Mariana

Chương 27

Cuối cùng, hầu như chỉ có một mình tôi nói. Geoff ngồi đối diện với tôi trong phòng khách trang trí lộng lẫy, nơi chúng tôi nói chuyện lần đầu tiên. Gương mặt anh mệt mỏi dưới ánh đèn, cho thấy rõ ràng tình trạng căng thẳng do chuyến lái xe đường dài từ Luân Đôn trở về. Nhưng đôi mắt anh vẫn kiên định và ân cần. Thi thoảng anh ngắt ngang bài tường thuật huyên thuyên của tôi và đặt một câu hỏi, hay làm rõ một điểm nào đấy, nhưng không di chuyển khỏi ghế ngoại trừ để đổ đầy ly rượu của chúng tôi từ chiếc chai đặt trên bàn ngăn giữa hai người. Đến lúc tôi kể xong thì mặt trời buổi sáng đã nhô lên, một con chim chiền chiện cất tiếng hót trong trẻo trên một cái cây bên ngoài cửa sổ, và chai rượu đã rỗng không.

Geoff không đưa ra đánh giá ngay lập tức. Anh áp hai lòng bàn tay lại với nhau và nhăn mày nhìn xuống đôi giày.

“Anh nghĩ em điên chăng”, tôi đoán.

“Đương nhiên là không.”

“Thế thì tốt”, tôi vừa nói vừa dùng bàn tay rã rời bóp trán. “Đôi khi chính em cũng nghĩ mình bị điên.”

“Không phải anh nghi ngờ những gì đang xảy đến với em. Ừ”, anh mỉm cười, “có lẽ anh cũng có chút nghi ngờ, nhưng không nghi ngờ điều em tin tưởng, mà thật sự tin vào những gì em đã nhìn thấy. Anh chỉ không chắc sẽ đón nhận nó thế nào”. Anh dựa lưng lên ghế và lại nhăn mày. “Richard”, anh lơ đãng nói to. “Giá như chúng ta có vài ghi chép về Richard de Mornay…”

“Không có gì trong các tập hồ sơ của cha anh sao?”

“Chắc chắn là không có. Anh có thể kiểm tra lại nếu em muốn, nhưng anh đảm bảo nếu có thì anh đã nhớ rồi…” Anh đứng dậy và mang tới một chồng giấy tờ từ chiếc bàn viết gần đó. Khi anh trải chúng lên chiếc bàn thấp ngang đầu gối chúng tôi, tôi nhận ra chúng là những giấy tờ anh đã cho tôi xem vào cái đêm chúng tôi ở chỗ của Vivien. Anh im lặng giở chúng trong vài phút, rồi đóng tập tài liệu và lặp lại lời củng cố của mình. “Không có gì. Em có chắc đấy là Richard không?”

Tôi gật đầu dứt khoát. “Chắc chắn. William de Mornay là cha anh ấy.”

“Hừm, cũng không giúp ích được nhiều lắm. Cha anh không tìm thấy bất cứ tư liệu gì về những đứa con của William, chỉ có vài tấm chân dung trông có vẻ hợp với niên đại thôi, có thể còn sót giấy tờ ở đâu đó, nhưng anh e mình không giữ chúng.”

“Anh không thể kiểm tra di chúc của cha họ hay thứ gì đó sao?”

“Ông ta không để lại di chúc.” Miệng Geoff mím lại. “Phần lớn đều khá sơ sài, nếu nhìn từ góc độ quan sát cây phả hệ mà nói. Anh chỉ biết sau cái chết của William thì ghi chép về người chủ tiếp theo của lâu đài Crofton là Arthur, cháu trai ông ấy.”

“Arthur…” Tôi vồ lấy cái tên đó. “Richard đã cho em xem bức chân dung của Arthur, trong hành lang trưng bày tranh. Đứa trẻ trông không dễ chịu cho lắm. Cậu ta sống ở Hà Lan, em nghĩ vậy, với mẹ cậu ta. Ồ, còn cha cậu ta tên là gì thế?” Tôi hỏi, ấn những ngón tay lên bầu mắt. “Richard cùng từng đề cập đến một lần… cái tên cũng bắt đầu với chữ R… Robert? Robert”, Tôi khẳng định. “Robert là em trai của Richard.”

