Mật Mã Phù Thủy

Chương 24

“Nó cứ thế mãi à?” Tôi đứng chống nạnh, cau mày lại và nhìn chằm chằm lên trần nhà Susanna.

“cô ta chứ, Diana. Rồng lửa của con là giống cái đấy,” Catherine nói. Bà cũng đang nhìn lên trần nhà với vẻ mặt thích thú.

“cô ta. Nó. Cái đó.” Tôi chỉ lên. Tôi vẫn đang cố gắng dệt một câu thần chú thì con rồng của tôi thoát ra khỏi nơi giam giữ là lồng ngực tôi. Lại lần nữa. Giờ cô nàng dán chặt lên trần nhà, thở ra những cụm khói và đánh đàn răng trong trạng thái lo âu, bối rối. “Cháu không để nó – cô nàng – bay vòng vòng quanh phòng mỗi khi cảm thấy thích đâu.” sẽ nghiêm trọng hết sức nếu cô nàng bỗng nhiên xổng ra giữa đám sinh viên ở Yale.

“Việc rồng lửa của cháu thoát ra tự do là triệu chứng của một vấn đề rắc rối còn nghiêm trọng hơn nhiều đấy.” Goody Alsop giơ ra một bó tơ mềm như lụa, màu sắc rực rỡ và được buộc thắt nút lại với nhau ở đầu. Phần dưới của các sợi tơ như những sợi ruy băng trên cây nêu ngày lễ tháng Năm và được đánh số đến chín, với nhiều sắc màu khác nhau: đỏ, trắng, đen, bạc, vàng kim, xanh lá, nâu, xanh lam và vàng tươi. “Cháu là thợ dệt và cần phải học cách điều khiển sức mạnh của mình.”

“Cháu ý thức rõ điều đó Goody Alsop à, nhưng cháu vẫn không biết mấy sợi chỉ thêu này giúp ích thế nào,” tôi bướng bỉnh nói. Con rồng kêu lên tán đồng, trở nên hiện hữu rõ nét hơn và sau đó nhợt nhạt đi, trở về với hình dáng mong manh sương khói đặc trưng của nó.

“Cháu biết gì về chuyện là một thợ dệt hả?” Goody Alsop lạnh lùng hỏi.

“không nhiều lắm ạ,” tôi thú nhận.

“Diana nên nhấp một ngụm thứ này trước đã.” Susanna đến cạnh tôi với một cái tách nghi ngút khói. Mùi hương chamoli và bạc hà nồng đậm trong không khí. Con rồng của tôi nghiêng nghiêng cái đầu vẻ hứng thú. “Nó giúp an tĩnh và có thể xoa dịu con thú của cô ấy.”

“Tôi không mấy lo ngại về con rồng lửa này,” Catherine tùy tiện nói.

“Bắt một con rồng vâng lời luôn luôn khó khăn – giống như cố gắng kiềm chế một yêu tinh đang có ý định bày trò tinh quái vậy.” Tôi nghĩ bụng, bà nói thì dễ hơn làm. Bà đâu có phải thuyết phục con quái thú kia chui trở vào trong người mình đâu.

“Thứ nước thuốc này làm từ những loài cây nào thế?” Tôi hỏi trong khi nhấp một ngụm nước của Susanna. Sau món trà của Marthe, tôi bắt đầu nghi ngờ các thứ đồ uống pha chế từ thảo dược. Ngay khi câu hỏi thốt ra khỏi miệng tôi, cốc nước bắt đầu bừng nở những nhành non bạc hà, những bông hoa đủ sắc hương: chamoli, chùm hoa bạch phỉ li ti, mấy chiếc lá bóng loáng và cứng cáp mà tôi không thể nhận diện nổi. Tôi xin thề là thật.

“Thấy chưa!” Catherine kêu lên và chỉ vào tách nước. “Tôi đã bảo mà. Khi Diana hỏi một câu là nữ thần trả lời ngay.”

Susanna hoảng hồn nhìn vào cốc vại của mình khi nó bị nứt, dưới sức ép của những cái rễ đang phình ra. “Tôi nghĩ bà đúng đấy, Catherine. Nhưng nếu cô ấy định dệt thần chú thay vì phá hỏng mọi thứ, thì cô ấy cần phải hỏi những câu hay ho hơn thế.”

Goody Alsop và Catherine đã khám phá ra sức mạnh bí mật của tôi. Nó khơi gợi trí tò mò của tôi đến khó chịu. Bây giờ, một số sự kiện nhất định đã trở nên có ý nghĩa: chiếc bàn trắng và những mảnh ghép nhiều màu sắc của nó đã trở thành cứu cánh của tôi mỗi khi phải đối mặt với một vấn đề rắc rối, lọ bơ bay ra khỏi tủ lạnh của dì Sarah ở Madison khi tôi thắc mắc không biết có còn bơ không. Thậm chí cả sự xuất hiện lạ lùng của Ashmole 782 ở thư viện Bodleian có thể được lý giải là: Khi tôi điền kín hết tấm thẻ mượn sách, tôi đã băn khoăn có thứ gì để điền thêm vào không. Sớm ngày hôm nay thôi, tôi mới chỉ mơ màng nghĩ đến người viết nên một câu thần chú trong cuốn bí kíp của Susanna thì đã khiến cho mực tứa ra từ trang giấy và định hình lại trên mặt bàn bên cạnh một hình ảnh chính xác y như người bà quá cố của Susanna.

Tôi hứa với Susanna sẽ thu lại các từ ngữ vào cuốn bí kíp ngay khi tôi tìm ra cách làm. Vậy nên tôi phát hiện ra rằng, thực hành phép thuật không giống như thực hành lịch sử. Các mánh dùng cho cả hai lĩnh vực này đều không tìm ra được những đáp án đúng nhưng lại làm thành công thức cho những câu hỏi hay ho hơn.

“Hãy kể cho chúng ta nghe lần nữa về việc gọi ra nước phù thủy đi Diana, và cả cây cung cùng mũi tên xuất hiện khi có ai đó cô yêu thương đang gặp nguy hiểm ấy,” Susanna gợi ý. “Có lẽ nó sẽ cung cấp được phương pháp để chúng ta lần theo.”

Tôi thuật lại các sự kiện của cái đêm Matthew để tôi lại Sept-Tours, khi nước cứ trào ra khỏi người tôi thành lũ lụt và buổi sáng ở vườn trái cây của dì Sarah, khi tôi trông thấy các mạch nước dưới lòng đất. Và tôi cẩn thận miêu tả mỗi lần cây cung xuất hiện – thậm chí cả khi không có mũi tên hay lúc có nhưng tôi không bắn đi. Khi tôi kết thúc câu chuyện, Catherine trút một tiếng thở dài thỏa mãn.

“Giờ tôi đã thấy rõ vấn đề rồi. Diana không có đầy đủ năng lực, trừ phi cô ấy cần bảo vệ ai đó hoặc khi buộc phải đối mặt với nỗi sợ hãi,” Catherine nhận định. “cô ấy luôn vướng mắc với quá khứ hoặc băn khoăn về tương lai. một phù thủy phải sống hoàn toàn hiện thực mới làm phép được.” Rồng lửa của tôi đập đập cánh tán thành, khuấy động những luồng không khí nóng ấm bay khắp phòng.

“Matthew luôn nghĩ có sự kết nối giữa các cảm xúc, nhu cầu với phép thuật của cháu,” tôi nói với họ.

