Mariana

Chương 21

May cho anh ta là đã không thể giữ vẻ mặt ngây thơ quá lâu. Nhe răng cười, anh ta rít thêm một hơi thuốc lá và gác lại công việc, quay sang đối mặt với tôi. “Mất nước vì một cái máy ảnh cho xem[1]”, anh ta nói, đôi mắt xám nhăn lại thích thú. “Cô nên nhìn lại mặt mình.”

[1] Nói lái từ lời thoại “Mất nước vì một con ngựa” của Richard III trong vở kịch cùng tên của Shakespeare.

Tôi khép cái miệng đang há hốc lại và lắc đầu sửng sốt.

“Làm thế nào anh biết tôi ở đây?” Tôi hỏi anh ta.

Iain chống tay lên eo và vặn người. “Tôi không có năng lực nhìn thấu tương lai đâu”, anh ta đảm bảo. “Chỉ là tôi đã nhìn thấy cô trèo qua hàng rào. Dù cô mất một khoảng thời gian quỷ quái để đến đây. Bên cạnh đó”, anh ta thêm vào, chỉ về phía đường nét rõ ràng từ những chiếc bóng của chúng tôi trên bức tường đổ, “nếu cô định lén làm gì sau lưng một gã Scotland, thì tốt nhất cô nên thực hiện điều đó khi mặt trời không chiếu lên lưng cô”. Anh ta nheo mắt lại một chút rồi hết nhìn lên lại nhìn xuống tôi. “Cô vừa đi lặn về đấy à?” Anh ta bình luận.

Tôi lấy làm ngạc nhiên khi không tự nhận ra sự thật ấy. Có lẽ tôi đã dần trở nên quen với cảm giác chiếc váy sũng nước của Mariana dính trên da thịt, để phát hiện tâm trí mình không còn lưu giữ cảm giác khó chịu nữa. Có chút tò mò, tôi nhìn xuống bản thân, đột nhiên nhận ra chiếc quần jean nặng nề cùng chiếc áo phông quá khổ đang bám chặt vào người. Tôi thử xọc tay qua mái tóc và đỡ căng thẳng phần nào khi thấy nó vẫn còn khô ráo, có chăng chỉ hơi lòa xòa một chút. Tôi phải nhìn một cái mới được.

“Tôi bị rơi xuống sông”, tôi nói với anh ta. “Tôi nghĩ cũng gần khô rồi.”

Iain nhìn vào bàn chân trần và khuôn mặt của tôi, nhướn một bên mày nâu đỏ lên. “Cô có thể bị cảm lạnh nếu cứ đứng như thế”, anh ta cảnh báo tôi. “Vào trong và hong khô người đi. Cô có thể mượn ít quần áo của tôi nếu muốn.”

“Hừm”, tôi phẩy tay, “nếu không có vấn đề gì…”.

“Không có vấn đề nào cả”, anh ta nói. “Tôi rất vui khi có người bên cạnh vào giờ ăn sáng.”

Chúa lòng lành, tôi nghĩ, mới đến giờ ăn sáng thôi? Nghe có vẻ thật kỳ cục, trước khi tôi nhắc mình nhớ chính tôi đã rời nhà vào lúc năm giờ sáng nay. Chuông của chiếc đồng hồ treo tường trong bếp nhà Iain kêu tám hồi khi chúng tôi vào căn nhà qua cửa hậu, như để xác thực cho cái giờ sớm sủa thế này.

“Tôi phải đi rửa ráy cái đã”, anh ta nói, giơ cả hai tay lên chứng minh, “nhưng cô có thể đi thẳng vào nhà và thay đám quần áo ướt đó ra. Cô sẽ tìm thấy phòng ngủ xuôi theo hành lang bên tay phải, có rất nhiều thứ có thể mặc được trong tủ áo”.