Geoff kiểm tra các ghi chép lại lần nữa. “Xin lỗi. Có thể em đã đúng, chắc chắn là em đúng, nhưng anh không thể xác nhận nếu không có bản ghi lại nào.” “Hẳn vẫn còn gì đó”, tôi nói. “Thế bức chân dung trong thư viện thì sao? Có bắt cứ manh mối nào ở đó không?”

Anh nhún vai. “Cũng đáng để thử lắm.”

Tôi bồn chồn quay sang nói trong khi cả hai băng qua đại sảnh, cố gắng duy trì cuộc nói chuyện. “Làm sao anh biết em ở trên tầng?”

“Anh tìm thấy áo mưa của em trong bếp. Biết thể nào em cũng ở đâu đó quanh đây. Freda hẳn đã để em vào, phải không?”

“Vâng.” Tôi gật đầu. Tôi không hề đề cập tới bà Hutherson lúc trước. Vì vài lý do, tôi chưa sẵn sàng chia sẻ với anh những cuộc nói chuyện riêng tư giữa tôi và bà ấy. Thay vào đó, tôi nói đơn giản: “Bác ấy và em đã uống trà với nhau, rồi em đi ngó nghiêng một chút trên gác. Bác ấy hẳn đã nghĩ em đã về nhà rồi nên mới khóa cửa khi bác ấy rời đi.”

Anh lơ đãng thốt lên một âm thanh vô thưởng vô phạt và thúc khuỷu tay mở cánh cửa thư viện. “Anh sẽ đi theo em”, anh đề nghị và theo tôi băng qua tấm thảm rộng để đứng bên dưới bức chân dung cao lừng lững. “Em hy vọng sẽ tìm thấy loại manh mối nào đây?” Anh ngước lên nhìn và hỏi tôi.

“Em không biết nữa. Bất cứ thứ gì có thể giúp em chứng minh với anh đây là Richard.”

“Đây có đúng là loại quần áo anh ta đã mặc khi em… nhìn thấy anh ta không?”

“Không.” Tôi đứng gần đẻ quan sát kỹ hơn.

“Đương nhiên chúng cũng có màu đen, nhưng kiểu dáng thì khác hẳn. Cũ hơn, em nghĩ vậy. Sau cùng, bức chân dung này được vẽ gần năm năm trước khi em gặp anh ấy.”

Tôi cảm nhận được cái nhìn dò xét thoáng qua từ anh. “Anh hiểu rồi.”

“Anh ấy đeo một cái nhẫn ở ngón út bàn tay bên trái” tôi nói. “Một chiếc nhẫn khá nặng. Bằng bạc. Có khắc gia huy, đầu con diều hâu đội mũ giáp nằm trên dải hoa bao quanh nhẫn. Anh có thể nhìn thấy nó, trong bức tranh này.”

Tôi chỉ, và Geoff nhìn theo.

“Cũng không thực sự quan trọng lắm”, tôi tiếp tục, “bởi nó chỉ cho thấy anh ấy là người đứng đầu gia đình. Chứ không chứng minh tên anh ấy là Richard”.

“Đúng vậy”, Geoff thừa nhận, và ngẩng đầu lên, “nhưng có thể chứng mình rằng ai đó là người đã sở hữu lâu đài giữa khoảng thời gian William qua đời và Arthur được thừa kế. Đương nhiên là trừ khi chúng ta đang nhìn vào tấm chân dung của Arthur”.

Tôi kiên quyết lắc đầu, những lọn tóc đung đưa. “Không thể nào. Arthur có gương mặt như chồn, trông hệt như một con chuột.”

“Cẩn thận đấy”. Geoff cười nhe răng cảnh báo. “Anh là con cháu trực hệ của kẻ như chuột như chồn ấy đấy nhé.”

“Xin lỗi.”

Anh dựa vào sát hơn, cho đến khi mũi chỉ cách vài centimet so với nét vẽ. “Quả là đáng thương khi người mẹ anh chàng này không thêu tên anh ta lên áo khoác”, anh châm biếm.

“Đúng rồi!”

“Sao vậy?” Anh ngạc nhiên quay đầu lại.

“Mẹ của Richard”, tôi nói, sự kích động tăng vọt. “Coi nào, em nghĩ mình có thể chứng minh với anh rằng em biết vài điều, vài điều em không thể biết được ở đâu trừ khi trực tiếp nhìn thấy, em nghĩ mình có thể đưa ra bằng cớ, một bằng cớ chân thực. Thì lúc ấy anh sẽ tin Richard có thật chứ?”

