Mật Mã Phù Thủy

Chương 16

Chúng tôi trải qua dịp cuối tuần bình lặng, say sưa với bí mật của bản thân và đắm chìm trong những suy đoán mà tất cả các bậc làm cha làm mẹ đều có. Thành viên mới nhất của gia tộc de Clermont sẽ có mái tóc đen giống cha nó nhưng có cặp mắt xanh của tôi ư? Cậu nhóc sẽ thích khoa học hay lịch sử? Cậu nhóc sẽ khéo tay giống Matthew hay vụng về giống tôi? Về phần giới tính, chúng tôi có những ý kiến khác nhau. Tôi có lòng tin đó là một bé trai, còn Matthew cũng chắc chắn không kém rằng nó là bé gái.

Lúc mệt bã người và vui vẻ, cả hai tạm ngưng các ý nghĩ về tương lai để ngắm nhìn London thế kỷ mười sáu từ những căn phòng ấm áp của mình. Chúng tôi bắt đầu ở các cửa sổ nhìn ra Hẻm Water, nơi tôi ngắm nhìn các tòa tháp tu viện Westminster xa xa, và kết thúc ở hàng ghế bành được kéo dài tới trước cửa sổ phòng ngủ, nơi có thể trông thấy sông Thames. Thời tiết lạnh giá cùng thực tế rằng đây là ngày lễ của người theo Thiên Chúa giáo cũng không ngăn được những người chèo thuyền tiếp tục công việc giao hàng và chở khách qua sông. Tận cuối con phố chúng tôi sống, một nhóm người chèo thuyền thuê túm tụm trên các bậc thềm dẫn xuống bờ sông, còn những con thuyền trống không của họ thì đang nhấp nhô bập bềnh trên sóng nước.

Matthew chia sẻ nhiều kỷ niệm của anh về thành phố này suốt chiều hôm đó trong khi thủy triều lên rồi xuống. anh kể cho tôi có thời điểm ở thế kỷ mười lăm lúc sông Thames đóng băng tới hơn ba tháng trời – lâu đến nỗi các cửa hàng tạm bợ được dựng lên ngay trên mặt băng để phục vụ cho giao thông đường bộ qua sông. anh cũng hồi tưởng lại những năm chưa sản sinh thế hệ sau của mình ở Thavies Inn, nơi anh đã trải qua những năm tháng học luật lần thứ tư và cũng là lần cuối cùng.

“anh mừng rằng em đã trông thấy nó trước khi chúng mình rời khỏi,” anh nói, siết chặt tay tôi. Lần lượt từng cái một, người ta đang thắp sáng đèn, đem treo lên trước mũi thuyền và đặt bên cửa sổ của các ngôi nhà và những quán trọ. “Chúng mình sẽ cố gắng sắp xếp một chuyến thăm Sở giao dịch Hoàng gia.”

“Chúng ta sẽ trở về Woodstock ư?” Tôi bối rối hỏi.

“Có lẽ, trong một thời gian ngắn thôi. Sau đó mình sẽ quay về hiện tại.”

Tôi chằm chằm nhìn anh, quá sửng sốt không nói nên lời.

“Chúng mình không biết được điều gì sẽ xảy đến trong suốt thời kỳ thai nghén, và vì an toàn của em – cả của con nữa – mình cần kiểm tra theo dõi bé con. Cần làm vài xét nghiệm, và tốt nhất là cả siêu âm nữa. Thêm nữa, em cũng nên ở cùng dì Sarah và Emily.”

“Nhưng, Matthew,” tôi phản đối, “chúng ta chưa thể trở về nhà được. Em không biết làm cách nào.” anh quay ngoắt lại.

“Em đã giải thích rõ ràng trước khi chúng mình đi đấy. Để du hành trở về một thời điểm, anh cần ba món đồ để đưa anh tới nơi muốn đến. Để du hành đi tới anh cần có phép thuật, nhưng em không thể làm phép được. Đó là lý do chúng ta đến đây.”

“Em không thể nào mang thai sinh nở ở đây được,” Matthew đứng bật dậy khỏi ghế.

“Phụ nữ thế kỷ mười sáu vẫn có con còn gì,” tôi ôn tồn nói. “Hơn nữa, em không thấy có gì khác nhau cả. Em đâu phải chỉ mang thai vài tuần lễ.”

“Em sẽ có đủ sức mạnh để mang cả con bé và anh trở về tương lai chứ? không, chúng ta cần rời đi càng sớm càng tốt, và tốt hơn hết là trước khi con bé ra đời.” Matthew dừng sững lại. “sẽ ra sao nếu việc du hành thời gian gây tổn hại tới đứa bé theo cách nào đó? Phép thuật là một chuyện, nhưng điều này…” anh thình lình ngồi thụp xuống.

“Chẳng có gì thay đổi cả,” tôi xoa dịu. “Đứa bé không thể lớn hơn một hột thóc đâu. Bây giờ chúng ta đang ở London, không có gì khó khăn trong việc tìm được ai đó giúp em điều khiển phép thuật của mình – chưa nói đến người có thể hiểu về du hành thời gian hơn cả dì Sarah và cô Em.”

“Con bé lớn bằng một hạt đậu lăng rồi.” Matthew dừng lại. anh nghĩ ngợi giây lát rồi đưa ra quyết định. “Tới sáu tuần tất cả quá trình phát triển then chốt của thai nhi sẽ diễn ra. Cái đó sẽ cho em nhiều thời gian.” Giọng điệu anh nói giống bác sĩ hơn là một ông bố. Tôi bắt đầu thấy thích những cơn giận dữ ở thời hiện đại của Matthew hơn là cái tính khách quan theo thói hiện đại của anh.

“Thế thì em chỉ còn vài tuần lễ, nếu em cần bảy tuần thì sao?” Nếu dì Sarah có ở trong phòng này, thì dì sẽ cảnh cáo anh rằng vẻ biết điều của tôi không phải là một dấu hiệu tốt đâu.

“Bảy tuần cũng tốt,” Matthew nói, chìm đắm trong các ý nghĩ riêng mình.

“Ồ, thế à, tốt quá rồi. Em ghét cảm thấy bị dồn ép khi có liên quan đến thứ quan trọng như việc khám phá ra em là ai.” Tôi sải bước tiến về phía anh.

“Diana, cái đó không…”

Lúc này chúng tôi đang đứng, mũi chạm mũi. “Em không có cơ hội là một người mẹ tốt nếu không biết rõ hơn về sức mạnh có trong dòng máu mình.”

“Điều này không hay…”

“anh dám nói chuyện này không tốt cho con không. Em không phải kiểu bình rỗng đâu nhé.” Lúc này tâm trạng của tôi đang sôi sục đây. “Ban đầu anh muốn máu của em cho các thí nghiệm khoa học của mình, giờ thì là đứa bé này.”

Matthew, anh chàng chết tiệt, đứng im lìm đó, tay khoanh trước ngực và cặp mắt xám cứng rắn.

“Thế nào hả?” Tôi hỏi.

“Thế nào cái gì? rõ ràng quyền tham gia đối thoại của anh trong cuộc nói chuyện này không hề có. Em đang nói nốt các câu anh định nói. Em có lẽ cũng bắt đầu luôn ấy chứ.”

“Chuyện này chẳng liên quan gì tới hoóc–môn của em cả,” tôi nói. Tôi từ từ nhận thấy trạng thái đơn độc này có lẽ là bằng chứng cho điều ngược lại.

“anh chẳng nhắc gì cả cho đến khi em đề cập tới nó.”

“Nghe không có vẻ giống thế.”

Lông mày anh nhướng lên.

“Em vẫn là cùng một người như em của ba ngày trước. Việc mang thai không phải là một trạng thái bệnh lý, và nó không loại trừ các lý do chúng ta ở đây. Chúng ta thậm chí còn chưa có một cơ hội thích đáng để tìm kiếm Ashmole 782.”