Thật kỳ quái, tôi nghĩ khi đứng chân trần trong phòng ngủ của Iain Sumner vài phút sau, trước cái cách tủ quần áo của một người đàn ông có thể nói lên anh ta là ai. Tủ quần áo của Iain trưng ra những chiếc móc áo sơ mi chồng chồng lớp lớp, từ vải cotton đến vải flanen kẻ sọc, vây bên cạnh là vài chiếc quần cùng một chiếc áo khoác dự tiệc trông bất hợp lý một cách lạ lùng. Tôi cởi đám quần áo ướt ra - đồ lót vẫn để lại vì giữ kẽ - và chọn một chiếc quần jean cùng áo sơ mi sọc màu xanh khỏi đống đồ được phân loại trước mặt.

Chiếc quần dài lượt thượt một cách buồn cười trên mình tôi và cứng còng quanh eo như quần áo của một chú hề, nhưng nhờ xắn cao gấu quần và buông thõng đuôi áo sơ mi, tôi cố gắng tạo nên một ấn tượng khá lôi thôi nhưng hợp thời trang có thể nhận được vinh dự xuất hiện trên trang bìa một tạp chí dành cho thanh thiếu niên.

Iain, lịch thiệp hơn bao giờ hết, không buông một lời bình phẩm về vẻ ngoài của tôi khi tôi quay trở lại phòng bếp với anh ta. Ngôi nhà miền quê này có một thiết kế rất đơn giản và tiện dụng, một phòng lớn được ngăn đều thành phòng bếp và phòng khách, chia dọc theo hành lang hẹp dẫn đến phòng ngủ và nhà tắm. Người ta có thể bắn một mũi tên vào cửa trước và nó lại bay vút qua cửa sau mà không chạm đến một mảnh đồ nội thất, cho nên không gian mở và thoáng đãng chính là nét đặc sắc của căn phòng.

“Tôi nên treo cái này ở đâu?” Tôi hỏi anh ta, giơ cao bọc quần áo ướt đẫm của mình.

“Tôi có một máy sấy ở sau kho”, anh ta nói, hất mái đầu về phía cửa hậu. “Nó trông hơi giống đồ cổ một chút, nhưng vẫn ổn nếu cô cho nó biết ai mới là ông chủ. Cô phải dùng sức mạnh.”

Lúc xác định được chiếc máy sấy bên dưới chồng dụng cụ trong nhà kho sáng rực, tôi mới hiểu ý anh ta là gì. Mất đến bốn lần thử mở máy và một cú đạp mới có thể khiến chiếc máy khởi động, nhưng chắc chắn tôi đã quay lại nhà bếp với cảm giác hả hê vô cùng.

“Mọi chuyện ổn chứ?” Iain ngước lên dò hỏi và khi tôi gật đầu, anh ta hướng sự chú ý trở lại chiếc chảo đang kêu xèo xèo trên bếp. Tôi để ý thấy anh ta đã nấu nướng cho cả hai người, và một tách cà phê bốc khói đang đợi tôi trên chiếc bàn bên cạnh anh ta. “Có khả năng phải để thêm một lúc nữa”, anh ta cảnh báo lúc tôi với tay nhấc chiếc tách lên. “Tôi mới pha cách đây vài giờ. Cô thích ăn trứng với xúc xích không?”

Tôi thận trọng nhấp một ngụm cà phê. “Tôi có.”

“Thực sự, theo lý thuyết thì”, anh ta nói, nhấc chiếc chảo khỏi bếp và chia món đồ trong đó vào hai chiếc đĩa. “Đó là tất cả những gì tôi có thể nấu. Bánh mì nướng nhé?”

“Vâng, cảm ơn anh.”

Anh ta đặt một miếng bánh mì phết bơ dày cộp lên cạnh đĩa và để nó lên bàn trước mặt tôi, rồi tự ngồi vào chiếc ghế đối diện.

“Vậy.” Anh ta gửi cho tôi một ánh nhìn thắc mắc. “Cái gì đã đưa cô ra khỏi nhà theo lối đó vào giờ này của buổi sáng vậy?”