“Giờ anh cũng tin rồi mà.”

“Không, anh không tin đâu. Không thực sự tin. Nhưng nếu em có thể chỉ cho anh thấy một phần trong câu chuyện của em là xác thực, thì có thể anh sẽ chấp nhận được phần còn lại cũng là sự thật.”

“Ý của em là theo quy luật logic.” Anh cười nhẹ. “Được rồi, Ngài Sherlock. Ngài có gì trong đầu rồi?”

“Chúng ta sẽ cần một cái xẻng”, tôi nói và nụ cười nhạt hẳn.

“Một cái xẻng ư?”

“Thứ gì đó dùng để đào.”

Mặt trời dần lên cao đến đỉnh đầu, chắc chắn chẳng thể tìm được cái bóng nào trong sân sau cả. Chỗ tôi đứng ngập cỏ và thạch nam đến đầu gối, tôi ngước nhìn những dụng cụ trong tay Geoff.

“Em không chắc thế này đã đủ chưa” giọng nói của tôi đầy nghi ngờ, anh cũng nhìn xuống, nhíu mày trước chiếc dùi đập đá cùng một cái bay.

“Ừm, dù sao chúng cũng phải thực hiện nhiệm vụ thôi”, anh đáp. “Không phải lỗi của anh khi Iain giấu tiệt mọi dụng cụ đi như thế. Cậu ta có đủ thể loại từ thuổng, xẻng nhét ở đâu đó, nhưng anh chịu không đoán được ở đâu.”

“Thôi được rồi.” Tôi nhún vai, tiến thêm một bước lên trước và thử nâng tấm thảm thực vật bằng một chân. “Em nghĩ nó ở đâu đó quanh đây.”

“Cái gì?”

“Bia mộ”, tôi nói thẳng. “Bia mộ của mẹ Richard. Họ không chôn bà trong nghĩa trang nhà thờ vì bà theo đạo Công giáo, cho nên William de Mornay đã chôn bà ấy ở đây.”

“Hẳn em đang đùa.”

“Không đâu. Đó là một phiếu đá màu trắng, rộng khoảng chừng này”, tôi xòe tay cách nhau khoảng hơn nửa mét, “và tên của bà được khắc trên đó”.

Đôi mắt anh bắt được ánh nhìn kích động lấp lánh của tôi. “Em vừa nói là ngay ở đây hả?”

“Em nghĩ vậy. Có thể bên dưới rất nhiều đất đá”, tôi thận trọng nói rồi nhìn quanh. “Mặt đất trông có vẻ cao hơn so với bức tường nếu so với lúc đó, nhưng cũng có thể là do em quá tưởng tượng.”

“Thế nếu dùng cánh cửa làm điểm tham khảo thì sao?” Anh đề nghị, hất đầu qua vai về phía ngôi nhà. “Hồi đấy mặt đất có cân với cánh cửa đó không?”

“Thế thì cánh cửa không nằm ở đó. Toàn bộ hành lang phía tây từng được sử dụng thông ra mặt này, giống hàng hiên trong một tu việu vậy.”

Geoff đồng ý với lời tuyên bố mang tính triết lý của tôi. “Vậy thì chúng ta đành phải kỳ vọng vào những gì có trong tay thôi. Chiếc dùi đập đá này có lưỡi dài mười lăm phân, có lẽ thế là đủ rồi.”

Tôi cảm giác cơn thôi thúc chạy rần rật qua những ngón tay khi nhìn anh ngồi xuống và bắt đầu dùng chiếc dùi đập đá thăm dò mặt đất mọc tràn thực vật, những cử động của anh thận trọng, dường như đã tin tưởng một nửa những gì tôi nói. Tôi nghĩ mình đang thầm hy vọng rằng ngay từ đầu Geoff cũng biết anh đã từng là Richard. Tôi đã tưởng tượng ra những ảo ảnh sống động về khoảnh khắc hạnh phúc tột độ lúc mọi thứ được tiết lộ, với việc hai chúng tôi tay trong tay như những cặp đôi nhàm chán trên tivi, hãnh diện trước sự thật rằng chúng tôi lại tìm thấy nhau sau hơn ba thế kỷ chờ đợi mỏi mòn… Đương nhiên, điều đó sẽ không xảy ra giống như vậy. Từ kinh nghiệm, tôi biết rằng thực tế hiếm khi chiều theo ảo tưởng. Nhưng biết đâu đấy, tôi nghĩ, nếu có thể thuyết phục anh rằng ít nhất tôi không hề điên, rằng Richard de Mornay là có thật, vậy thì rồi cũng đến lúc anh nhận ra anh là ai. Nhận ra chúng tôi là ai.