“Ashmole 782 ư?” Matthew thốt lên âm thanh nôn nóng. “Mọi chuyện đã thay đổi, và em không còn là cùng một người nữa rồi. Ta không thể giữ bí mật việc có thai này vô thời hạn đâu. Chỉ tính theo ngày thôi, rồi mọi ma cà rồng đều sẽ có thể ngửi thấy sự thay đổi trong cơ thể em. Kit sẽ phát hiện ra ngay sau đấy, và anh ta sẽ hỏi về người cha của nó – bởi không thể là anh, đúng không? một phù thủy mang thai sống cùng với một wearth sẽ làm dấy lên tình trạng thù địch của các sinh vật trong thành phố này, ngay cả những kẻ chẳng quan tâm mấy đến hiệp ước kia. sẽ có kẻ phàn nàn với Đại Hội Đồng. Cha anh sẽ yêu cầu chúng ta trở lại Sept–Tours vì sự an toàn của em, và anh không thể chịu đựng được việc nói lời chia tay với ông một lần nữa.” anh cao giọng nói không ngừng nghỉ.

“Em không nghĩ…”

“không,” Matthew cắt ngang, “em không nghĩ. Em không thể nghĩ được. Chúa ơi, Diana. Trước đây, em và anh ở trong một cuộc hôn nhân bị cấm đoán. Điều đó đã là có một không hai rồi. Còn giờ em đang mang con của anh. Đó không chỉ là điều độc nhất duy nhất – các sinh vật khác còn tin là điều không thể. Ba tuần nữa thôi, Diana. không thể nhiều hơn một khắc nào.” anh kiên quyết không xiêu lòng.

“Cho đến lúc đó anh không thể nào tìm được một phù thủy sẵn lòng giúp đỡ đâu,” tôi kháng nghị. “không thể được với những gì đang xảy ra ở Scotland bây giờ.”

“Có ai nói bất kỳ điều gì về chuyện nguyện ý sẵn lòng đâu?” Nụ cười của Matthew làm tôi ớn lạnh.

“Em sẽ sang phòng khách để đọc sách.” Tôi quay người hướng tới phòng ngủ, muốn tránh anh càng xa càng tốt. anh đang đợi sẵn tôi ở lối cửa rồi, cánh tay chắn ngang lối tôi đi.

“anh sẽ không để mất em đâu, Diana,” anh nói, giọng điệu kiên quyết nhưng lặng lẽ. “không phải để tìm kiếm một cuốn cổ thư giả kim thuật và cũng không phải vì một đứa trẻ chưa chào đời.”

“Còn em sẽ không đánh mất chính mình đâu,” tôi đáp trả. “không phải để thỏa mãn nhu cầu điều khiển kiểm soát của anh. Cũng không phải trước khi em tìm ra mình là ai.”

***

Ngày thứ Hai, tôi lại đang ngồi trong phòng khách, lướt qua cuốn The Faerie Queene và đang thất thần chán nản thì cửa phòng mở ra. Có khách viếng thăm. Tôi đóng sập cuốn sách lại vẻ hồ hởi.

“Tôi không nghĩ là mình còn được sưởi ấm một lần nữa,” Walter đứng trong khung cửa, người ướt lướt thướt. George và Henry đi cùng anh, cả hai trông cũng khốn khổ không kém.

“Chào Diana.” Henry hắt hơi, rồi chào tôi bằng một cái cúi đầu trịnh trọng trước khi hướng tới lò sưởi và vươn tay hơ trước lửa kèm theo tiếng rên thỏa mãn.

“Matthew đâu rồi?” Tôi hỏi, ra hiệu cho George vào chỗ ngồi.

“Với Kit. Bọn tôi bỏ họ lại chỗ bán sách.” Walter ra dấu về hướng nhà thờ Thánh Paul. “Tôi đói chết mất. Cái tên Kit học gạo ấy gọi bữa tôi không ăn nổi. Matt nói Françoise nên làm cho chúng tôi thứ gì đó để ăn.” Nụ cười toe toét ranh mãnh đã bóc mẽ lời nói dối của anh ta.

Các anh chàng đang dùng đến món thứ hai và lượt rượu thứ ba thì Matthew về nhà cùng với Kit, một ôm sách trên tay và đầy đủ các mặt tóc biếu không của một trong những thợ cạo pháp sư mà tôi đã nghe nói đến. Bộ ria mới được cắt tỉa gọn gàng của chồng tôi thật hợp với khuôn miệng rộng của anh, còn hàm râu thì rất thời thượng nhỏ gọn tạo hình khéo léo. Pierre theo sau, mang theo bao bố bằng vải lanh đầy những giấy hình vuông và hình chữ nhật.

“Tạ ơn Chúa,” Walter nói, gật gù tán thành bộ râu. “Giờ anh trông mới là anh.”

“Xin chào, em yêu,” Matthew nói, hôn lên má tôi. “Em có nhận ra anh không?”

“Có – mặc dù trông anh giống một tên cướp biển,” tôi cười nói.

“Đúng thế thật, Diana. anh ta và Walter giờ trông như anh em ấy,” Henry công nhận.

“Tại sao anh lại cứ khăng khăng gọi vợ Matthew bằng tên thân mật của cô ấy thế, hả Henry? Bà Roydon đã trở thành người được anh bảo trợ hay sao? Giờ cô ấy là em gái anh rồi ư? Giải thích khác duy nhất là anh đang có ý định quyến rũ đấy,” Marlowe cằn nhằn, ngồi phịch xuống một cái ghế.

“Hãy thôi chọc vào tổ ong đi, Kit,” Walter mắng.

“anh có quà Giáng Sinh muộn đây,” Matthew nói, trượt chồng đồ của mình về phía tôi.

“Sách.” thật bối rối khi cảm thấy sự mới mẻ rõ rành rành từ chúng – tiếng cọt kẹt của gáy sách chặt khít phản đối khi được mở ra lần đầu tiên, mùi giấy và hương mực. Tôi đã quen với việc trông thấy những cuốn sách như thế này trong tình trạng cũ mòn ở các phòng đọc của thư viện, chứ không phải đang nằm trên chiếc bàn nơi chúng tôi dùng bữa. Cuốn sách trên cùng có màu đen thế chỗ cho cuốn vẫn ở Oxford. Cuốn kế tiếp là một bản kinh cầu nguyện thật đẹp. Trang tựa đề được trang trí hoa mỹ và tô điểm bằng một hình ảnh từa tựa như giáo trưởng Jesse của kinh thánh. một cái cây ngả ra xuất hiện từ bụng ông ta. Trán tôi nhăn lại. Tại sao Matthew lại mua cho tôi một cuốn kinh nhỉ?

“Lật trang sách ấy đi,” anh giục, hai tay lặng lẽ áp lên thắt lưng tôi.

Ở mặt bên kia là bản tranh khắc gỗ hình nữ hoàng Elizabeth đang quỳ gối cầu nguyện. Những bộ xương, các hình thuộc về kinh thánh, và những hình tượng kinh điển trang trí cho mỗi trang sách. Cuốn sách là sự kết hợp giữa văn tự và hình ảnh, giống như những chuyên luận về thuật giả kim mà tôi nghiên cứu.

“Đó chính xác là kiểu sách mà một phu nhân đáng kính đã kết hôn sẽ sở hữu,” Matthew nói, toét miệng cười. anh hạ thấp giọng đầy bí ẩn. “Cái đó sẽ thỏa mãn mong muốn của em nhằm giữ vững thể diện bên ngoài. Nhưng đừng lo. Cuốn tiếp theo không đáng kính tẹo nào đâu.”

Tôi để cuốn kinh sang bên và cầm lấy quyển sách dày mà Matthew gợi ý. Các trang sách của nó bị khâu vào nhau và lồng vào trong một tấm bọc bảo vệ bằng giấy da hảo hạng dày dặn. Chuyên luận này hứa hẹn lý giải về các triệu chứng và phương thức chữa trị mọi loại bệnh tật làm loài người đau đớn, khổ sở.

“Sách tôn giáo là những món quà phổ thông, và dễ bán. Sách về y học có một lượng độc giả nhỏ thôi và quá đắt đỏ không thể mua bán chứ chưa nói tới tiền hoa hồng,” Matthew giải thích khi tôi lần ngón tay trên lớp bìa mềm mại. anh đưa cho tôi một cuốn sách khác. “Rất may, anh đã đặt được một bản sao in của cuốn sách này. Nó là cuốn sách hot của các nhà in và đã định trước là một cuốn bán chạy đấy.”