“Đôi khi ta băn khoăn không biết wearth đó có một phần phù thủy không nữa,” Catherine nói. Những người khác cười giễu trước cái ý niệm nực cười là con trai của Ysabeau de Clermont lại mang giọt máu phù thủy.

“Tôi nghĩ, lúc này cứ để mặc con rồng tự lo liệu lấy cũng an toàn thôi, và chúng ta quay trở lại với vấn đề thần chú che lấp của Diana,” Goody Alsop nói, nhắc tới nhu cầu cần phải che giấu nguồn năng lượng thừa thãi mà mỗi khi tôi dùng phép nó mới bộc lộ ra. “Cháu có thực hiện theo quy trình nào không?”

“Cháu cảm thấy những làn khói hình thành quanh mình,” tôi ngập ngừng nói.

“Cháu cần tập trung vào các nút thắt của mình,” Goody Alsop nói, chú mục vào những sợi dây thừng nhỏ trên đùi tôi. Mỗi màu đều có trong các sợi tơ và kết nối với nhiều thế giới, khéo léo điều khiển các sợi thừng này – vặn xoắn vào và buộc chúng lại – làm nên một phép màu đầy cảm thông. Nhưng điều đầu tiên tôi cần biết là phải dùng đến những sợi tơ nào. Tôi cầm lấy đầu thắt nút của tất cả các sợi thừng đầy màu sắc. Goody Alsop dạy tôi cách nhẹ nhàng thổi lên các sợi tơ trong khi tập trung các ý định trong đầu mình. Việc đó giúp nới lỏng các sợi thừng, thích hợp với bất cứ câu thần chú nào mà tôi đang cố dệt nên.

Tôi thổi vào các sợi tơ làm chúng sáng lên lờ mờ và nhảy nhót. Các sợi màu vàng và nâu tự nới lỏng rồi rớt vào lòng tôi, theo sau là đỏ, xanh lam, bạc và trắng. Tôi lướt ngón tay xuôi theo chiều dài gần ba mươi phân của những sợi dây lụa xoắn lại. Sáu sợi tơ có nghĩa là sáu nút thắt khác nhau, mỗi nút thắt sau lại phức tạp hơn nút thắt trước.

Kỹ thuật tạo nút thắt của tôi vẫn còn vụng về, nhưng tôi thấy phần việc này trong quá trình dệt trôi chảy một cách kỳ lạ. Khi tôi thực hành những chỗ vặn xoắn và bắt chéo tỉ mỉ, công phu bằng sợi dây bình thường, kết quả có được là một thứ gợi ta nhớ đến món đồ tua ren theo phong cách Celtic cổ xưa. Có một trật tự phân cấp đối với các nút thắt. Hai cái đầu tiên là nút thắt đơn và nút thắt đôi. Dì Sarah thỉnh thoảng có dùng chúng, khi dì làm bùa yêu hoặc thứ gì đó dùng để ràng buộc. Nhưng chỉ có các thợ dệt mới có thể tạo ra những nút thắt phức tạp liên quan đến chín đường bắt chéo đặc biệt và kết thúc với hai đầu thừng thần kỳ hợp nhất để tạo thành một mạng dệt không thể phá vỡ.

Tôi hít một hơi thật sâu và tập trung trở lại với các ý định của mình. sự ngụy trang là một dạng bảo vệ và có màu đỏ tía. Nhưng không có thừng màu đỏ tía. không chậm trễ, các sợi thừng màu xanh lam và đỏ nổi lên, xoắn chặt vào nhau để cuối cùng, trông nó giống y những cây nến lốm đốm màu đỏ tía, mà mẹ tôi từng đặt bên cửa sổ hằng đêm khi mặt trăng bị che lấp.

“Với một nút thắt này, câu thần chú bắt đầu,” tôi thì thầm, thắt thòng lọng sợi thừng đỏ tía thành một nút rút đơn giản. Rồng lửa ngâm nga bắt chước theo những lời tôi nói.

Tôi ngước lên nhìn cô nàng và bị choáng váng lần nữa bởi cái vẻ ngoài có thể biến đổi của nó. Khi thở ra, nó nhòe đi thành một cái bóng mờ mờ. Khi hít vào, các đường nét thân thể nó lại sắc nét lên. cô nàng là một sự cân bằng hoàn hảo giữa tính vật chất và linh hồn, không nghiêng hẳn về bên nào cả. Chẳng lẽ tôi chưa từng cảm thấy sự liên kết chặt chẽ đó ư?

“Với nút thắt thứ hai, câu thần chú thành hiện thực.” Tôi làm một cái nút đôi cũng trên sợi thừng đỏ tía đó. Lòng tự hỏi, liệu có cách nào để mình có thể mờ nhạt đi thành màu xám tối tăm mỗi khi mình muốn không, như rồng lửa ấy. Tôi lướt mấy ngón tay trên sợi thừng vàng tươi. Nút thắt thứ ba chính là nút thắt đầu tiên thật sự của thợ dệt mà tôi phải làm. Mặc dù nó chỉ có ba đường bắt chéo, nhưng vẫn là một thử thách.

“Với nút thắt thứ ba, câu thần chú được giải phóng.” Tôi thắt thòng lọng và vặn xoắn sợi thừng thành một hình cỏ ba lá, rồi kéo hai đầu lại với nhau. Chúng hợp nhất để tạo thành một nút thắt không thể phá vỡ của người thợ dệt.

Thở phào nhẹ nhõm, tôi thả nó vào lòng. một làn hơi sương màu xám đẹp hơn cả màu khói thoát ra từ miệng tôi. Nó lơ lửng xung quanh tôi giống một tấm vải liệm. Tôi thở hắt ra kinh ngạc, lại càng nhả ra nhiều sương mù kỳ quái, trong suốt. Tôi nhìn lên. Rồng lửa biến đâu mất rồi? Sợi thừng màu nâu nhảy vào tay tôi.

“Với nút thắt thứ tư, sức mạnh được bảo lưu.” Tôi thích hình dạng giống bánh quy xoắn của nút thắt thứ tư, cùng với những đường uốn cong ngoằn ngoèo xoắn xít của nó.

“Rất tốt, Diana,” Goody Alsop nói. Đây là thời khắc các câu thần chú của tôi có xu hướng dễ sai sót. “Giờ, duy trì thời khắc này và mời con rồng ở yên với cháu đi. Nếu cô bé sẵn lòng, nó sẽ che đậy cho cháu khỏi những ánh mắt hiếu kỳ.”

sự hợp tác của rồng lửa dường như là hy vọng quá xa vời, nhưng dù sao, tôi vẫn làm một nút thắt có hình biểu tượng, sử dụng sợi thừng màu trắng. “Với nút thắt thứ năm này, câu thần chú sẽ cường đại, lớn mạnh.”

Rồng lửa sà xuống và khép hai cánh áp vào lồng ngực tôi.

Ngươi sẽ ở với ta chứ? Tôi lặng lẽ hỏi nó.

cô nàng bao lấy tôi trong một cái kén màu xám đẹp đẽ. Nó làm mờ đi màu đen của áo váy tôi mặc, khiến chúng chuyển thành màu chì than sẫm. Chiếc nhẫn của Ysabeau ít lấp lánh hơn, ngọn lửa trong tâm viên kim cương tối mờ đi. Thậm chí, sợi thừng bạc trên đùi tôi trông cũng xỉn đi. Tôi mỉm cười trước câu trả lời câm lặng của rồng lửa.

