lớn. Trên bức tường sau lưng y treo một màn hình máy chiếu.
Shakurov cũng như những người khác, đội khăn trùm che kín đầu, chỉ lộ ra hai con mắt xanh thẳm, âm hiểm. Y nhìn đồng hồ, đã quá giờ họp mười phút. Y vẫn còn đang đợi, là bởi trong ba tay trùm đứng ra tổ chức cuộc họp lần này, ngoài y ra, hai kẻ còn lại vẫn chưa thấy xuất hiện. Nếu không phải ba người bọn họ cùng đứng ra tổ chức, e rằng không thể triệu tập được nhiều thủ lĩnh thế lực đen phái đại biểu đến tham gia như vậy. Tất cả mọi sự vốn đã thương lượng xong xuôi, vậy mà đến lúc hành động, hai con cáo già kia lại không xuất đầu lộ diện, rốt cuộc là chuyện gì đây? Shakurov đã thoáng ngửi thấy mùi âm mưu gì đó. Y biết, hai con cáo già kia đều không phải hạng người nhát gan. Bọn họ không đến, nhất định là đã nghe ngóng được điều gì đó. Nhưng y vẫn rất tự tin với sắp xếp của mình. Bản thân tòa nhà này đã được thiết kế đủ để chống lại cả bom nguyên tử, còn như mấy loại tên lửa dò tìm căn bản không thể làm được gì; bước vào tòa nhà này bất cứ ai cũng không có vũ khí, dù trong hội nghị có tranh chấp, cùng lắm chỉ động đến quyền cước, va chạm một chút, dẫu sao cũng nằm trong giới hạn; hơn nữa, đám khách tham gia hội nghị lần này, tên nào tên đó đều là hạng mãnh tướng đã trải nhiều khảo nghiệm, nếu thực có động thủ, thì bản thân cũng ước lượng được hậu quả thế nào. Nếu có phần tử vũ trang nào liều mạng xông vào, tạm không nói đến chuyện đây là địa bàn của y, chỉ riêng đám vệ sĩ đi theo khách dự hội nghị ở bên ngoài tòa nhà cũng đến hơn hai trăm tên rồi, ít nhiều gì cũng có thể cầm cự được một lúc. Y thực không hiểu, sách lược an toàn như vậy rồi, hai con cáo già kia còn lo lắng gì nữa chứ.
Lại thêm năm phút nữa, Shakurov cuối cùng cũng lên tiếng: "Được rồi, chúng ta không đợi nữa, những người chưa đến xem ra cũng không đến đâu. Hôm nay, may mắn mời được các vị tới đây, chủ yếu là muốn bàn về vấn đề tài liệu liên quan tới Bạc Ba La thần miếu, hy vọng có thể khơi thông và trao đổi với mọi người một chút. Các vị ở đây chắc đều đã biết, Bạc Ba La thần miếu là thứ gì, mọi người hoặc ít hoặc nhiều chắc cũng đều có nghiên cứu về nó. Có người thời gian ngắn hơn một chút, chỉ nghiên cứu vài năm; có người thì tương đối lâu, đã nghiên cứu về nơi này mấy chục năm rồi. Như chúng tôi chẳng hạn, chúng tôi đã biết đến sự tồn tại của Bạc Ba La thần miếu từ năm 1946 rồi."