Giọng nói của anh lạc vào những dòng suy nghĩ của tôi. “Em nghĩ anh là Richard đúng không?”

“Điều gì khiến anh nói thế?”

“Thì do suy diễn thôi”, anh nói, nụ cười chênh chếch về phía tôi. “Nếu em đã từng là Mariana, thì…” Anh thận trọng ngừng lại.

“Em không thể nói ý tưởng ấy chưa từng đến với mình”, tôi thừa nhận, chọn lựa từ ngữ một cách cẩn thận. “Chúng ta đã trở nên hơn cả thân thiết, em và anh, họ của anh cũng là de Mornay, chưa kể tình yêu với nước Pháp của anh cũng nhiều gần như anh ấy vậy.”

“Thế làm sao em biết anh ấy không trở lại với thân phận là một người đàn ông Pháp?”

Tôi nhìn xuống mái đầu đen đang cặm cụi làm việc của anh nên không thể thấy được biểu cảm của anh. “Và anh trông giống hệt anh ấy”, tôi kết thúc bằng một giọng nói điềm tĩnh.

Anh để chủ đề đó trôi qua, và đi xa hơn một chút khỏi ngôi nhà. “Rất có thể không còn ở đây nữa”, anh cảnh báo. “Ý anh là ngôi mộ ấy. Nó có thể đã bị vỡ, hoặc sau nhều năm ai đó có thể đã đào lên và bỏ ngôi mộ đi, nghe thật báng bổ. Hoặc có thể nó đã lún sâu xuống đất thêm mười lăm phân nữa.” Anh liếc nhìn mặt tôi và nhe răng cười. “Nhưng em sẽ tiếp tục bắt anh ở ngoài này cho đến khi anh tìm ra cái vật quỷ quái đó, phải không?”

Mắt tôi nghiêm túc nài nỉ anh. “Quan trọng mà anh.”

“Thôi được rồi”, anh nói, “Anh đoán tốt hơn hết mình nên tìm ra nó, phải không?”.

Anh chống mạnh đầu gối xuống đất ra chiều quyết tâm, gỡ một chùm hoa dại li ti đang chấp chới trong gió, chúng tôi đều nghe thấy âm thanh sắc nhọn, vang vang khi chiếc dùi đâm vào đá.

Cả hai đều không lên tiếng trong cả một phút, rồi tôi quỳ gối bên cạnh anh, dùng tay và chiếc bay vạch tìm trên mặt đất, gạt hết lớp cỏ sang một bên để phơi bày ra tảng đá trắng trơn nhẵn bên dưới. Khi Geoff vươn tay qua tôi để phủi lớp đất bẩn khỏi dòng chữ mòn vẹt, những ngón tay của anh không còn vững nữa.

“Louise de Mornay”, anh đọc to dòng chữ, gạt thêm đất khỏi bề mặt và ngồi xổm, quay đầu sang nhìn vào mắt tôi. “Lạy Chúa”, anh thốt lên.

“Em biết. Gia nhập câu lạc bộ với em đi." Tôi vén tóc khỏi mắt. “Anh nên thử tưởng tượng từ góc độ của em mà xem.”

Anh liếc mắt nhìn mặt trời một lúc, rồi chùi cả hai bàn tay lem luốc lên quần jean và chậm rãi đứng dậy. “Chúng ta có nên đi hít thở một chút không?”, anh nói khe khẽ đầy chủ ý. “Dùng bữa luôn. Cho anh chút thời gian để tiếp thu tất cả những chuyện này.”

“Được.”

Trở lại hành lang phía tây, khi tôi tự động đi thẳng về phía nhà bếp thì Geoff túm lấy khuỷu tay tôi.

“Không phải ở đây”, anh nói. “Anh muốn thoát khỏi đây một vài giờ, nếu em không phiền. Đến quán Sư Tử Đỏ đi.”