“Với nút thắt thứ sáu, câu thần chú này tôi đã ấn định,” tôi nói. Nút thắt cuối cùng không cân xứng với những gì đáng ra nó nên có, nhưng dù sao nó cũng đã thành hình.

“Cháu quả thật là một thợ dệt đấy, bé con ạ.” Goody Alsop thở phào.

***

Tôi âm thầm cảm thấy sự tuyệt diệu trên đường đi bộ về nhà, vì được bọc trong chiếc khăn choàng rồng lửa của mình, tôi như được sống lại lần nữa khi bước chân qua bậu cửa Hươu Đực và Vương Miện. Kit đang đợi tôi ở đó cùng với một bưu kiện. Matthew vẫn dành quá nhiều thời gian cho gã yêu tinh đồng bóng này. Marlowe và tôi chào hỏi lạnh nhạt. Lúc tôi bắt đầu mở các lớp bên ngoài gói hàng thì Matthew rống lên thật to.

“Chúa nhân từ!” Và rồi Matthew xuất hiện ở vị trí mà một khắc trước còn là khoảng không trống trơn, mắt nhìn chằm chằm vào một mảnh giấy với vẻ không tin nổi.

“Giờ thì Cáo Già muốn gì đây?” Kit hỏi vẻ chua chát, tay ấn cây bút vào lọ mực.

“anh vừa nhận được một cái hóa đơn từ Nicholas Vallin, ông thợ kim hoàn ở đầu hẻm,” Matthew nổi quạu nói. Tôi nhìn anh vẻ vô tội. “Ông ta tính phí anh mười lăm bảng cho một cái bẫy chuột.” Giờ tôi đã hiểu khá rõ về giá trị của đồng bảng trong mua bán – cô hầu Joan của Mary cũng chỉ kiếm được có năm bảng một năm – nên tôi có thể hiểu vì sao Matthew lại bị sốc như thế.

“Ồ, cái đó.” Tôi quay trở lại tập trung vào gói bưu kiện. “Em đã yêu cầu ông ta làm nó.”

“cô đã nhờ một trong những thợ kim hoàn giỏi nhất London làm bẫy chuột cho cô ư?” Kit chế giễu. “Nếu cô thừa tiền, phu nhân Roydon, tôi hy vọng cô sẽ cho phép tôi đảm nhiệm một cuộc thí nghiệm giả kim thuật hộ cô. Tôi sẽ chuyển hóa bạc và vàng thành rượu vang ở Cardinal’Hat!”

“Nó là bẫy loài gặm nhấm, không phải bẫy chuột,” tôi lẩm bẩm.

“anh có thể xem cái bẫy cho loài gặm nhấm này không?” Giọng điệu Matthew trơn tru báo hiệu điềm xấu.

Tôi cởi bỏ lớp bọc cuối cùng và lấy ra thứ đang là chủ đề nghi vấn.

“Mạ bạc và được trạm trổ nữa,” Matthew nói rồi cầm lấy lật ngược nó lên. Sau khi nhìn ngắm kỹ càng, anh chửi thề. “‘Ars longa, vita brevis.’ Nghệ thuật là bền lâu, còn cuộc đời thật ngắn ngủi. Quả là thế.”

“Chắc là sẽ rất hiệu quả đấy.” Mẫu thiết kế tinh vi của Monsieur Vallin tương tự như một con mèo đang cảnh giác, với đôi tai thính nhạy hoạt động trên khớp bản lề, một đôi mắt mở to được khắc vào thanh chống ngang. Các đường viền ngoài của chiếc bẫy tương tự như một cái miệng, được hoàn thiện thêm với những chiếc răng nhọn nguy hiểm. Nó gợi cho tôi nhớ đến con mèo của dì Sarah, Tabitha. Vallin đã thêm vào đôi chút kỳ quái bằng cách đặt một con chuột bạc trên mũi con mèo. Sinh vật nhỏ xíu đó trông chẳng có gì giống với mấy con quái vật răng sắc nhọn vẫn lảng vảng trên gác mái cả. Cứ nghĩ đến chúng đang nhai tóp tép những giấy tờ của Matthew khi chúng tôi ngủ là tôi rùng mình.

“Nhìn này, ông ta còn trạm trổ cả phía dưới nữa này,” Kit nói, lần theo con chuột đồ chơi đi quanh bệ cái bẫy. “Nó là phần còn lại của câu cách ngôn Hippocrates – và bằng tiếng La tinh, hẳn hoi. ‘Occasio præceps, experimentum periculosum, iudicium difficile.’”

“Nó có lẽ là một câu miêu tả ủy mị quá mức, căn cứ vào mục đích sử dụng của công cụ này,” tôi nhận xét.

“Ủy mị ư?” Lông mày Matthew nhướng lên. “Nhìn từ quan điểm của lũ gặm nhấm, nó nghe có vẻ khá thực tế đấy: Thời cơ là chớp nhoáng, thử nghiệm là nguy hiểm, và phán xét thật khó khăn.” Môi anh cong lên.

“Vallin đã tranh thủ lợi dụng cô rồi, phu nhân Roydon,” Kit tuyên bố. “anh nên từ chối thanh toán, Matt ạ, và gửi trả lại cái bẫy này.”

“không!” tôi phản đối. “không phải lỗi của ông ấy. Chúng tôi đang trò chuyện về đồng hồ và Monsieur Vallin chỉ cho tôi xem vài mẫu rất đẹp. Tôi cũng chia sẻ với ông ta cuốn sách nhỏ mua ở cửa hàng của John Chandler trên Cripplegate – chính là cuốn hướng dẫn cách bắt động vật gây hại – và kể với Monsieur Vallin về vấn đề chuột gặm nhấm ở chỗ chúng ta. Chuyện này dẫn tới chuyện kia.” Tôi nhìn xuống cái bẫy. Nó thật sự là một thành quả khéo léo phi thường, với những bánh răng và lò xo nhỏ xíu.

“Cả London có vấn nạn với lũ chuột,” Matthew nói, cố gắng kiểm soát mình. “Nhưng anh biết không ai lại yêu cầu một món đồ chơi mạ bạc để giải quyết nó cả. Vài con mèo có khả năng bắt chuột là đủ rồi.”

“Em sẽ trả tiền cho ông ấy, Matthew.” Làm vậy cũng có nghĩa là tôi phải vét sạch ví tiền của mình và tôi sẽ buộc phải yêu cầu Walter đưa thêm tiền, nhưng không có cách nào khác. Kinh nghiệm luôn có giá của nó. Đôi khi nó cũng tốn tiền mà. Tôi chìa tay ra lấy cái bẫy.

“Có phải Vallin thiết kế nó để báo giờ không? Nếu thế, nó sẽ là chiếc đồng hồ duy nhất trên thế giới kết hợp việc báo giờ và dụng cụ kiểm soát loài vật gây hại đấy. Có lẽ cái giá này cũng công bằng thôi.” Matthew cố gắng tỏ ra cau có, nhưng khuôn mặt anh lại cứ toe toét. Thay vì đưa cho tôi cái bẫy, anh cầm lấy tay tôi, đưa nó lên môi hôn. “anh sẽ thanh toán hóa đơn này, mon coeur, chỉ để có quyền trêu ghẹo em trong vòng sáu mươi năm tới.”

Đúng lúc đó, George hối hả đi vào tiền sảnh. một luồng không khí lạnh giá ùa vào cùng anh chàng.

“Tôi có tin tức đây!” anh chàng ném áo choàng sang một bên, làm dáng bộ tự hào.