Món đồ đang nói tới đó được bọc bìa da đen giản dị, với vài dấu hiệu trang trí bằng bạc. Bên trong là bản in đầu tiên của Philip Sidney xứ Arcadia. Tôi cười to, nhớ lại mình đã ghét đọc nó đến mức nào hồi trên ghế đại học.

“một phù thủy không thể sống bằng cầu nguyện và bốc thuốc không thôi.” Đôi mắt Matthew lấp lánh vẻ châm biếm. Bộ ria của anh chọc nhồn nhột khi anh hôn tôi.

“Gương mặt mới của anh sẽ cần một chút thời gian mới quen được,” tôi nói, bật cười và cọ cọ môi vào thứ cho cảm giác là lạ mới mẻ ấy.

Ngài Bá tước Northumberland đưa mắt nhìn tôi trong khi thưởng thức một miếng thịt ngựa bổ sung dinh dưỡng cần thiết. “Mấy cuốn sách này sẽ không giữ cho Diana bận rộn lâu đâu. cô ấy quen với những hoạt động đa dạng hơn cơ.”

“Đúng như anh nói. Nhưng cô ấy không thể nào lang thang trong thành phố và rao giảng về giả kim thuật được.” Miệng Matthew mím lại vẻ hài hước. Cứ sau mỗi giờ, trọng âm và cách lựa chọn từ ngữ của anh lại càng khuôn đúc hợp thời. anh dựa sát vào tôi, cúi người tới trước hít ngửi bình rượu và nhăn mặt. “Có gì để uống mà không bị bỏ cả liều đinh hương và hạt tiêu thế này không? Mùi kinh quá.”

“Diana có lẽ sẽ thích kết bạn với Mary đấy,” Henry gợi ý, chẳng nghe câu thắc mắc từ Matthew.

Matthew nhìn chằm chằm Henry. “Mary ư?”

“Họ tuổi tác tương đương và tính khí cũng tương tự, tôi nghĩ thế, và cả hai đều là những người uyên bác về học thức.”

“Nữ bá tước không chỉ học tài biết rộng mà còn có thiên hướng làm mọi thứ bốc cháy,” Kit nhận xét, tự rót cho bản thân một cốc vại đầy rượu. anh ta dí mũi vào cái cốc rồi hít vào một hơi thở sâu. Nó có mùi khá giống Matthew. “Hãy tránh xa những cái vạc chưng cất và lò luyện của bà ấy, bà Roydon ạ, trừ phi cô muốn có mái tóc cháy xém quăn tít hợp thời trang.”

“Lò luyện ư?” Tôi thắc mắc người này có thể là ai.

“À, đúng thế. Nữ bá tước xứ Pembroke,” George nói, đôi mắt sáng rực lên trước triển vọng một nhà bảo trợ quyền thế.

“Tuyệt đối không.” Giữa Raleigh, Chapman, và Marlowe, tôi đã gặp đủ những huyền thoại văn chương để mang theo đến hết đời rồi. Bà nữ bá tước là người phụ nữ lỗi lạc nhất của đất nước này, và là chị gái của ngài Philip Sidney. “Tôi không sẵn sàng để gặp Mary Sidney đâu.”

“Mary Sidney cũng không sẵn sàng gặp cô đâu, bà Roydon, nhưng tôi ngờ là Henry đúng đấy. cô sẽ mau chóng chán những người bạn của Matthew và cần tìm kiếm bạn bè của riêng mình. không có họ cô sẽ thấy vô công rỗi việc và u uất sầu muộn mất.” Walter gật đầu với Matthew. “Cậu nên mời Mary đến đây dùng bữa tối.”

“Blackfriars sẽ tắc nghẽn hoàn toàn nếu nữ bá tước Pembroke xuất hiện ở Hẻm Water. sẽ tốt hơn nhiều nếu để bà Roydon tới lâu đài Baynard. Nó chỉ ở phía bên kia bức tường thôi mà,” Marlowe nói, hồ hởi vì loại bỏ được tôi.

“Diana sẽ phải đi bộ vào thành phố,” Matthew chỉ ra.

Marlowe khịt mũi khinh thường. “đang là tuần lễ giữa Giáng Sinh và năm mới mà. không có ai để ý nếu có hai phụ nữ đã kết hôn cùng chia sẻ một cốc rượu và ngồi tán chuyện đâu.”

“Tôi sẽ rất vui được đưa cô ấy đi,” Walter tình nguyện. “Có lẽ Mary cũng muốn biết về chuyến phiêu lưu mạo hiểm của tôi ở Tân Thế Giới.”

“anh phải để lần khác đề nghị nữ bá tước đầu tư vào Virginia. Nếu Diana đi, tôi sẽ đi cùng cô ấy.” Ánh mắt Matthew sắc bén. “Tôi tự hỏi liệu Mary có biết phù thủy nào không?”

“cô ta là đàn bà, đúng không? Dĩ nhiên cô ta biết các phù thủy rồi,” Marlowe nói.

“Thế thì tôi viết thư cho cô ấy nhé, Matt?” Henry hỏi.

“Cảm ơn, Hal.” Matthew rõ ràng không bị thuyết phục với khả năng thành công của kế hoạch này. Thế rồi anh thở dài. “đã quá lâu rồi kể từ lần cuối tôi gặp cô ấy. Hãy nói với Mary chúng ta sẽ ghé thăm cô ấy vào ngày mai.”

sự miễn cưỡng ban đầu của tôi với việc gặp gỡ Mary Sidney nhạt dần khi thời điểm hẹn gặp tới gần. Càng nhớ lại, càng phát hiện được nhiều điều về nữ bá tước Pembroke, tôi càng trở nên háo hức hơn.

Françoise thì lo lắng cao độ cho chuyến viếng thăm này, cô nàng nhặng xị lên với quần áo của tôi hàng giờ. cô ta đặc biệt gắn vào một cái cổ xếp nếp phù phiếm vòng quanh cái đường cổ cao của chiếc áo khoác nhung màu đen mà Maria đã thiết kế cho tôi ở Pháp. cô ta còn làm sạch và ép phẳng chiếc váy dài màu nâu đỏ nổi bật cùng những dải nhung đen của nó. Món đồ này kết hợp với chiếc áo khoác rất đẹp đến mức làm người ta choáng váng vì màu sắc. Khi tôi đã mặc đồ xong, Françoise tuyên bố tôi có thể thông qua, mặc dù quá mộc mạc giản dị và trông quá Đức so với quan điểm ăn mặc của cô ta.

Matthew tận hưởng khoảng thời gian vô tận để nhấm nháp rượu và hỏi bằng tiếng Latin về buổi sáng của tôi. Vẻ mặt anh thật gian manh.

“Nếu anh đang cố làm em tức điên lên thì anh thành công rồi đấy!” Tôi đáp sau một câu hỏi đặc biệt bực mình.

“Refero mihi in latine, quaeso,” Matthew nói với giọng điệu giáo sư. Khi tôi ném khúc bánh mỳ về phía anh, anh cười ầm ĩ và hụt người tránh.

Henry Percy đến vừa đúng lúc bắt được cái bánh mỳ gọn gàng bằng một tay. anh chàng trả nó lại bàn mà không bình luận gì, bình thản tủm tỉm cười và hỏi xem chúng tôi đã sẵn sàng lên đường chưa.

Pierre hiện ra không một tiếng động từ trong bóng tối gần lối vào cửa hiệu giày và bắt đầu đi bộ ngược con đường với dáng vẻ rụt rè, khiêm tốn, bàn tay phải nắm chắc cán con dao găm. Khi Matthew rẽ đưa chúng tôi hướng vào thành phố, tôi ngước nhìn lên. Đó là nhà thờ Thánh Paul.

“Em không thể nào quen được với cái đó ở ngay gần bên như thế,” tôi lẩm bẩm.