Tôi nhún vai. “Tôi có cảm giác muốn đi bộ thôi. Tôi chưa đi xuôi theo bờ sông trước kia bao giờ và tôi muốn nhìn thấy nó chảy đến đâu.”

“Nên giờ thì cô biết rồi?”

“Vâng.” Tôi mỉm cười đáp lại anh ta, xúc thêm một nĩa khác từ bữa sáng thịnh soạn.

“Cô biết không, cô đã đi bộ khoảng ba dặm đấy, nếu cô đi cả quãng đường dọc theo bờ sông. Từ đây đến chỗ cô mất không đến một dặm đường. Thậm chí còn ngắn hơn nếu cô băng qua cánh đồng.”

“Vậy từ chỗ đó tôi đã nhìn thấy Exbury?” Tôi chỉ về một hướng chung chung và anh ta gật đầu.

“Phải. Cô có nghĩ mình bị lạc không?”

“Đừng cười nhé”, tôi nói với anh ta, “nhưng chuyện này từng xảy ra rồi. Cảm giác định hướng của tôi tệ vô cùng”.

“Cô không so với mẹ tôi được đâu”, anh ta nói. “Tôi nghĩ bà lần nào cũng làm một chuyến du lịch quanh cao nguyên mỗi khi ra khỏi nhà để đi đến chợ.”

Tôi bật cười trước hình ảnh đó. “Cả cha mẹ anh đều làm nghề nông à?”

“Lạy Chúa, không đâu.” Anh ta tu một hơi cà phê để nuốt trôi cả một mồm đầy bánh mì nướng. “Cả hai người họ đều không có khả năng phân biệt đâu là điểm cuối của cán cuốc kìa. Cha tôi là kế toán, ở Balloch. Còn mẹ tôi là luật sư, trước khi bà về hưu.”

Điều lý giải phần nào vì sao con trai họ đã theo học Cambridge, tôi nghĩ. Tôi nhìn quanh căn phòng lớn với đôi mắt quan sát tỉ mỉ hơn và thấy vài dấu hiệu thưa thớt về một phong cách sống tiện nghi - một món đồ nội thất chất lượng cao, một cặp tranh đáng yêu treo trên tường, một tủ sách mặt trước làm từ kính nhét đầy những cuốn sách bọc da bên trong...

“Tôi không kiêm luôn nghề thó đồ vào thời gian rảnh rỗi”, anh ta nói, dễ dàng đọc ý nghĩ của tôi một cách lạ lùng. “Một vài thứ thuộc về gia đình tôi, phần còn lại tôi mua thời còn làm việc cho cha của Geoff, ở Paris.”

“Vậy là anh đã từng làm việc ở Morland?”

“Phải, nhưng chỉ vài năm thôi. Nhưng ngoài việc khiến tôi phát điên thì công việc ấy chẳng mang lại lợi lộc gì cả”, anh ta thú nhận. “Chẳng thà tôi vầy vò với đám đất còn hơn. Cho nên tôi bỏ Morland và mua nơi này ngay sau sinh nhật thứ ba mươi, năm năm sau đó. Rất gần với Geoff, và phù hợp với nhịp sống của tôi.” Tôi cố gắng hình dung anh ta ngồi sau một chiếc bàn trong một văn phòng hiện đại nào đó, nhưng thất bại. “Vivien kể anh đã gặp Geoff ở Cambridge.”

“Phải, cái thời hư hỏng ấy.” Anh ta cười nhăn nhở với chiếc ly. “Ngay sau khi gặp cậu ta là điểm chác của tôi lao dốc không phanh. Tôi thật sự lấy làm ngạc nhiên khi cả hai chúng tôi đều không bị đuổi học.”

“Anh học Ngữ văn à?”

Anh ta gật đầu. “Thú vị hơn hẳn bất cứ thứ gì khác. Nhưng cô không thể kiếm sống bằng việc làm thơ.”