Kit rên lên và đưa hai tay ôm đầu. “Đừng nói với tôi, cái gã Ponsonby ngu ngốc đó hài lòng với bản dịch Homer của anh và muốn xuất bản mà không cần chỉnh sửa thêm.”

“không phải ngay cả cậu cũng cố làm lu mờ niềm vui sướng của tôi trong những thành công ngày hôm nay chứ, Kit.” George nhìn quanh mong đợi. “Thế nào? không ai trong các vị hiếu kỳ tẹo nào à?”

“Tin tức của anh là gì hả George?” Matthew lơ đãng vừa hỏi, vừa tung hứng cái bẫy.

“Tôi đã tìm được cuốn cổ thư của bà Roydon rồi.”

Nắm tay Matthew trên cái bẫy chuột siết chặt. Bộ phận lò xo bật mở. Khi anh thả lỏng tay, nó rơi xuống bàn đánh cạch một tiếng và đóng sập lại như cũ. “Ở đâu?”

George bước giật lùi ra sau theo bản năng. Tôi vẫn đang ngẩn ra với câu hỏi cuối cùng của chồng mình và trong lòng hiểu rõ cảm giác bất an là thế nào, khi đón nhận đầy đủ luồng chú ý của ma cà rồng.

“Tôi biết anh chính là người tìm ra nó,” tôi nồng nhiệt nói với George và đặt tay lên cổ tay áo Matthew để nhắc anh chậm lại. George được xoa dịu như dự đoán, anh chàng quay trở về bên cạnh bàn, kéo ghế ra và ngồi xuống.

“sự giãi bày của cô có ý nghĩa rất lớn đối với tôi, bà Roydon ạ,” George nói rồi tháo găng tay. anh chàng khịt mũi. “không phải ai cũng chia sẻ điều đó đâu.”

“Nó. Ở. Đâu?” Matthew chậm rãi hỏi, quai hàm nghiến chặt lại.

“Nó ở chỗ hiển nhiên nhất ai cũng có thể tưởng tượng ra, xa tận chân trời nhưng gần ngay trước mặt. Tôi cũng khá kinh ngạc khi chúng ta không nghĩ ngay ra.” anh chàng ngừng lại một lần nữa để chắc chắn mọi người đều hoàn toàn chú ý. Matthew phát ra một tiếng gầm gừ thất vọng thấy rõ.

“George,” Kit nhắc nhở. “Matthew nổi tiếng là biết cắn đấy nhá.”

“Tiến sĩ Dee giữ nó,” George buột thốt ra khi Matthew nhích người tới.

“Nhà chiêm tinh của nữ hoàng,” tôi nói. George đã đúng: Chúng tôi đáng lẽ nên nghĩ đến người đàn ông này từ lâu mới phải. Dee cũng là một nhà giả kim – và có thư viện lớn nhất ở anh. “Nhưng ông ta đang ở châu Âu.”

“Tiến sĩ Dee đã trở về từ một năm trước rồi. Ông ta hiện đang sống bên ngoài London.”

“Làm ơn nói với em ông ta không phải phù thủy, yêu tinh, hay ma cà rồng đi,” tôi khẩn cầu.

“hắn ta chỉ là con người thôi – và là một kẻ cực kỳ gian trá,” Marlowe nói. “Tôi sẽ không tin tưởng những điều hắn ta nói đâu Matt. hắn từng lợi dụng Edward tội nghiệp một cách đáng ghê tởm, buộc anh ta nhìn chăm chú vào các viên đá phá lê và nói chuyện với thiên thần về thuật giả kim cả ngày lẫn đêm. Sau đó Dee lấy được tất cả sự tín nhiệm!”

“Edward tội nghiệp ư?” Walter chế giễu, mở cửa bước vào mà không cần được mời hay khách sáo gì cả. Henry Percy đi cùng với anh ta. không một thành viên nào của Bè lũ Bóng Đêm ở cách Hươu Đực và Vương Miện trong vòng một dặm lại cưỡng nổi sức hấp dẫn của chiếc lò sưởi nhà chúng tôi. “Người bạn yêu tinh đã dắt mũi ông ta nhiều năm trời. Tiến sĩ Dee đá đít hắn rất hay, nếu các vị có hỏi ý kiến tôi.” Walter nhặt cái bẫy chuột lên. “Cái gì đây?”

“Nữ thần săn bắn đã chuyển hướng chú ý sang những con mồi nhỏ hơn,” Kit nói kèm theo một điệu cười tự mãn ngớ ngẩn.

“Tại sao, đó là một cái bẫy chuột. Nhưng chẳng ai lại ngu ngốc đến nỗi làm một cái bẫy chuột mạ bạc cả,” Henry nói, ngó qua vai Walter. “Nó trông giống tác phẩm của Nicholas Vallin. Ông ta đã làm cho Essex một cái đồng hồ rất đẹp khi anh ta trở thành Hiệp sĩ Garter. Đây có phải một kiểu đồ chơi trẻ con không?”

Nắm đấm của chàng ma cà rồng nện lên chiếc bàn của tôi, làm nứt cả gỗ.

“George,” Matthew gầm lên, “kể cho chúng tôi nghe về tiến sĩ Dee.”

“À. Đúng rồi. Tất nhiên rồi. Cũng không có gì nhiều để kể. Tôi đã làm như những gì anh yêu cầu,” George lắp bắp. “Tôi ghé vào các quầy bán sách, nhưng không có thông tin nào. Trò chuyện về một tập thơ Hy Lạp được bán nghe có vẻ nhiều hứa hẹn đối với bản dịch của tôi – nhưng tôi lại lạc đề rồi.” George ngừng lại và nuốt nước miếng. “Bà góa Jugge gợi ý tôi nên nói chuyện với John Hester, nhà pha chế dược ở bến tàu Paul. Hester chỉ tôi đến chỗ Hugh Plat – các vị biết đấy, người bán rượu vang sống ở St. James Garlickhythe ấy.” Tôi bám sát theo chuyến hành hương trí tuệ phức tạp này, hy vọng có thể tái dựng hành trình của George khi lần tới tôi đến thăm Susanna. Có thể bà ấy và Plat là hàng xóm của nhau.

“Plat cũng tệ như Will,” Walter lẩm bẩm nói, “mãi mãi viết ra những thứ mà chẳng cái nào anh ta thật sự quan tâm. Gã đó đã hỏi phương pháp làm bánh nướng của mẹ tôi.”

“Ông Plat nói rằng, tiến sĩ Dee có một cuốn sách từ thư viện của hoàng đế. không người nào có thể đọc được nó và trong đó cũng có những bức hình kỳ lạ nữa,” George giải thích. “Plat đã thấy nó khi đến nhà tiến sĩ Dee để xin hướng dẫn trong lĩnh vực giả kim thuật.” Matthew và tôi nhìn nhau.

“Có thể lắm, Matthew,” tôi hạ thấp giọng. “Elias Ashmole đã lần theo những gì còn lại từ thư viện của Dee sau khi ông ta chết và ông ta đặc biệt hứng thú với các cuốn sách về giả kim thuật.”

“Dee chết. Và làm thế nào một tiến sĩ tài giỏi đối mặt với kết cục của mình được, bà Roydon?” Marlowe khẽ khàng hỏi, đôi mắt nâu nhìn thẳng vào tôi. Henry, người vốn chẳng nghe thấy câu hỏi của Kit, đã nói ngay trước khi tôi kịp trả lời.