Khi chúng tôi chầm chậm hướng tới nhà thờ lớn, các giác quan của tôi bắt đầu quen với sự hỗn loạn ồn ào này, và còn có thể tách riêng ra các âm thanh, mùi vị cũng như hình ảnh. Tiếng làm bánh mỳ. Lửa than đá. Khói gỗ. Mùi men. Rác rưởi đã được rửa trôi sạch sẽ nhờ vào cơn mưa ngày hôm qua. Mùi lông ẩm ướt. Tôi hít vào một hơi thật sâu, thầm làm ghi chú trong đầu là sẽ thôi nói với sinh viên của mình rằng nếu các em quay trở về đúng thời điểm, các em sẽ lập tức bị choáng váng bởi mùi hôi hám khó chịu. Thực tế đó không phải sự thật, ít nhất là vào thời điểm cuối tháng Mười Hai này.

Đàn ông và đàn bà rời mắt khỏi công việc đang làm và đi ra cửa sổ với vẻ tò mò không hề xấu hổ khi chúng tôi ngang qua, khẽ cúi đầu chào vẻ kính trọng khi nhận ra Matthew và Henry. Chúng tôi đi qua một xưởng in, qua một cửa hiệu khác lúc người thợ cạo đang cắt tóc cho một người đàn ông, và đi men vòng qua một phân xưởng bận rộn.

Khi những điều lạ lùng đã qua, tôi có thể tập trung chú ý vào điều người ta đang nói, mẫu vải trên quần áo của họ, biểu hiện trên mỗi gương mặt. Matthew đã nói về hàng xóm của chúng tôi toàn là người nước ngoài, nhưng nó nghe giống tiếng Babel. Tôi quay đầu. “Bà ấy đang nói ngôn ngữ nào thế?” Tôi thì thầm liếc mắt nhìn một phụ nữ đẫy đà mặc chiếc áo khoác màu xanh lục lam đậm viền lông thú. Tôi để ý thấy nó được cắt khá giống áo của tôi.

“một phương ngữ nào đó của người Đức,” Matthew nói, cúi thấp đầu xuống cạnh tôi để tôi có thể nghe tiếng anh át những âm thanh ồn ào trên đường.

Chúng tôi đi xuyên qua vòm cong của một ngôi nhà trên cổng cổ. Con hẻm mở rộng thành con đường, nó đã xoay sở để chống lại tất cả những thứ kỳ dị nhằm giữ lại hầu hết các mặt đường lát của mình. một tòa nhà nhiều tầng nằm ngổn ngang bên tay phải lối đi với nhiều hoạt động ồn ào ầm ĩ.

“Tu viện Dominic,” Matthew giải thích. “Khi vua Henry trục xuất các tu sĩ, nó trở nên hoang tàn sau đó thành khu nhà để ở. Giờ không thể nói được có bao nhiêu người nhồi nhét vào đó.” anh liếc nhanh qua sân trong tòa nhà, nơi một bức tường bằng gỗ và đá kéo dài khoảng cách giữa khu nhà ở và mặt sau của ngôi nhà khác. Vì một cái cớ đáng tiếc nào đó nên mới có cánh cửa treo lủng lẳng trên một khớp bản lề duy nhất.

Matthew ngước nhìn nhà thờ Thánh Paul rồi nhìn xuống tôi. Gương mặt anh mềm mại đi. “Đến địa ngục còn thận trọng. đi thôi.”

anh hướng tôi xuyên qua khoảng trống giữa một phần của bức tường thành phố cũ và một ngôi nhà trông như thể sắp đổ nghiêng tầng thứ ba lên khách qua đường bên dưới. Nó có thể trở thành một con đường lớn nghèo nàn bởi vì mọi người đang di chuyển theo cùng một phương hướng: ngược lên, hướng bắc, đi ra ngoài. Chúng tôi được làn sóng người đưa đi vào một con đường khác, rộng hơn Hẻm Water. Tiếng ồn tăng thêm, cùng với sự đông đúc.

“anh đã nói thành phố giống như hoang mạc vào dịp nghỉ lễ mà,” tôi bình luận.

“Đúng thế,” Matthew đáp. Sau vài bước, chúng tôi bị ném vào tình trạng rối loạn thậm chí còn lớn hơn. Tôi dừng lại trên đường đi.

Những ô cửa sổ của nhà thờ Thánh Paul đều sáng lên trong ánh chiều nhợt nhạt. Khoảng sân nhà thờ xung quanh nó đặc kín người – đàn ông, đàn bà, trẻ em, người học việc, người hầu, giáo sĩ, binh lính. Người hò hét, người trò chuyện, và có thể thấy giấy tờ ở khắp mọi nơi. Nó được treo lên các sợi dây bên ngoài các quầy sách, đóng đinh lên bất kỳ bề mặt cứng nào, hay xếp thành tập phe phẩy trước mặt những con người bàng quan. một nhóm đàn ông trẻ tuổi ồn ào bàn luận quanh cây cột phủ đầy tờ bướm thông báo, lắng nghe ai đó đang chậm rãi rao các quảng cáo việc làm. Thỉnh thoảng lại có người tách ra khỏi đám, những bàn tay vỗ vỗ vào lưng anh ta khi anh ta kéo chiếc mũ xuống và lên đường tìm việc.

“Ôi, Matthew.” Đó là tất cả những gì tôi cố gắng lắm mới thốt ra được.

Người người tiếp tục di chuyển thành đàn quanh chúng tôi, cẩn thận tránh mũi kiếm dài mà những người hộ tống tôi đeo bên hông. một làn gió nhẹ tạt vào chiếc mũ chùm đầu. Tôi cảm thấy nhoi nhói râm ran, tiếp theo là sức ép nhẹ mơ hồ. Ở đâu đó trong khoảng sân nhà thờ bận rộn này, một phù thủy và một yêu tinh đã cảm nhận được sự có mặt của chúng tôi. Ba sinh vật khác người và một quý tộc du hành cùng nhau thật khó lòng làm ngơ cho được.

“Chúng ta đã thu hút sự chú ý của ai đó,” tôi nói. Matthew dường như không quá mức quan tâm khi anh quét mắt nhìn những khuôn mặt gần đó. “Ai đó giống em. Ai đó giống Kit. không có ai giống anh cả.”

“Chưa hẳn,” anh thở hắt. “Em không được tự đến đây một mình nhé Diana – không bao giờ. Hãy ở yên trong khu Blackfriar cùng với Françoise. Nếu em đi đến bất cứ đâu xa hơn lối đi bộ đó,” – Matthew gật đầu ra hiệu về phía sau chúng tôi – “Pierre hoặc anh phải đi cùng em.” Khi anh đã hài lòng rằng tôi nhận thức rõ lời cảnh cáo này một cách nghiêm túc, anh kéo tôi đi. “Chúng ta đi gặp Mary nào.”

Chúng tôi rẽ lại về phía nam, hướng ra con sông, và cơn gió táp chân váy ép vào hai chân tôi. Mặc dù đang đi xuống đồi, nhưng mỗi bước chân đều thật vất vả. một tiếng huýt sáo trầm trầm cất lên khi chúng tôi đi ngang qua một ngôi nhà thờ của London, và Pierre liền biến mất vào một cái ngõ. anh ta hiện ra từ ngõ khác ngay khi tôi nhận thấy tòa nhà trông quen quen phía sau bức tường.

“Đó là nhà chúng ta!”

Matthew gật đầu và hướng sự chú ý của tôi xuôi xuống con phố. “Còn đó là lâu đài Baynard.”

Đó là tòa nhà lớn nhất tôi từng thấy ngoại trừ Tháp lớn, nhà thờ Thánh Paul, và quang cảnh xa xa của tu viện Westminster. Ba tòa tháp có lỗ châu mai hướng mặt ra sông, được nối với nhau bằng những bức tường cao gấp hai lần bất cứ ngôi nhà phụ cận nào.

“Lâu đài Baynard được xây dựng để tiếp cận từ con sông, Diana,” Henry nói bằng giọng điệu lấy làm tiếc khi chúng tôi đi xuôi xuống một con hẻm đầy gió khác. “Đây là lối vào phía sau, và không phải là cách mà các vị khách nên đến – nhưng nó là lối đi ấm áp hơn cả vào một ngày như thế này.”