Không hiểu sao, tôi cũng không thể hình dung ra cảnh Iain Sumner làm thơ. Nghĩ đến đây, quả thực thật khó mà định hình được anh ta. Chính xác thì anh ta không hề đẹp trai - cằm anh ta quá ngang bướng và đôi mắt thì quá sắc sảo - tuy vậy vẫn còn có điểm gì đó... Anh ta rất đáng tin cậy, tôi nghĩ vậy. Đáng tin cậy, sôi nổi và là chỗ dựa vững chắc, tôi cứ có cảm giác thoải mái đến lạ lùng mỗi khi ở cạnh anh ta. Anh ta ngả lưng ra ghế và gạt chiếc đĩa trống sang một bên.

“Cô không phiền nếu tôi hút thuốc chứ?”

Tôi đặt nĩa xuống và lắc đầu. “Không đâu.”

Anh ta châm điếu thuốc rồi phẩy que diêm, sau đó đặt nó ngay ngắn sang một bên của chiếc đĩa. “Tôi nghe nói hôm qua cô đã đến dùng trà ở trang viên.”

“Nó giống một bữa ăn được chuẩn bị công phu[2] hơn”, tôi sửa lại. “Dì của Vivien là một đầu bếp tuyệt vời.”

[2] Nguyên tắc five-course meal: bữa ăn được phục vụ năm món, lần lượt từ xúp, khai vị, salad, món chính và tráng miệng.

“Đúng vậy”, anh ta đồng ý. “Tuần trước tôi phải sửa sang lại vài chỗ trong vườn hồng, nên dì Freda đã nấu ăn cho tôi. Nếu công việc của tôi mà kéo dài thì thể nào tôi cũng chẳng mặc vừa quần nữa cho mà xem.”

“Bác ấy bảo anh sẽ tiêu hao hết chúng.”

“Bà ấy đã nói thế á?” Anh ta rít một hơi thuốc và mỉm cười. “Tôi cho rằng bà ấy biết rõ nhất. Lúc nào cũng vậy. Cô biết không, đấy cũng chính là ý nghĩa cái tên Alfreda - ‘thông thái phi thường’, hay gì đó tương tự. Vivien đã từng tra cứu trong một cuốn sách giải nghĩa những cái tên.”

“Không khiến tôi ngạc nhiên.” Tôi nhấc hai chiếc đĩa ăn khỏi bàn và bê nó đến chỗ chậu rửa. “Chẳng phải những cái tên là những thứ rất khác lạ sao?”

“Tôi đoán vậy.” Giọng anh ta lơ đãng. “Tuy nhiên tôi bị mắc kẹt với một cái tên buồn chán.”

“Iain á? Tôi nghĩ nó hay đấy chứ.”

“Buồn chán”, anh ta bảo vệ ý kiến của mình. “Một dạng khác của cái tên John ở Scotland thôi. Chẳng dính dáng đến tí liên tưởng nào cả. Iain, Evan, Sean, Hans - tất thảy đều là biến thể từ một loại hình.”

Những chiếc đĩa va loảng xoảng trong bồn, làm Iain quay người lại trên ghế để nhìn tôi.

“Xin lỗi”, tôi nói, “tôi nghĩ mình vừa làm vỡ một cái rồi”. Tôi nhìn xuống đám mảnh vụn, trái tim nện thình thịch. Evan...

“Cô không bị thương chứ?”

Tôi tỉnh táo lại và lắc đầu. “Không. Chỉ chiếc đĩa thôi, tôi e là thế.”

“Không tổn hại gì cả”, anh ta quả quyết với tôi. “Tôi càng đỡ phải rửa một cái. Cô có muốn dùng thêm một chút cà phê không?”

“Vâng.”

Anh ta đứng dậy và rót đầy hai cái tách. “Có muốn dạo quanh nơi này không?” Anh ta hào phóng đề nghị. “Tôi phải thừa nhận nó không được ấn tượng như lâu đài, nhưng cũng có nhiều thứ đáng xem lắm.”