“Tôi sẽ xin được xem nó,” Henry nói, gật đầu dáng vẻ quả quyết. “Cũng dễ dàng sắp xếp trên đường tôi trở về Richmond và chỗ nữ hoàng.”

“anh có lẽ không thể nhận ra nó đâu, Hal,” Matthew nói, cũng phớt lờ Kit, mặc dù anh đã nghe thấy anh ta nói. “Tôi sẽ đi cùng anh.”

“anh cũng chưa nhìn thấy nó mà.” Tôi lắc đầu, hy vọng thả lỏng được ánh mắt chằm chằm như thúc vào người của Marlowe. “Bên cạnh đó, nếu có một chuyến viếng thăm tới chỗ John Dee, em sẽ đi.”

“Em không cần phải tặng anh cái nhìn dữ tợn đó, ma lionne. anh biết rõ không gì thuyết phục được em để mặc chuyện này cho anh xử lý. Nhất là khi có liên quan đến những cuốn sách và một nhà giả kim thuật.” Matthew giơ ngón tay lên vẻ răn dạy. “Nhưng không được có câu hỏi. Hiểu chứ?” anh ấy đã thấy tình trạng lộn xộn do phép thuật có thể dẫn đến kết quả như thế nào.

Tôi gật đầu, nhưng các ngón tay bắt chéo nhau giấu dưới nếp váy, đó là một loại chú cổ xưa để né tránh hậu quả ma quái do việc làm đảo lộn sự thật.

“không có câu hỏi nào đến từ bà Roydon ư?” Walter lẩm bẩm. “Tôi ước gì anh gặp may mắn với vụ đó, Matt ạ.”

***

Mortlake là một thôn xóm nhỏ trên sông Thames tọa lạc giữa London và cung điện của nữ hoàng ở Richmond. Chúng tôi làm một chuyến đi trên chiếc xuồng của Bá tước xứ Northumberland, một chiếc thuyền lớn lộng lẫy với tám tay chèo, chỗ ngồi có đệm, và những chiếc rèm che để tránh không khí ẩm ướt. Nó là một hành trình khá dễ chịu – không kể đến cảm giác an tĩnh – so với cảm giác tôi đã quen khi Gallowglass cầm mái chèo.

Chúng tôi đã gửi một lá thư đi trước báo cho Dee biết dự định viếng thăm của chúng tôi. Bà Dee, như Henry giải thích với dáng vẻ thanh nhã hết sức, không đánh giá cao những vị khách đổ bộ đến mà không thông báo. Mặc dù tôi có thể thông cảm, nhưng chuyện này cũng thật không khác thường giữa thời đại mà việc mở rộng cửa đón khách chính là luật lệ.

“Gia chủ này có phần… không theo đúng lễ tục bởi tiến sĩ Dee bị đeo đuổi nhiều quá,” Henry giải thích, mặt hơi ửng hồng. “Và bọn họ khá đông con. Thường thì khá là… hỗn loạn.”

“Quá đông cho nên người hầu nhà này nổi tiếng là toàn tự lao đầu xuống giếng,” Matthew mỉa mai nhận xét.

“Đúng thế. Cái đó thật không may. Tôi nghi ngờ việc như thế cũng sẽ xảy ra trong chuyến viếng thăm của chúng ta,” Henry lầu bầu.

Tôi không quan tâm đến tình trạng gia đình này. Chúng đang ở bên ranh giới có thể giải đáp rất nhiều nghi vấn: Tại sao cuốn sách này lại được săn tìm đến thế, liệu nó có thể cho chúng tôi biết nhiều hơn về vấn đề làm thế nào các sinh vật chúng ta lại xuất hiện trên đời này. Và dĩ nhiên Matthew tin rằng nó có thể đưa ra ánh sáng lý do vì sao chúng tôi – những sinh vật ở thế giới khác – lại sắp sửa tuyệt chủng trong thời hiện đại.

không biết có phải vì ưu ái hay để tránh lũ con vô tổ chức của mình mà tiến sĩ Dee đang thong thả tản bộ trong khu vườn có tường gạch vây quanh của ông như thể đang giữa mùa hè chứ không phải mới cuối tháng một. Ông ta mặc một chiếc áo choàng đen của học giả, đội cái mũ trùm vừa khít đầu và kéo chùng xuống cổ, bên ngoài là chiếc mũ bê rê. một bộ râu dài trắng tinh thò ra từ dưới cằm, hai cánh tay chắp sau lưng khi ông chậm rãi đi quanh khu vườn cằn cỗi.

“Tiến sĩ Dee ư?” Henry gọi với qua bờ tường.

“Đức ngài Northumberland! Tôi tin là ngài đang rất khỏe mạnh?” Giọng Dee khẽ khàng và có vẻ dễ cáu, mặc dù ông ta đã chú ý (gần như là thế) để sửa lại cho nó nhẹ nhàng hơn vì địa vị của Henry. Ông ta bỏ chiếc mũ bê rê ra và quét một đường cúi chào.

“Khá tốt đối với thời điểm này trong năm, tiến sĩ Dee. Dù vậy, chúng tôi có mặt ở đây không phải vì sức khỏe của tôi đâu. Tôi có những người bạn cùng đi, như tôi đã giải thích trong thư. Để tôi giới thiệu với ông.”

“Tiến sĩ Dee và tôi đã có quen biết rồi.” Matthew tặng cho Dee một nụ cười như hung hiểm và hơi cúi đầu. anh biết mọi sinh vật kỳ lạ khác ở thời này. Vậy tại sao lại không biết Dee cơ chứ?

“Ông Roydon,” Dee nói vẻ cảnh giác.

“Đây là vợ tôi, Diana,” Matthew nói, nghiêng đầu về phía tôi. “cô ấy là bạn của Nữ bá tước Pembroke và đã tham gia cùng lệnh bà trong các cuộc theo đuổi thuật giả kim.”

“Nữ bá tước Pembroke và tôi có thư từ qua lại trao đổi về các vấn đề liên quan đến giả kim thuật.” Dee đã hoàn toàn quên bẵng tôi và tập trung vào mối liên hệ gần gũi của ông ta với một bậc công khanh của vương quốc. “Lời nhắn của ngài đề cập ngài muốn xem một trong các cuốn sách của tôi, Đức ngài Northumberland. Có phải ngài đến đây thay mặt cho lệnh bà Pembroke không?”

Trước khi Henry kịp đáp lời, một phụ nữ gương mặt lạnh lùng, hông đẫy đà đi ra khỏi nhà trong bộ áo dài màu nâu sẫm viền lông thú được thấy khá nhiều trong những ngày này. Bà ta trông có vẻ khó chịu, bực bội, rồi phát hiện thấy Bá tước Northumberland bèn dán lên mặt một vẻ nồng nhiệt chào đón.

“Và đây là bà vợ yêu quý của tôi,” Dee nói vẻ bồn chồn. “Bá tước Northumberland và ông Roydon đã đến đây rồi, Jane,” ông ta nói to.

“Sao ông không mời họ vào trong nhà?” Jane cau có, vặn xoắn hai bàn tay vẻ khổ sở. “Họ sẽ nghĩ chúng ta không sẵn lòng đón khách, điều mà dĩ nhiên chúng ta lúc nào cũng sẵn sàng. Có nhiều người đến hỏi ý kiến của chồng tôi, thưa đức ngài.”

“Vâng. Cũng chính lý do đó mang chúng tôi tới đây. Tôi thấy là bà rất khỏe, bà Dee. Và tôi được biết từ ông Roydon rằng nữ hoàng gần đây đã ban vinh dự cho ngôi nhà của các vị bằng một chuyến viếng thăm.”