Chúng tôi cúi đầu tiến vào một cánh cổng uy nghi đường bệ. Hai người đàn ông mặc đồng phục màu xanh tím than với những huy hiệu màu nâu sẫm, đen và vàng kim rảo bước tiến lên để xác nhận danh tính khách đến thăm. một người nhận ra Henry vội tóm lấy tay áo người đi cùng trước khi anh ta kịp hỏi chúng tôi.

“Đức ngài Northumberland!”

“Chúng ta đến đây để gặp nữ bá tước.” Henry quăng cái áo khoác ngắn tay về phía người gác cửa. “Hãy xem liệu ngươi có thể làm khô nó không. Và tìm cho ông chủ Roydon thứ đồ uống nóng nào đó, nếu có thể.” Vị bá tước bẻ khớp ngón tay bên trong đôi găng tay da và nhăn mặt.

“Tất nhiên rồi, thưa đức ngài,” người gác cổng nói, đưa mắt nhìn Pierre vẻ hoài nghi.

Lâu đài này được sắp đặt xung quanh hai quảng trường khổng lồ sâu trũng, không gian ở giữa đầy những cây trụi lá và vết tích còn sót lại của nhiều loài hoa mùa hè. Chúng tôi leo lên một cầu thang rộng và gặp các gia nhân mặc chế phục, một người dẫn chúng tôi tới phòng sưởi nắng của nữ bá tước: căn phòng rất mời gọi với những ô cửa sổ lớn, quay mặt về hướng nam nhìn ra dòng sông. Chúng đem đến một quang cảnh trải dài của dòng sông Thames nhìn thấy rõ từ khu Blackfriars.

Dù khung cảnh tương tự, nhưng không có gì nhầm lẫn được giữa không gian sáng sủa, cao ngất này với ngôi nhà của chúng tôi. Mặc dù khu phòng ở của chúng tôi rộng rãi và đầy đủ tiện nghi, nhưng lâu đài Baynard là nhà của quý tộc, và nó thể hiện rõ điều đó. Rộng lớn, những chiếc đệm ngồi được sắp đặt ở bên cạnh lò sưởi, dọc theo đó là hàng ghế tựa sâu đến mức một phụ nữ có thể cuộn người lại trong đó cùng tất cả mớ váy áo của mình nhét xung quanh. Thảm thêu làm các bức tường đó thêm sinh động bằng màu sắc tươi sáng và những phong cảnh từ trong thần thoại kinh điển. Cũng có dấu hiệu của một đầu óc học giả ở đây. Sách, một vài tượng cổ, những món đồ tự nhiên, tranh vẽ, bản đồ, và các đồ vật hiếm lạ phủ đầy trên các bàn.

“Ông chủ Roydon?” một người đàn ông với bộ râu nhọn và mái tóc đen muối tiêu đứng đó. Ông ta cầm một cái bảng nhỏ trong tay và một cây cọ nhỏ xíu ở tay kia.

“Hilliard!” Matthew thốt lên vui vẻ. “Điều gì mang ông tới đây thế?”

“một phận sự với lệnh bà Pembroke,” người đàn ông đáp, vẫy vẫy cái bảng màu của mình. “Tôi phải hoàn thành những chi tiết cho bức tiểu họa này. Lệnh bà muốn có nó làm quà tặng nhân dịp năm mới.” Đôi mắt màu nâu sáng của ông ta quan sát tôi.

“Tôi quên mất, ông chưa găp vợ tôi, Diana, đây là họa sĩ Nicholas Hilliard.”

“Tôi rất vinh hạnh,” tôi nói, nhún gối chào. London có tới hơn một trăm ngàn người sinh sống. Tại sao Matthew lại biết mỗi con người mà một ngày nào đó các sử gia nhận thấy họ thật quan trọng nhỉ? “Tôi biết và thật ngưỡng mộ công việc của ông.”

“cô ấy đã thấy bức chân dung của ngài Walter mà ông vẽ cho tôi năm ngoái,” Matthew trơn tru nói, khỏa lấp lời chào hỏi quá mức dạt dào tình cảm từ tôi.

“một trong những bức đẹp nhất của ông ấy, tôi cũng công nhận,” Henry lên tiếng, nhìn qua vai người họa sĩ. “Bức này có vẻ được định trước sẽ là đối thủ của nó đấy. thật là giống Mary đến tuyệt vời, Hilliard. Ông đã bắt được thần thái ánh mắt dữ dội của bà ấy rồi đấy.” Hilliard tỏ vẻ vui mừng.

một người hầu xuất hiện với rượu vang, Henry, Matthew và Hilliard hạ giọng nói chuyện trong khi tôi ngắm nghía một quả trứng đà điểu châu Phi đặt trên cái bệ vàng còn một cái vỏ ốc anh vũ thì ở trên cái bệ bằng bạc, cả hai được để trên một chiếc bàn mà dọc theo đó là vài món dụng cụ đo lường vô giá của toán học mà tôi không dám chạm vào.

“Matt!” Nữ bá tước Pembroke đứng trên lối vào hối hả chùi những ngón tay rây mực vào cái khăn tay mà người hầu gái dâng lên. Tôi tự hỏi tại sao không có ai thấy phiền, vì chiếc váy dài màu bồ câu xám của lệnh bà đã bị bôi bẩn và thậm chí cháy xém nhiều chỗ. Nữ bá tước lột bỏ chiếc áo giản dị khỏi người, để lộ ra một bộ váy áo nhung bóng như lụa lộng lẫy trong sắc màu mận chín giàu sang. Khi bà giao cho người hầu chiếc áo khoác thí nghiệm tương đối có dáng vẻ hiện đại, tôi ngửi thấy luồng hơi thuốc súng rõ rệt. Nữ bá tước vuốt ngược lên một lọn tóc vàng xoăn tuột xuống bên tai phải. Bà cao lớn và yểu điệu thướt tha, với làn da màu kem cùng đôi mắt nâu sâu thẳm.

Bà dang hai tay ra chào đón. “Bạn thân yêu của tôi. Tôi đã không gặp anh bao năm rồi, phải từ hồi đám tang em trai Philip của tôi ấy nhỉ.”

“Mary,” Matthew nói, cúi đầu trên bàn tay bà. “cô trông thật tuyệt.”

“London không bằng lòng với tôi, như anh biết đấy, nhưng đã thành truyền thống chúng ta đều về đây vào dịp lễ kỷ niệm thường niên của nữ hoàng, và tôi đã ở đây. Tôi đang làm việc với mấy cuốn thánh ca của Philip và vài đam mê khác mà cũng không để tâm đến nó nhiều lắm. Cũng có mấy nguồn an ủi, kiểu như gặp gỡ bạn bè cũ.” Giọng Mary nhẹ nhàng ung dung, nhưng vẫn truyền tải được sự thông minh sắc sảo của mình.

“cô quả là mạnh mẽ,” Henry nói, bổ sung thêm vào lời chào của Matthew và nhìn nữ bá tước với vẻ hài lòng.

Đôi mắt nâu của Mary dán vào tôi. “Và ai đây thế này?”

“Niềm vui của tôi khi gặp cô làm tôi luống cuống mất rồi. bà Pembroke, đây là vợ tôi, Diana. Chúng tôi mới cưới.”

“Chào lệnh bà.” Tôi nhún gối thật thấp chào nữ bá tước. Đôi giày của Mary được thêu những họa tiết trang trí bằng bạc và vàng huyền ảo làm người ta liên tưởng đến Eden, phủ kín là hình rắn, táo và côn trùng. Chúng hẳn phải đáng giá cả gia tài.

“Bà Roydon,” bà nói, đôi mắt chớp chớp vẻ thích thú. “Giờ thủ tục ban đầu xong rồi, chúng ta hãy cứ là Mary và Diana. Henry kể với tôi rằng cô là một sinh viên học giả kim thuật.”

“một người đọc về thuật giả kim thôi, thưa lệnh bà,” tôi sửa lại, “chỉ thế thôi. Đức ngài Northumberland đã quá phóng đại rồi.”

Matthew cầm lấy tay tôi. “Và em đã quá khiêm tốn rồi. cô ấy biết một lượng lớn kiến thức đấy, Mary. Vì Diana mới đến London, Hal nghĩ cô có thể giúp cô ấy làm quen với thành phố này.”