Tôi đẩy người khỏi quầy bếp. “Có.”

“Tốt hơn hết cô đừng đi chân trần”, anh ta khuyên, thoáng nhìn về phía tôi, “không thì cô sẽ giẫm phải thứ gì đó không mong muốn đấy. Tôi nghĩ có một đôi ủng còn dư ở sau cửa bếp”.

Tôi tìm thấy đôi ủng và xỏ chân vào, cảm giác mình ăn mặc giống một chú hề hơn bao giờ hết. Iain thì nhìn tôi và nhăn nhở cười.

“Hơi rộng một chút hả?” Anh ta bình luận. “Đừng lo, tôi sẽ đi thật chậm.”

Tôi nhe răng cười đáp lại. “Đừng bận tâm. Chỉ cần không để ai nhìn thấy tôi thế này là được rồi.”

“Chỉ lũ cừu thôi”, anh ta hứa, “và tôi đảm bảo đã cho chúng nhìn những cảnh tượng còn kỳ quặc hơn nhiều”.

Tôi nghiêng người cho anh ta đi qua, một trong hai chiếc bốt lố lăng va phải một chiếc đĩa trượt bằng gốm.

“Tôi không biết anh nuôi chó”, tôi vừa nói vừa nhìn xuống.

“Không đâu.” Nụ cười của anh ta ngượng ngùng. “Nó chết vài tháng trước rồi. Tôi vẫn chưa có can đảm thu dọn những món đồ của nó.”

“Anh nên nuôi một chú chó khác.”

“Sau cùng, chắc tôi phải làm vậy thôi. Lùa đàn cừu không phải nhiệm vụ nhỏ nếu không có một chú chó. Trong thời gian đó có một người hàng xóm vẫn cho tôi mượn con Côli[3] của ông ấy mỗi khi tôi cần.”

[3] Giống chó cỡ trung, lông dài, thường được huấn luyện để chăn cừu.

Anh ta giữ cửa sau mở ra cho tôi và chúng tôi bước ra ngoài ánh nắng mặt trời, Iain tiến lên phía trước với những sải chân khỏe khoắn và dễ dàng, còn tôi thì ì ạch theo sau trong đôi ủng quá khổ. Chúng tôi mất hơn một giờ để đi quanh khu đất, lúc quay trở lại ngôi nhà, có mùi hơi khét bay ra từ sau kho ở gần đấy, quần áo của tôi thế là khô hoàn toàn rồi.

“Nếu cô muốn thay đồ, tôi có thể cho cô đi nhờ vào thị trấn”, Iain đề nghị. “Đi bằng ô tô sẽ nhanh hơn, cô không cần đi bộ trên đường với đôi bàn chân trần nữa.”

“Tôi không muốn gây phiền toái cho anh”, tôi bắt đầu, nhưng anh ta gạt những lời phản đối của tôi sang một bên.

“Không phiền hà gì cả. Dù sao tôi cũng phải ngừng lại ở quán Sư Tử Đỏ vài phút. Sau đó tôi có thể đưa cô về nhà.”

Iain mất vài lần mới khiến chiếc xe già cỗi khởi động, và tôi có thể đoán chính xác rằng anh ta rất hiếm khi sử dụng chiếc xe này, bởi mọi lần tôi nhìn thấy anh ta, anh ta dường như đều đi bộ. Theo anh ta nói, từ đây đến Exbury chỉ là một hành trình rất ngắn, không đến nỗi phải mở máy một chiếc xe. Những cánh đồng và rào ngăn lướt qua chúng tôi trước khi tôi có thời gian thực sự lưu giữ hình ảnh của chúng vào trong tâm trí, chúng đã bị thay thế bởi nhà cửa và vườn tược, chúng tôi đã tiến dần đến bãi đỗ xe của quán Sư Tử Đỏ rồi.

Vivien đang lau những khung cửa sổ bên ngoài. Cô bước đến chào và khoanh hai tay trước ngực khi chúng tôi leo ra khỏi xe.