Jane hài lòng. “Quả là thế. John đã gặp bệ hạ ba lần kể từ tháng Mười một. Hai lần cuối người bất ngờ đến cổng nhà chúng tôi khi trên đường đến Richmond.”

“Bệ hạ thật hào phóng với chúng tôi vào dịp Giáng Sinh vừa qua,” Dee nói. Ông ta vặn xoắn cái mũ bê rê trong hai bàn tay. Jane nhìn ông ta thái độ cáu kỉnh. “Chúng tôi đã nghĩ… nhưng chuyện không quan trọng.”

“Thú vị, thật thú vị,” Henry nói nhanh, giải cứu cho Dee khỏi bất cứ nguy cơ khó xử nào. “Nhưng nói chuyện vậy đủ rồi. Chúng tôi còn mong muốn được xem một cuốn sách đặc biệt…”

“Thư viện của chồng tôi còn được quý trọng hơn cả ông ấy nữa!” Jane sưng sỉa nói.

“Chi phí của chúng tôi trong chuyến viếng thăm hoàng đế đã đến mức tột cùng, mà chúng tôi còn có bao nhiêu là miệng ăn. Nữ hoàng đã nói sẽ giúp đỡ chúng tôi. Người quả đã ban tặng chúng tôi một phần thưởng nhỏ nhưng còn hứa hẹn nhiều hơn.”

“không nghi ngờ gì nữ hoàng đã bị xao nhãng bởi nhiều vấn đề quan tâm cấp bách hơn.” Matthew cầm một cái bao nhỏ, nặng trĩu trên tay. “Tôi có một khoản ngang bằng với món quà của người ở đây. Và tôi đánh giá cao chồng bà, bà Dee ạ, không chỉ là những cuốn sách của ông ấy thôi đâu. Tôi đã bổ sung thêm phần bệ hạ dành cho những nỗi khó nhọc của ông ấy vì lợi ích của chúng ta.”

“Tôi… tôi cảm ơn ông, ông Roydon,” Dee lắp bắp, liếc mắt trao đổi với vợ. “Ông thật tử tế đã lo lắng đến công việc của nữ hoàng. Dĩ nhiên là các vấn đề cấp thiết luôn cần được ưu tiên trước khó khăn của chúng tôi.”

“Nữ hoàng bệ hạ không quên những bày tôi tận tụy của người,” Matthew nói. Chuyện đó rành rành là không có thực, như mọi người đang đứng trong khu vườn đầy tuyết này đều biết thế, nhưng đấy không phải vấn đề.

“Các vị phải vào nhà thư giãn bên bếp lửa ấm đã,” Jane nói, lòng nhiệt tình hiếu khách của bà ta tăng lên nhanh chóng. “Tôi sẽ mang tới rượu vang và sẽ lưu tâm để các vị không bị làm phiền.” Bà ta nhún gối chào với Henry, và thậm chí còn cúi thấp hơn nữa trước Matthew, sau đó đi giật lùi về phía cửa ra vào. “Thôi nào, John. Họ sẽ đông thành đá mất nếu ông giữ họ ngoài này lâu hơn nữa đấy.”

Hai mươi phút ở trong ngôi nhà của Dee đã chứng minh rằng chủ nhân và bà chủ của nó là đại diện cho nòi giống kỳ dị của những người đã kết hôn nhưng cãi vã liên miên chứ không phải những kẻ thiển cận và tính tình độc ác, trong khi vẫn luôn cống hiến. Họ trao đổi những lời bình phẩm có gai trong khi chúng tôi tỏ lòng ngưỡng mộ những tấm thảm mới (một món quà từ phu nhân Walsingham), bình đựng rượu mới (một món quà từ ngài Christopher Hatton), và lọ đựng muối bằng bạc mới (một món quà từ Nữ Hầu tước Northampton). Những món quà phô trương và lời lẽ công kích dữ dội chi phối cả cuộc gặp, chúng tôi – mãi đến cuối cùng – mới được dẫn vào thư viện.

“anh sẽ rất vất vả mới có thể mang em ra khỏi đây mất,” Matthew thì thầm, nhoẻn miệng cười trước vẻ mặt thắc mắc của tôi.

Thư viện của John Dee không giống tẹo nào với những gì tôi tưởng. Tôi đã hình dung nó trông giống một cái thư viện riêng thuộc về một quý ông giàu có thế kỷ mười chín – thế nhưng lúc này nó làm tôi chấn động như hoàn toàn không phòng bị gì. Nơi này không có không gian quý phái để hút tẩu và đọc sách bên lò sưởi. Chỉ có những cây nến soi sáng, căn phòng tối đến kinh ngạc vào ngày mùa đông này. Vài chiếc ghế bành và một cái bàn dày để sẵn dành cho người đọc cạnh một khung cửa sổ lồi quay về hướng nam. Các bức tường trong phòng treo những tấm bản đồ, biểu đồ thiên tinh, sơ đồ giải phẫu, và những tờ niên lịch có thể thấy ở mỗi cửa hiệu pha chế dược hay hiệu sách trong London với giá vài xu. Hàng thập kỷ đang được bày ra, đoán chừng chúng được duy trì y nguyên như một bộ sưu tập nhắc nhở đến thời điểm Dee vẽ một lá số tử vi dự đoán hay làm những tính toán khác liên quan đến thiên văn học.

Dee sở hữu nhiều sách hơn cả trường đại học Oxford hay Cambridge, và ông ta yêu cầu một thư viện hoạt động hiệu quả – chứ không phải chỉ để trưng bày. không ngạc nhiên, những gì có giá trị nhất đều ở trên giá sách. Để tận dụng tối đa những gì có sẵn, các giá sách của Dee đứng độc lập và đặt vuông góc với các bức tường. Giá sách bằng gỗ sồi giản dị có hai mặt, chiều cao phong phú để giữ các cuốn sách có kích thước khác nhau thời Elizabeth.

“Lạy Chúa tôi!” Tôi thì thào. Dee khiếp đảm quay lại trước câu thề nguyện gọi tên Chúa của tôi.

“Vợ tôi đang bị choáng ngợp, ông Dee ạ,” Matthew giải thích. “cô ấy chưa bao giờ ở trong một thư viện vĩ đại đến thế này.”

“Có rất nhiều thư viện rộng lớn và giá trị hơn thư viện của tôi, bà Roydon ạ.”

Jane Dee đến vừa đúng lúc làm chệch hướng cuộc trò chuyện sang những món đồ sứ trong ngôi nhà.

“Thư viện của hoàng đế Rudolf rất đẹp,” Jane nói, chuyển qua mời chúng tôi một khay rượu và đồ ăn ngọt. “Cho dù thế, ngài ấy cũng không nên trộm của John mấy cuốn sách hay nhất. Hoàng đế lợi dụng sự rộng lượng của chồng tôi, và chúng tôi mong có chút tiền bồi thường.”

“Jane,” John quở trách, “hoàng đế bệ hạ đã trả lại một cuốn sách cho chúng ta rồi.”

“Cuốn sách gì thế?” Matthew cẩn thận hỏi.

“một văn bản hiếm có,” Dee nói vẻ không vui, quan sát dáng vẻ rút lui của vợ mình khi bà ta hướng về phía chiếc bàn.

“Chẳng có gì ngoài những câu sai ngữ pháp cả!” Jane vặn lại.