“Rất hân hạnh,” nữ bá tước Pembroke nói. “đi nào, chúng ta sẽ ngồi bên cửa sổ. Ông Hilliard yêu cầu có ánh sáng mạnh để làm việc. Trong khi ông ấy hoàn thành bức chân dung của tôi, các vị sẽ kể cho tôi tất cả tin tức mới. Những chuyện nhỏ nhặt xảy ra trong vương quốc này Matthew cũng đều phát hiện và biết rõ, Diana ạ, mà tôi thì ở nhà tại Wiltshire nhiều tháng rồi.”

Khi chúng tôi đã an vị, người hầu của bà quay trở lại với một đĩa mứt trái cây.

“Ố ồ,” Henry thốt lên, vui sướng ngọ nguậy ngón tay trên đĩa mứt màu vàng, xanh lá và da cam. “Mứt quả cô làm không giống ai cả.”

“Và tôi sẽ chia sẻ bí mật của mình với Diana,” Mary nói, trông thật vui vẻ. “Dĩ nhiên, khi cô ấy đã có công thức làm rồi, tôi có lẽ không bao giờ còn có được niềm vui bầu bạn từ Henry nữa.”

“Nào nào, Mary, cô đi quá xa rồi,” anh ta phản đối với một miệng đầy những miếng mứt vỏ cam.

“Chồng của cô có đi cùng cô không, Mary, hay công vụ của nữ hoàng đã giữ ông ấy ở Wales rồi?” Matthew hỏi.

“Bá tước Pembroke đã rời Milford Haven vài ngày trước nhưng thà đi đến tòa án còn hơn phải đến đây. Tôi mang William và Philip đi cùng, nhưng chúng tôi sẽ không nấn ná lâu ở thành phố mà tiếp tục đến Ramsbury. không khí ở đó thật khoan khoái tốt cho sức khỏe.” một vẻ buồn bã thoáng lướt qua gương mặt bà.

Những lời Mary nói gợi cho tôi nhớ đến bức tượng của William Herbert ở sân trong thư viện Bodleian. Người đàn ông tôi vẫn lướt qua trên đường tới khu Công tước Humfrey mỗi ngày, và là một trong những nhà hảo tâm vĩ đại nhất, lại là con trai của người phụ nữ này. “Các con bà bao nhiêu tuổi rồi?” Tôi hỏi, hy vọng câu hỏi này không quá riêng tư.

Nét mặt nữ bá tước mềm lại. “William mười tuổi, còn Philip mới lên sáu. Con gái tôi, Anne, đã bảy tuổi nhưng nó ốm tháng trước, và chồng tôi cảm thấy con bé nên ở lại Wilton.”

“không có gì nghiêm trọng chứ?” Matthew cau mày hỏi.

Lại thêm vẻ u ám lướt qua khuôn mặt nữ bá tước. “Bất cứ cơn đau ốm nào làm các con tôi khổ sở đều nghiêm trọng cả,” bà nói khẽ.

“Thứ lỗi cho tôi, Mary. Tôi nói mà chẳng suy nghĩ gì. Ý định của tôi chỉ là muốn hỏi xem tôi có thể hỗ trợ gì không.” Giọng nói của chồng tôi trầm sâu với vẻ hối tiếc. Cuộc nói chuyện đang chạm tới một chuyện cũ được chia sẻ mà tôi không biết.

“anh đã giữ những gì tôi yêu thương khỏi bị tổn hại hơn một lần. Tôi không quên điều đó đâu, Matthew, cũng sẽ không quên gọi anh lần nữa nếu cần thiết. Nhưng Anne đang phải chịu đựng cơn sốt rét của trẻ nhỏ, chỉ thế thôi. Bác sĩ cam đoan với tôi con bé sẽ hồi phục.” Mary quay sang tôi. “cô có con không, Diana?”

“Chưa có,” tôi lắc đầu trả lời. Ánh mắt màu xám bạc của Matthew thoáng lướt qua tôi trong thoáng chốc, rồi rời đi nơi khác. Tôi bất an kéo mạnh gấu áo khác.

“Diana trước đây chưa từng kết hôn,” Matthew nói.

“Chưa bao giờ ư?” Nữ bá tước Pembroke bị cuốn hút bởi mẩu thông tin này và mở miệng định hỏi tôi thêm. Nhưng Matthew đã cắt ngang.

“Cha mẹ cô ấy qua đời khi cô ấy còn nhỏ. không có ai sắp đặt chuyện hôn nhân đó cả.”

Vẻ cảm thông của Mary tăng lên. “thật đáng buồn, cuộc sống của một cô gái trẻ phụ thuộc vào những ý thích nhất thời của người bảo hộ.”

“Quả là thế.” Matthew nhướng lông mày nhìn tôi. Tôi có thể tưởng tượng ra anh đang nghĩ gì: Tôi độc lập một cách đáng thương, dì Sarah và cô Em là những sinh vật ít bất thường nhất trên đời.

Câu chuyện chuyển hướng sang chính trị và các sự kiện hiện thời. Tôi lắng nghe chăm chú một lúc, cố gắng dung hòa những ký ức mơ hồ của lớp học lịch sử từ rất lâu trước đây với những câu chuyện tán gẫu phức tạp mà ba người họ đang trao đổi. Có nói về chiến tranh, một cuộc xâm lược của người Tây Ban Nha có thể xảy ra, những người có cảm tình theo Thiên Chúa giáo, và tình trạng căng thẳng tôn giáo ở Pháp, nhưng những cái tên và địa danh thường rất xa lạ. Khi tôi thư giãn thả lỏng vào không khí ấm áp trong phòng sưởi nắng của Mary, và thấy dễ chịu bởi tiếng trò chuyện liên miên không ngớt, tâm trí tôi bắt đầu phiêu lãng.

“Tôi đã hoàn thành ở đây rồi, lệnh bà Pembroke. Người hầu Isaac của tôi sẽ giao bức tiểu họa vào cuối tuần,” Hilliard thông báo, thu dọn dụng cụ.

“Cảm ơn, ông Hilliard.” Nữ bá tước chìa tay ra, ánh sáng lấp lánh của trang sức tỏa ra từ những chiếc nhẫn bà đang đeo. Ông ta hôn tay bà, gật đầu chào Henry và Matthew, rồi rời đi.

“thật là một người đàn ông tài ba,” Mary nói, cựa mình trên ghế. “Ông ấy được rất nhiều người ưa thích và tôi phải tốn cả gia tài mới mời được ông ấy phục vụ.” Hai bàn chân bà bá tước lấp lánh trong ánh lửa lò sưởi, những họa tiết trang trí bằng bạc trên đôi giày sang trọng đi trong nhà bắt sáng lóe lên màu đỏ, cam và vàng kim. Tôi vu vơ tự hỏi ai là người đã thiết kế mẫu thêu trang trí khó hiểu này. Nếu thân thiết hơn, tôi sẽ xin được sờ vào các mũi thêu ấy. Champier đã có thể đọc được từ da thịt tôi bằng những ngón tay của ông ta. Vậy một vật vô tri có thể cung cấp thông tin tương tự thế không?

Mặc dù các ngón tay tôi chẳng đến gần được đôi giày của nữ bá tước, nhưng tôi nhìn thấy khuôn mặt một người phụ nữ trẻ. cô ta đang chăm chú nhìn vào tờ giấy có mẫu thiết kế cho đôi giày của Mary trên đó. Những lỗ nhỏ xíu dọc theo các đường vẽ lý giải sự bí ẩn của việc làm thế nào thể hiện được những họa tiết phức tạp đó trên chất liệu da. Tập trung vào bức vẽ, tâm nhãn của tôi lui vài bước về đúng thời điểm. Bây giờ tôi thấy Mary đang ngồi với một người đàn ông có quai hàm cứng rắn, bướng bỉnh, một bàn đầy mẫu côn trùng và thực vật trước mặt họ. Cả hai đang nói chuyện với dáng vẻ rất hào hứng sôi nổi về một con châu chấu, khi người đàn ông bắt đầu mô tả nó thật chi tiết, Mary cầm bút lên và vẽ phác họa hình dáng nó.