“Tôi vừa mới nhận được điện thoại của anh cô”, cô cho tôi biết.

“Tommy á?” Tôi nhướn mày ngạc nhiên. “Anh ấy gọi cho cô làm gì vậy?”

“Nghe có vẻ anh ấy đang cố gắng tìm kiếm cô”, cô ấy tươi cười nói. “Anh ấy vừa ghé qua nhà cô, giờ thì đang xử lý đống đồ ăn trong tủ lạnh và chờ cô về đấy.”

“Có phải đó là người anh trai làm mục sư của cô không?” Iain dò hỏi và tôi gật đầu.

“Anh chưa gặp vào cái lần ghé qua gần đây nhất của anh ấy phải không, Iain?” Vivien nhìn anh ta. “Em nghĩ hôm đó anh ở Marlborough. Phải nói anh ấy khá là vui tính”, cô ấy đột nhiên nghĩ đến điều đó và quay sang tôi. “Sao cô không gọi điện bảo anh ấy đến gặp cô ở đây? Tôi vẫn chưa phải mở cửa trong vòng hai giờ nữa; chúng ta có thể ngồi ở quầy bar và mở một bữa tiệc.”

Iain nhìn nhanh Vivien. “Em không nghĩ vẫn còn hơi sớm để uống rượu sao?”

“Anh không biết anh trai Julia rồi”, cô ấy đáp. “Đi vòng về phía sau đi Julia, cô có thể gọi cho anh trai ở đó.”

Anh trai tôi đã kìm nén trí tò mò của bản thân một cách đáng khen ngợi khi tôi nói chuyện điện thoại với anh, thậm chí anh còn không tỏ ra ngạc nhiên lúc tôi nhờ anh tìm một đôi giày trong phòng thay quần áo và lái xe đến gặp chúng tôi ở quán Sư Tư Đỏ.

“Kiểu cách hay bình thường?” Là câu hỏi duy nhất của anh.

“Gì cơ?”

“Giày ấy”, anh nói thêm.“Kiểu cách hay bình thường?”

“Ồ, bình thường thôi.”

“Được rồi. Anh sẽ có mặt trong vòng năm phút.”

Tôi chuyển lời nhắn cho Vivien, người đã cười như một đứa trẻ sắp được nhận quà. “Tuyệt vời”, cô nói. “Cả hai qua quầy bar đi nào, tôi sẽ mở một chai rượu.”

Iain theo chúng tôi qua cánh cửa nối liền từ dãy phòng của Vivien đến mặt tiền quán rượu, hai mày của anh ta nhướn cao. “Một mục sư uống rượu vào mười giờ sáng”, anh ta kinh ngạc suy đoán. “Tôi phải gặp mới được.”

Anh ta đã có cơ hội ấy khi Tom lái chiếc xe vào bãi đỗ đúng năm phút sau theo như lời hẹn. Lúc Vivien mở cửa cho anh, anh đang giơ chân chuẩn bị bước với chiếc giày tennis giữ thăng bằng trên những ngón tay giơ lên, như thể chúng là đôi hài thủy tinh.

“Anh mang giày cho em rồi đây này”, anh nói nghe rất kịch. “Thế đã đủ tư cách để vào cơ ngơi này chưa?”

“Đồ ngốc”, tôi chào. “Vào đi.” Tôi lấy chiếc giày khỏi tay anh. “Cái gì, anh mang một chiếc thế này thôi á?”

“Anh chỉ tìm được mỗi một chiếc”, anh vô tình đáp lại. “Tủ để giày của em đúng là một thảm họa.”

“Cô có thể mượn một đôi giày của tôi”, Vivien bật cười đảm bảo với tôi. “Tôi có nhiều lắm.”