Ashmole 782. Nhất định phải là nó.

“Ông Plat đã kể với chúng tôi về một cuốn sách như thế. Đó là lý do chúng tôi có mặt ở đây. Có lẽ chúng tôi có thể tận hưởng lòng hiếu khách của bà nhà trước sau đó xem cuốn sách của hoàng đế được không?” Matthew gợi ý, xoa dịu như vuốt râu mèo. anh đưa cánh tay ra, tôi nắm lấy siết thật chặt.

Trong khi Jane cuống quýt rót rượu, giải thích về giá của quả hạch vào mùa lễ hội và cửa hàng thực phẩm đã đẩy bà ta đến bờ vực phá sản như thế nào thì Dee bắt đầu tìm cuốn Ashmole 782. Ông ta rà tìm các giá trên một tủ sách và lôi ra một cuốn.

“không phải nó,” tôi thì thào với Matthew. Nó quá nhỏ.

Dee ném phịch cuốn sách lên bàn trước mặt Matthew và nâng cái bìa da mềm oặt lên.

“Thấy không. Trong đây toàn thứ vô dụng, từ ngữ thì vô nghĩa và những bức hình phụ nữ tắm dâm tục.” Jane đằng hắng từ ngoài phòng, cằn nhằn và lắc đầu.

Đây không phải là Ashomole 782, dù sao nó cũng không phải là cuốn sách mà tôi biết: cuốn cổ thư Voynich, còn được biết đến là cuốn Beinecke MS 408 của đại học Yale. Nội dung trong cuốn sách là một điều bí ẩn. Chưa có nhà giải mã hay nhà ngôn ngữ học nào khám phá ra văn bản này nói gì, còn các nhà thực vật học thì không thể nhận dạng được các loài cây trong này. Có rất nhiều giả thuyết để giải thích cho các bí ẩn của nó, bao gồm một ý kiến cho rằng nó được người ngoài hành tinh viết ra. Tôi buông một tiếng kêu thất vọng.

“không ư?” Matthew hỏi. Tôi lắc đầu và cắn môi vẻ chán nản. Dee hiểu thầm vẻ mặt của tôi là khó chịu với Jane, ông ta vội ồn ào giải thích.

“Xin thứ lỗi cho vợ tôi. Jane thấy cuốn sách này đáng lo ngại nhất, vì nó được bà ấy tìm thấy trong đống hộp khi chúng tôi từ vùng đất của hoàng đế trở về. Tôi đã mang một cuốn sách khác theo trong chuyến đi này – một cuốn sách giá trị về giả kim thuật từng thuộc về một pháp sư vĩ đại người anh Roger Bacon. Nó lớn hơn cuốn sách này, và chứa nhiều điều kỳ diệu trong đó.” Tôi nhổm người tới trước trên ghế ngồi.

“Người phụ tá của tôi, Edward, có thể hiểu được văn bản đó với sự trợ giúp của thần linh mặc dù tôi không thể,” Dee tiếp tục. “Trước khi chúng tôi rời Praha, hoàng đế Rudolf đã bày tỏ sự quan tâm đối với tác phẩm này. Edward đã kể cho người vài bí mật chứa trong đó – về nguồn gốc kim loại và phương pháp bí mật để có được sự bất tử.”

Vậy rốt cuộc Dee đã từng sở hữu Ashmole 782. Và người phụ tá yêu tinh của ông ta, Edward Kelley, có thể đọc được văn bản đó. Hai bàn tay tôi run lẩy bẩy vì kích động, tôi giấu chúng dưới các nếp váy.

“Edward đã giúp Jane đóng gói cuốn sách của tôi khi chúng tôi được lệnh về nhà. Jane tin rằng Edward đã ăn cắp cuốn sách và thay thế nó bằng thứ này lấy từ bộ sưu tập của đức bệ hạ.” Dee ngập ngừng, trông thật buồn rầu. “Tôi không muốn nghĩ xấu về Edward, vì anh ta là đồng sự tin cậy của tôi và chúng tôi đã trải qua thời gian dài cùng nhau. anh ta và Jane chưa bao giờ hòa hợp, và lúc đầu tôi đã bác bỏ giả thuyết của bà ấy.”

“Nhưng giờ ông nghĩ nó có khả năng,” Matthew nhận xét.

“Tôi điểm lại các sự kiện những ngày gần đây của chúng tôi, ông Roydon ạ, cố gắng nhớ lại một chi tiết có thể miễn tội cho người bạn của mình. Nhưng mọi điều tôi nhớ ra đều càng thêm quả quyết tội lỗi hướng về phía anh ta.” Dee thở dài.

“Nhưng, văn bản này có lẽ chưa chứng minh được là nó chứa các bí mật đáng giá.”

Matthew lật qua các trang. “Có những con quái vật đuôi rắn, mình dê, đầu sư tử,” anh nói, vừa quan sát kỹ các bức hình vẽ cây cối. “Lá cây, thân cây và hoa như đã bị ghép từ các loài cây khác nhau.”

“Những thứ này thì sao?” Tôi hỏi, chuyển tới các mô hình chiêm tinh hình tròn tiếp sau đó. Tôi nhìn kỹ những chữ viết tay ở chính giữa. thật buồn cười. Tôi đã xem cuốn cổ thư này nhiều lần trước đây mà chưa bao giờ chú ý tẹo nào tới các ghi chú cả.

“Các mô tả này được viết bằng tiếng Occitania cổ,” Matthew lặng lẽ nói. “Tôi từng biết người có chữ viết tay giống thế này. Ông có tình cờ gặp một quý ông đến từ Aurillac trong khi ông triều kiến hoàng đế không?”

Có phải anh ấy đang ám chỉ Gerbert? sự kích động của tôi chuyển thành lo lắng bất an. Có phải Gerbert đã nhầm lẫn cuốn cổ thư Voynich với cuốn sách bí ẩn về nguồn gốc các loài không? Câu hỏi của tôi vừa nảy ra, bản viết tay ở trung tâm sơ đồ thiên văn học bắt đầu run rẩy. Tôi chộp lấy cuốn sách đóng sập vào để ngăn nó không nhảy xuống khỏi trang sách.

“không có, ông Roydon,” Dee nhíu mày đáp. “Nếu có, tôi sẽ hỏi ông ta về vị pháp sư lừng danh đến từ nơi đó và rồi trở thành đức giáo hoàng. Có nhiều sự thật bị che giấu trong những câu chuyện cổ được kể quanh bếp lửa.”

“Đúng thế,” Matthew đồng ý, “miễn là chúng ta đủ khôn ngoan để nhận ra chúng.”

“Đó là lý do vì sao tôi vô cùng hối hận khi để mất cuốn sách của mình. Nó đã từng thuộc sở hữu của Roger Bacon, và tôi nghe người phụ nữ đã bán cuốn sách đó kể lại rằng ông ta treo giải thưởng cho nó để nắm giữ các sự thật thần thánh. Bacon gọi nó là Verum Secretum Secretorum.” Dee đăm chiêu nhìn cuốn cổ thư Voynich. “Ước mơ tha thiết nhất của tôi là có lại nó.”

“Có lẽ tôi có thể giúp được gì đó,” Matthew nói.

“Ông ư, Roydon?”

“Nếu ông cho phép tôi mang cuốn sách này đi, tôi có thể thử trả nó về nơi cũ và để cuốn sách của ông trở về với chính chủ.” Matthew kéo cuốn sách về phía anh.