Vậy là Mary quan tâm tới thực vật và côn trùng, cũng như thuật giả kim nữa, tôi nghĩ, tìm kiếm hình ảnh con châu chấu trên đôi giày của bà. Nó ở đó, trên gót giày. Quá sống động. Và con ong ở trên mũi giày bên phải trông như thể nó sắp bay đi bất cứ lúc nào.

một âm thanh vo ve mờ nhạt lọt vào tai tôi khi con ong màu đen bạc tách mình ra khỏi chiếc giày của nữ bá tước Pembroke và bay vào không trung.

“Ôi, không,” tôi thở gấp.

“thật là một con ong lạ lùng,” Henry bình phẩm, đập mạnh vào khi nó bay ngang qua. Nhưng thay vào đó tôi đang nhìn con rắn trườn tuột ra khỏi chân Mary và lao đến. “Matthew!”

anh phóng tới cầm đuôi con rắn nhấc lên. Nó vươn cái lưỡi chẽ đôi ra và phun phì phì phẫn nội trước hành vi đối xử thô lỗ này. Lắc cổ tay một cái, Matthew quăng con rắn vào lửa, nơi nó kêu xèo xèo một lúc trước khi bắt lửa.

“Em không định…” Tiếng tôi trượt dài rồi tắt lịm.

“Tất cả ổn rồi, mon coeur.” Matthew chạm vào má tôi trước khi nhìn sang nữ bá tước, người đang nhìn chằm chằm xuống đôi giày đi trong nhà lúc này không tương xứng nữa. “Chúng tôi cần một phù thủy, Mary. Có một trường hợp khẩn cấp.”

“Tôi không biết phù thủy nào cả,” nữ bá tước Pembroke đáp lại rất nhanh.

Cặp lông mày Matthew nhướng lên.

“Tôi sẽ không giới thiệu ai cho vợ anh đâu. anh biết tôi không thích nói về những vấn đề như thế mà, Matthew. Khi anh an toàn từ Paris trở về, Philip đã nói cho tôi biết anh là cái gì. Khi đó tôi còn nhỏ và hiểu nó như một bịa đặt, truyền thuyết mà thôi. Đó là cách tôi mong ước giữ gìn nó.”

“Nhưng cô vẫn thực hành thuật giả kim à?” Matthew nhàn nhạt nói. “Đó cũng là một câu chuyện bịa đặt ư?”

“Tôi thực hành thuật giả kim để hiểu biết về sự sáng tạo kỳ diệu của Chúa Trời!” Mary la lên. “không hề có… thuật phù thủy… trong giả kim thuật!”

“Từ cô đang muốn nói là ‘ma quỷ’.” Đôi mắt chàng ma cà rồng tối sầm lại và khuôn miệng mím chặt. Nữ bá tước theo bản năng rụt lùi lại. “cô chắc chắn về bản thân và vị Chúa Trời mà cô tuyên bố là biết rõ ý chí của Người chứ?”

Mary cảm nhận thấy rõ lời khiển trách nhưng không sẵn sàng từ bỏ cuộc chiến. “Chúa Trời của tôi và của anh không phải là một, Matthew.” Đôi mắt chồng tôi nheo lại thành khe hẹp và Henry nắm lấy ống tất của mình vẻ bồn chồn lo lắng. Cằm nữ bá tước hất lên. “Philip cũng đã kể với tôi điều đó. anh vẫn trung thành với giáo hoàng và số đông. anh ấy đã thấy những sai lầm quá khứ trong đức tin của anh đối với người đàn ông kia, và tôi cũng đã làm giống thế với hy vọng rằng một ngày nào đó anh sẽ thấy được sự thật và đi theo nó.”

“Tại sao, khi cô trông thấy sự thật về những sinh vật như Diana và tôi mỗi ngày mà vẫn chối bỏ nó?” Giọng Matthew đầy mệt mỏi. anh đứng dậy. “Chúng tôi sẽ không làm phiền cô nữa, Mary. Diana sẽ tìm thấy một phù thủy theo cách khác.”

“Tại sao chúng ta không thể tiếp tục như trước đây và không nói về chuyện này nữa?” Nữ bá tước nhìn tôi và cắn môi, vẻ không chắc chắn hiện lên trong mắt bà.

“Bởi vì tôi yêu vợ mình và muốn thấy cô ấy được an toàn.”

Mary quan sát anh một lúc, đánh giá sự chân thành của anh. Nó hẳn đã làm bà thỏa mãn. “Diana không cần sợ tôi, Matt. Nhưng không nên tin tưởng phó thác cho ai khác ở London biết về cô ấy. Những gì đang diễn ra ở Scotland khiến mọi người sợ hãi, và mau chóng đổ lỗi cho người khác vì sự bất hạnh của bọn họ.”

“Tôi rất lấy làm tiếc về đôi giày của bà,” tôi lúng túng nói. Chúng sẽ không bao giờ như cũ được nữa.

“Chúng ta sẽ không nhắc đến nó nữa,” Mary kiên quyết nói, đứng lên để nói lời tạm biệt.

không ai trong chúng tôi nói gì khi rời khỏi lâu đài Baynard. Pierre thong dong ra khỏi cổng ngôi nhà phía sau chúng tôi, ấn chiếc mũ lưỡi trai lên đầu.

“Tôi nghĩ chuyện như thế đã là rất tốt rồi,” Henry lên tiếng, phá tan sự im lặng

Chúng tôi quay sang anh ta vẻ không tin.

“Có vài khó khăn, chắc chắn thế,” anh chàng vội vàng nói, “nhưng không có gì nhầm lẫn là Mary thích Diana hoặc lòng tận tâm của cô ấy vẫn tiếp tục dành cho anh, Matthew. anh phải cho cô ấy cơ hội. cô ấy không dâng hiến lòng tin một cách dễ dàng. Đó là lý do vì sao các vấn đề về đức tin làm phiền cô ấy đến vậy.” anh kéo áo choàng quanh người. Gió vẫn không giảm bớt, và trời đang tối dần. “Trời ơi, tôi phải chia tay các bạn ở đây thôi. Mẹ tôi đang ở Aldersgate và mong tôi đến dùng bữa tối.”

“Bà đã bình phục khỏi cơn khó ở rồi chứ?” Matthew hỏi. Nữ bá tước quả phụ đã phàn nàn về việc thở dốc suốt dịp Giáng Sinh, và Matthew lo lắng đó có thể là do tim của bà.

“Mẹ tôi là một Neville. Vì thế cho nên bà sẽ sống lâu và gây rắc rối mỗi khi có cơ hội!” Henry hôn lên má tôi. “Đừng lo lắng về Mary, hay về à… vấn đề kia.” anh ta nhướng lông mày đầy ẩn ý và rời đi.

Matthew và tôi nhìn theo anh ta đi trước khi rẽ hướng về Blackfriars.

“Chuyện gì thế?” anh khẽ hỏi.

“Trước đây, cảm xúc của em khơi gợi phép thuật. Giờ thì một câu hỏi miễn cưỡng cũng đủ khiến em nhìn thấu mọi việc. Nhưng không biết làm thế nào em lại khiến cho con ong đó sống dậy.”

“Tạ ơn Chúa là em chỉ nghĩ đến đôi giày của Mary. Nếu em quan sát mấy tấm thảm thêu của cô ấy, thì chúng ta sẽ thấy mình đang ở giữa một cuộc chiến của các vị thần trên đỉnh Olympus mất,” anh thở dài nói.

Chúng tôi nhanh chóng đi ngang sân nhà thờ Thánh Paul và trở lại chốn yên tĩnh của khu Blackfriars. Mọi hoạt động náo nhiệt buổi sớm nay đã chậm lại thành một nhịp điệu nhàn nhã thong thả hơn. Thợ thủ công túm năm tụm ba ở các ô cửa chia sẻ tin tức buôn bán, để lại cho đám thợ học việc làm nốt các nhiệm vụ trong ngày.