Đó là một chuyến đi bộ ngắn trong trạng thái im lặng. Tôi thì quá mải mê nghĩ ngợi đến mức suýt tông thẳng vào ghế ngồi của anh trai, rõ ràng tôi đã làm như vậy nếu Vivien không nói gì đó.

“Xem ai này!”, cô ấy nói. “Anh ấy không nghe thấy ai trả lời ở nhà cô nên đến đây với chúng tôi."

“Anh hình dung dù sớm dù muộn thì thể nào em cũng đến đây”. Tom nói. Hơi thở của anh có vị rượu Scot, lúc tách ra tôi liền quay sang ném ánh nhìn buộc tội cho Iain, người đang ngồi một mình ở vị trí quen thuộc trên quầy bar.

“Anh làm anh trai tôi say đấy à?” Tôi hỏi.

“Thành thực mà nói", anh ta đáp, với cái nháy mắt chậm rãi. “Tôi đang cố theo kịp anh ta đây này.”

“Ừm. Thêm một ngày nghỉ nữa hả anh?” Tôi hỏi Tom làm anh mỉm cười.

“Ừ. Các cha phó không tuyệt vời sao?” Ánh mắt anh trượt qua tôi. “Đây là Geoff phải không?” Anh vừa hỏi vừa chìa tay ra bắt. “Rất vui vì lại được gặp cậu. Tôi có thể mời cậu một vại không?”

Quả là anh trai tôi, tôi ấm lòng nghĩ, khi anh thò tay vào những chiếc túi nông của mình để đãi một tỷ phú một vại bia. Geoff nhã nhặn chấp nhận lời đề nghị, trong vòng vài phút cả bốn chúng tôi đã ngồi thành một hàng dọc theo quầy, Vivien đứng chống tay đối diện.

Iain nâng cốc lên và thúc vào cánh tay Tom.

“Mà anh vừa nói gì về Morrisey ấy nhỉ?” Anh ta hỏi anh trai tôi.

“Cậu ta chưa bao giờ đối đầu với Conner cả.”

Geoff quay sang Vivien thắc mắc, mắt Vivien đảo tròn nhìn chúng tôi. “Cờ vua”, cô ấy giải thích. “Nếu hai người tin được. Bọn tôi đã nói về chủ đề này cả tiếng vừa rồi.”

Tom không nghe. “Ned”, anh gọi về phía cuối quầy bar, “người ta nói gì về những cơ hội của Morrisey?”.

Ned lật tờ báo và đáp mà không buồn ngẩng đầu. “Không có một cơ hội mong manh nào hết”, anh ta trả lời, Tom chỉ ra.

“Thấy chưa?”

“Anh sai bét.” Iain lắc đầu. “Sau cùng, Morrisey là người Scotland.”

“Chính xác.” Anh trai tôi mỉm cười với vại bia, ánh nhìn ranh mãnh lọt vào đôi mắt xám của Iain.

“Anh có muốn đánh cuộc một khoản nho nhỏ không?”

Geoff giơ một bàn tay cảnh báo chen ngang. “Cẩn thận đấy, Tom”, anh khuyên anh trai tôi. “Tôi đã mất nhiều tiền với người đàn ông này nếu liệt kê chi tiết ra.”

Tom nao núng, nhưng chỉ trong chốc lát. Anh không thể kháng cự lại cụm từ “đánh cược một khoản nho nhỏ”.

“Năm bảng”, anh đề nghị.

“Xong.”

Iain chốt hạ lần đánh cược với một cái bắt tay, đôi mắt thoáng sáng lên khi nhìn Geoff, và châm một điếu thuốc. “Cậu trông kinh thế”, anh ta lỗ mãng nói với bạn. “Cái quái gì khiến cậu ra thế này đấy?”

“Thực ra là lỗi của Julia”, Geoff vừa đáp vừa đẩy hết trách nhiệm đi. “Tôi không được ngủ từ lúc trở về từ Luân Đôn.”

Tôi co rúm người lại trước cách lựa chọn từ ngữ của anh. Ba cặp mắt tò mò quay phắt về phía chúng tôi. Đến cả Ned cũng phải liếc nhìn hai đứa tôi một cái trước khi quay trở lại với trang báo vừa lật. Geoff cũng nhận ra sai lầm và cười ngoác miệng.