“Tôi sẽ mãi mãi chịu ơn ngài, thưa ngài,” Dee nói, đồng ý với thỏa thuận này mà không thương lượng gì thêm.

***

Ngay phút chúng tôi ra khỏi khu vực công cộng đổ bộ vào Mortlake, tôi bắt đầu tấn công Matthew hàng tràng câu hỏi.

“anh đang nghĩ gì vậy, Matthew? anh không thể chỉ đóng gói cuốn cổ thư Voynich này và gửi nó tới cho Rudolf kèm một lời nhắn buộc tội ông ta chơi trò nước đôi. anh sẽ phải tìm một người đủ điên rồ mạo hiểm mạng sống để đột nhập vào thư viện của Rudolf và đánh cắp Ashmole 782.”

“Nếu Rudolf có Ashmole 782 thì nó cũng không ở trong thư viện của ông ta. Nó sẽ ở trong ngăn kéo đựng những món đồ hiếm lạ,” Matthew lơ đãng nói, mắt nhìn đăm đăm vào làn nước.

“Vậy cuốn Voynich này… không phải là cuốn sách hai người đang tìm kiếm à?” Henry vẫn theo dõi cuộc trao đổi của chúng tôi với vẻ quan tâm lịch sự. “George sẽ rất thất vọng khi không giải quyết được bí ẩn của hai người.”

“George có lẽ không giải quyết được, Hal, nhưng cậu ta đã làm sáng tỏ thêm nhiều rồi,” Matthew nói. “Kết hợp người của cha tôi và của tôi, chúng ta sẽ tìm được cuốn sách bị mất của Dee.”

Chúng tôi đón thủy triều trở lại thành phố, nhờ vậy mà chuyến trở về được tăng tốc nhanh hơn. Đuốc đã được thắp sáng trên Hẻm Water ở nơi cập bờ đón chúng tôi về, nhưng bỗng có hai người đàn ông trong bộ chế phục của nữ bá tước Pembroke vẫy chúng tôi.

“Lâu đài Baynard, xin làm ơn, ông Roydon!” một người gọi vọng qua sông.

“Chắc có chuyện không ổn rồi,” Matthew nói, đứng ở mũi thuyền. Henry chỉ thị cho các tay chèo tăng tốc đi xuôi dòng sông hướng tới bến đáp thuyền của nữ bá tước, cũng đang được thắp sáng trưng bằng đèn hiệu và đèn lồng.

“Có chuyện với cậu bé nào rồi ư?” Tôi hỏi Mary khi cô ấy chạy hối hả xuôi hành lang để gặp chúng tôi.

“không. Chúng đều khỏe. Hãy đến phòng thí nghiệm đi. Ngay lập tức.” Mary ngoái đầu gọi với lại, xoay người quay trở về phía ngọn tháp.

Quang cảnh đón chào chúng tôi ở đó đủ để khiến cả Matthew và tôi thở hắt ra kinh ngạc.

“một cây Dianæ hoàn toàn ngoài mong đợi,” Mary vừa nói vừa cúi xuống để tầm mắt ngang bằng với cái khoang hình củ hành ở đáy vạc, giữ bộ rễ của một cái cây màu đen. không giống cây Dianæ đầu tiên hoàn toàn bằng bạc và có cấu trúc tinh tế hơn nhiều. Cây này chắc khỏe mập mạp, vỏ cây màu tối sẫm, cành to trần trụi gợi tôi nhớ tới cây sồi ở Madison đã che chắn cho chúng tôi sau cuộc tấn công của Juliette. Tôi đã rút sức sống ra khỏi cái cây đó để cứu Matthew.

“Tại sao nó không phải là bạc?” Matthew hỏi, dùng hai tay bao lấy cái vạc thủy tinh mỏng manh của nữ bá tước.

“Tôi đã dùng máu của Diana,” Mary trả lời. Matthew nhìn thẳng vào tôi với ánh mắt nghi ngờ.

“Hãy nhìn bức tường kia xem,” tôi nói, chỉ vào con rồng lửa đang chảy máu.

“Nó là rồng xanh – biểu tượng cho cường thủy,” anh nói sau khi liếc nhanh qua nó.

“không đâu, Matthew. Hãy nhìn nó đi. Hãy quên những miêu tả về nó trước đây và cố nhìn như lần đầu tiên được trông thấy.”

“Dieu.” Matthew kêu lên choáng váng. “Có phải đó là huy hiệu của anh không?”

“Đúng thế đấy. anh có nhận ra con rồng đã ngậm lấy đuôi nó trong miệng không? Và nó không phải là một con rồng nữa đúng không? Rồng có bốn chân. Đó là một con rồng lửa.”

“một con rồng lửa. Giống như…” Matthew lại chửi thề.

“Có hàng tá giả thuyết khác nhau về vật chất thông thường và thành phần cốt yếu đầu tiên để làm đá tạo vàng. Roger Bacon – người sở hữu cuốn cổ thư mất tích của tiến sĩ Dee – tin nó chính là máu.” Tôi tin chắc mẩu thông tin này sẽ khiến Matthew chú ý. Tôi khom người nhìn cái cây.

“Em đã nhìn bức tranh tường và làm theo bản năng của mình.” Sau một thoáng ngừng lời, Matthew lướt ngón cái dọc theo dấu xi niêm phong của cái bình và phá vỡ dấu xi. Mary thở hắt ra kinh hoàng khi anh phá hủy thí nghiệm của cô ấy.

“anh làm gì thế?” Tôi hỏi, choáng váng.

“Làm theo linh cảm của anh, bổ sung thêm một thứ vào cái vạc này.” Matthew nâng cổ tay đưa lên miệng cắn rồi giơ nó ra phía trên khe mở hẹp kia. Dòng máu đen đậm của anh nhỏ vào dung dịch, chìm xuống đáy bình. Chúng tôi nhìn chằm chằm.

Ngay khi tôi nghĩ sẽ chẳng có gì xảy ra thì những vệt màu đỏ bắt đầu hoạt động lan ngược lên thân cây. Sau đó những chiếc lá bằng vàng nảy chồi từ cành cây.

“Nhìn kìa,” tôi kêu lên kinh ngạc.

Matthew mỉm cười với tôi. Đấy là một nụ cười vẫn thoáng vẻ nuối tiếc, nhưng cũng mang cả hy vọng.

Những trái cây đỏ tươi xuất hiện giữa đám lá, lấp lánh như những viên ruby nhỏ xíu. Mary bắt đầu lầm bầm cầu nguyện, hai mắt mở lớn.

“Máu của em tạo khung xương, còn máu của anh khiến cây kết trái,” tôi thì thầm nói. Bàn tay bất giác sờ vào bụng dưới rỗng không.

“Đúng thế. Nhưng tại sao?” Matthew đáp.

Nếu có thứ gì có thể cho chúng tôi biết sự biến đổi kỳ diệu xảy ra khi phù thủy và wearh kết hợp máu với nhau thì nó chính là những bức hình kỳ lạ và phần văn tự bí ẩn của Ashmole 782.

“anh nói mất bao lâu để lấy cuốn sách của Dee về?” Tôi hỏi Matthew.

“Ồ, anh không nghĩ là sẽ quá lâu đâu,” anh thì thầm. “một khi anh đặt hết tâm trí mình vào đó.”

“Càng sớm càng tốt,” tôi nhẹ nhàng nói, đan ngón tay chúng tôi vào nhau khi quan sát phép màu tiếp tục xảy ra, vậy là máu chúng tôi đã có hiệu quả.