“Em có muốn mua mang về không?” Matthew chỉ vào một cửa hiệu bánh. “Nó không phải bánh pizza, trời ạ, nhưng Kit và Walter đã giành hết phần bánh thịt của Prior mất rồi.” Tôi gật đầu, miệng chảy nước miếng khi mùi hương từ trong bay ra.

Ông chủ Prior bị sốc khi Matthew bước vào và bối rối khi anh hỏi chi tiết về nguồn gốc và những thứ liên quan tới độ tươi sạch của thịt ở đây. Cuối cùng tôi chọn một miếng bánh rau húng đầy thịt vịt. Tôi sẽ không ăn thịt hươu nai, bất kể nó được giết như thế nào.

Matthew trả tiền đồ ăn cho Prior trong khi phụ tá của người thợ làm bánh này gói nó lại. Mỗi giây họ lại lén liếc trộm chúng tôi. Tôi lại được nhắc cho nhớ rằng một phù thủy và một ma cà rồng lôi kéo sự nghi ngờ của loài người như cây nến thu hút bướm đêm.

Bữa tối thật dễ chịu và ấm cúng, dù Matthew dường như khá lo lắng ám ảnh. Thoáng cái tôi đã ăn hết miếng bánh của mình, tiếng bước chân vang lên trên cầu thang gỗ. Đừng là Kit, tôi nghĩ và bắt chéo hai ngón tay ước nguyện, không phải tối nay.

Khi Françoise mở cánh cửa, hai người đàn ông trong bộ chế phục màu tím than quen thuộc đang đợi sẵn ở đó. Matthew cau mày rồi đứng dậy. “Nữ bá tước không khỏe sao? Hay một trong các cậu bé?”

“Tất cả đều khỏe, thưa ngài.” một người đưa ra mảnh giấy được gấp lại cẩn thận, trên cùng là dấu xi đỏ mang vết in một đầu mũi tên. “Từ Nữ Bá tước Pembroke ạ,” anh ta giải thích kèm theo cái cúi đầu cung kính, “cho bà Roydon.”

Cảm giác thật xa lạ khi nhìn thấy địa chỉ chính thức trên bức thư: “Bà Diana Roydon, biển Hươu Đực và Vương Miện, khu Blackfriars.” Các ngón tay tôi lang thang trên dòng địa chỉ dễ dàng thu về hình ảnh gương mặt thông minh của Mary Sidney. Tôi mang bức thư tới bên lò sưởi, luồn ngón tay vào dưới dấu xi phá vỡ nó và ngồi xuống đọc. Tờ giấy dày kêu sột soạt khi tôi trải rộng ra. một mảnh giấy nhỏ trượt ra rơi trên lòng tôi.

“Mary nói gì thế?” Matthew hỏi sau khi cho những người đưa tin lui đi. anh đứng phía sau và đặt hai tay lên vai tôi.

“cô ấy muốn em đến lâu đài Baynard vào thứ Năm. Mary có một thí nghiệm về thuật giả kim mà cô ấy nghĩ có thể làm em quan tâm.” Tôi không thể giấu được sự hoài nghi trong giọng mình.

“Đó là Mary dành cho em. cô ấy thận trọng nhưng trung thành,” Matthew nói, đặt một nụ hôn lên đầu tôi. “Và cô ấy luôn có sức mạnh hồi phục đáng kinh ngạc. trên tờ giấy kia viết gì thế?”

Tôi nhặt nó lên và đọc lớn những dòng đầu tiên của bài thơ gửi kèm:

“Đúng thế, khi tất cả tôi đều quá lầm tưởng,

Tôi dường như là một con quái vật,

Nhưng hy vọng trong tôi vẫn mãnh liệt.”

“Chà chà,” Matthew cắt ngang bằng tiếng cười nén lại. “Vợ anh đã đến nơi rồi.” Tôi nhìn anh bối rối. “Dự án có giá trị nhất của Mary không phải là giả kim thuật mà là một bản dịch các bài Thánh ca cho tín đồ Tin Lành nước anh. Em trai cô ấy Philip bắt đầu nó và chết trước khi kịp hoàn thành. Mary là người thứ hai, bài thơ này là của anh ta. Đôi khi cô ấy nghi ngờ nhiều chuyện, nhưng cô ấy sẽ không bao giờ thừa nhận nó. Đó là lời mở đầu của bài Thánh Ca Bảy Mươi Mốt. Mary gửi nó cho em để chỉ rõ thế giới mà em là một phần trong vòng luân hồi của cô ấy – một người bạn và người tâm tình tin cậy.” Giọng anh thấp xuống thành lời thì thầm ranh mãnh. “Thậm chí nếu em có phá hoại đôi giày của cô ấy.” Với tiếng cười thầm khe khẽ sau cùng, Matthew rút lui vào phòng làm việc của mình, cố thủ bên Pierre.

Tôi chiếm một chiếc bàn chân nặng nề trong phòng khách làm bàn làm việc. Giống mọi bề mặt để làm việc tôi từng chiếm cứ, nó giờ đây bừa bãi ngổn ngang cả rác và những món giá trị. Tôi lật tung xung quanh và tìm thấy những tờ giấy trắng cuối cùng của mình, chọn một cái bút lông mới, phủi sạch bụi.

Mất năm phút để tôi viết xong bức hồi âm ngắn cho nữ bá tước. Có hai chỗ nhòe mực trên đó, nhưng chữ viết tay nghiêng nghiêng thì khá đẹp, tôi còn nhớ đánh vần mấy từ đúng phát âm để trông chúng không quá hiện đại. Khi nghi ngờ tôi bèn cho gấp đôi phụ âm hoặc thêm một chữ e phía cuối từ. Tôi rắc cát lên tờ giấy và đợi cho tới khi nó thấm khô mực trước khi thổi sạch cát đi. Khi lá thư đã được gấp lại, tôi nhận ra mình không có xi hay con dấu riêng để đóng lên nó. Chuyện đó sẽ phải được chấn chỉnh.

Tôi để lời nhắn của mình sang bên cho Pierre và trở lại với mẩu giấy rơi ra khỏi lá thư kia. Marry đã gửi cho tôi cả ba khổ của Thánh Ca Bảy Mươi Mốt. Tôi lấy ra một cuốn sổ trắng mới mà Matthew đã mua cho và mở trang đầu tiên. Sau khi chấm bút lông vào lọ mực gần đó, tôi cẩn thận di chuyển ngòi bút trên trang giấy.

Nhờ bọn họ mà cuộc đời ta bị ghét bỏ

Với những kẻ theo dõi giờ đã rõ

Cuộc nói chuyện của họ, và xem kìa,

Chúa ơi, họ nói, vì lợi ích của người.

Giờ đây truy đuổi, người phải ra đi;

sẽ không ai đến giải cứu người.

Khi mực đã khô, tôi đóng sổ lại và lùa nó nằm dưới cuốn Arcadia của Philip Sidney.

Nhận được món quà này từ Mary còn ý nghĩa hơn một lời đề nghị kết bạn đơn giản, vì thế tôi đã chắc chắn. Trong khi những dòng thơ tôi đọc to cho Matthew nghe đã chứng nhận sự phục vụ của anh đối với gia đình nữ bá tước và là lời tuyên bố rằng bà ấy sẽ không quay lưng với anh vào lúc này, thì những dòng cuối cùng lại mang một thông điệp dành cho tôi: Chúng ta đang bị theo dõi. Có ai đó nghi ngờ rằng tất cả mọi chuyện dường như không bình thường ở Hẻm Water, và kẻ thù của Matthew đang đánh cuộc rằng ngay cả đồng minh của anh cũng sẽ quay sang chống lại anh một khi họ phát hiện sự thật.

Matthew, một ma cà rồng đồng thời là bầy tôi của nữ hoàng và là một thành viên của Đại Hội Đồng, không thể dính líu với chuyện tìm kiếm phù thủy để làm gia sư cho tôi được. Mà có đứa bé bất ngờ thế này, thì việc nhanh chóng tìm một phù thủy lại mang ý nghĩa trọng đại mới.

Tôi lôi ra một tờ giấy và bắt đầu lên danh sách.

Xi gắn thư

một con dấu riêng

London là thành phố lớn. Và tôi sẽ đi mua sắm đôi chút.