“Này, mấy người bỏ hết đống suy nghĩ đen tối khỏi đầu đi. Thực tế bọn tôi đã thức suốt đêm để lục lại lịch sử của lâu đài đấy.”

Không hẳn là một lời nói dối, tôi nghĩ và thầm tán thưởng khả năng che giấu sự thật của anh. Bên cạnh tôi, Tom thắc mắc rướn một bên lông mày lên, làm tôi phải gật nhẹ đầu. Tin tức xẹt qua rõ ràng giữa hai chúng tôi là: Phải, em kể anh ấy nghe rồi, Tom chuyển mắt khỏi tôi để nhìn Geoff với vẻ hứng thú mới mẻ và đột ngột.

“Thực sự thì chúng tôi tìm thấy một thứ rất thú vị”, Geoff tiếp tục, thi thoảng đùa nghịch với vại bia trong tay. Anh nhìn Iain. “Có nhớ cậu luôn bảo sân sau nhà tôi giống một ngôi mộ không?”

“Có”

“Ừm, đúng là vậy đấy. Bọn tôi đã tìm thấy một tấm bia mộ bị vùi bên dưới vạt cỏ. Vợ của William de Mornay.”

“Thứ nhất hay thứ hai?” Vivien hỏi, Geoff nhăn mày.

“Cái gì, vợ á?”

“Không, là William. Cha hay con?”

“Ồ.” Gương mặt Geoff sáng lên. “Con. Người ở phe Kỵ sĩ đã bị nhốt vào tháp Luân Đôn.”

Vivien nhướn hàng lông mày. “Vì sao họ lại chôn bà ấy trong sân sau? Không phải thường chôn cất ở nhà thờ sao?”

“Không biết nữa”, Geoff đáp. “Có lẽ là do bà ấy theo Công giáo. tên của bà ấy là Louise, một cái tên Pháp.”

Hoan hô, tôi lại lẳng lặng khen anh. Anh thậm chí còn giỏi thu xếp chuyện này hơn tôi rất nhiều.

Iain trông không ngạc nhiên chút nào trước khám phá của chúng tôi. “Dù sao”, anh ta nói, “chúng ta tốt hơn hết nên dọn dẹp một chút, nếu có ai đó đang yên nghỉ ở đấy. Sáng mai tôi sẽ ghé qua với dụng cụ làm cỏ và xem có thể làm gì”.

Tiếng thở dài của Vivien lẫn giữa thích thú và sốt ruột. “Có gì trên danh sách công việc đó của anh rồi?”

Cô ấy hỏi. “Đến số một trăm linh một chưa?”

“Anh chỉ muốn giữ bản thân bận rộn thôi”, anh ta đáp trả.

“Tôi sẽ giúp cậu”, Geoff hứa, Vivien đành bỏ qua với một cái hất nhẹ mái đầu vàng hoe.

Tom vẫn còn mắc kẹt trong một ý nghĩ trước đó. “Buồn thật đấy nhỉ, khi nghĩ ai đó từ chối được chôn cất trong khu đất thánh?” Anh trầm ngâm uống một ngụm rượu Scot. “Nhà thờ chắc chắn giữ nhiều câu trả lời, trong lịch sử.”

“Cứ tiếp tục nói như vậy đi anh”, tôi trêu, “rồi đến Giáng Sinh anh sẽ bị tước mũ áo cho xem”.

Anh tôi lắc đầu. “Không có cửa đâu. Tổng giám mục với anh chơi khá thân đấy nhé. Bên cạnh đó, tên của anh cũng khiến người ta cân nhắc rồi. Anh được sinh ra để trở thành người mặc bộ quần áo này, em cũng biết anh có cảm giác mãnh liệt thế nào về con đường do định mệnh sắp sẵn rồi đấy.”

Tôi liếc nhìn Geoff và ánh mắt chúng tôi gặp nhau trong một thoáng. Lúc Tom và Iain bắt đầu một cuộc thảo luận riêng về các nội quy trong Cơ Đốc giáo, Geoff vươn người qua tôi để gọi thêm một vại nữa, anh đặt một bàn tay ấm áp lên vai tôi. Đó là một đụng chạm của sự cam đoan, của hứa hẹn, của một lời xin lỗi dịu dàng, và trái tim tôi dâng trào đáp lại.

Tôi có thể chờ lâu hơn một chút, tôi nhủ thầm. Vì Richard, tôi có thể chờ.