Cô ấy tìm cho tôi một đôi giày lười cũ và chúng tôi cứ thế dành ra vài giờ vui vẻ ngồi trước quầy bar, theo dõi chai rượu vơi dần. Tôi rất mừng vì thấy Tom và Iain dễ dàng kết bạn thế nào, ngay sau khi họ được giới thiệu với nhau. Chỉ cần một lời bình luận bâng quơ về chính trị thôi là cả hai người đàn ông nhanh chóng mải mê thảo luận sôi nổi, đi hết từ chủ đề này đến chủ đề khác với tốc độ ánh sáng, trong khi Vivien và tôi ngồi ngả lưng trên ghế và thong dong nhấm nháp rượu.

“Anh rất thích Iain Sumner”, Tom thổ lộ với tôi sau đó, lúc chúng tôi liêu xiêu ra khỏi quán Sư Tử Đỏ và ngồi vào trong chiếc xe.

“Em mừng lắm”, tôi nói. “Anh lái được chứ?”

Anh trai trao cho tôi một ánh nhìn hợm hĩnh. “Anh chỉ uống một ly thôi. Không như ai đó.”

Tôi cố nặn ra vẻ mặt đường hoàng. “Anh đang ngụ ý em say rượu hay gì đó đấy à?”

“Xỉn rồi.” Anh gật đầu. “Đã thế còn trước buổi trưa.” Anh tặc lưỡi trách mắng. “Anh sốc đấy.”

“Cố vượt qua đi”, tôi ngoẹo cái đầu lắc lư sang một bên ghế để nhìn anh. “Thật mừng khi được thấy anh, Tom à. Em không nghĩ anh đã từng đến thăm em nhiều thế này khi em còn sống ở Luân Đôn. Anh sẽ mài mòn những cái rãnh trên đường cho xem.”

Anh mỉm cười. “Lần này là một chuyến ghé thăm chớp nhoáng thôi mà. Anh đang trên đường đến dự một hội nghị ở Bristol. Khi mới đến vùng lân cận, anh chỉ nghĩ mình sẽ dừng lại chào em rồi đi luôn.”

Tôi quan sát kỹ gương mặt anh. “Mẹ gửi anh đến để kiểm tra em thế nào, đúng không?”

“Đúng rồi đấy.”

“Hừm, anh có thể bảo với mẹ là em ổn”, tôi nói, quay trở lại nhìn kính chắn gió. Chúng tôi đã ra đến đường lớn, vừa rời khỏi ngôi làng, những hàng cây dần quây kín hai bên chúng tôi.

“Em thực sự không thể trách mẹ vì đã lo lắng được”, Tom bình luận. “Bà mẹ nào chả vậy. Sáng nay em còn khiến anh lo hơn nữa, khi anh đến và thấy em mất tăm mất tích.”

“Em không ngủ lại được sau cuộc điện thoại với mẹ”, tôi giải thích. “Nên em đi dạo một chút.”

Anh cho xe đi chậm lại để một chú nhím bò qua đường. “Em không khóa cửa lúc ra ngoài.”

“Em không thích cái khóa mới”, tôi bảo anh. “Nó cứng lắm, không phải lúc nào em cũng xoay được nó. Cho nên trừ khi ra khỏi nhà nhiều dặm, em sẽ không cần phải bận tâm khóa nó lại. Bên cạnh đó”, tôi thêm vào với tông giọng thực tế, “đôi khi Ian cũng làm việc ở khu vườn sau nhà, và anh ấy có thể cần uống nước, hoặc sử dụng nhà vệ sinh”.

“Đúng là cuộc sống làng quê.” Nụ cười của anh tôi nhạt đi. “Nếu anh là một kẻ đa nghi”, anh nói, “có thể anh đã nghĩ cuộc dạo chơi nho nhỏ của em đã tiến thẳng về thời Trung Cổ luôn rồi”.

“Thế kỷ mười bảy”, tôi sửa lại.

Nếu anh trực tiếp hỏi, tôi nghĩ, tôi sẽ kể cho anh nghe. Tôi chưa bao giờ giỏi nói dối Tom - anh lúc nào cũng dễ dàng lật tẩy tôi. Nhưng anh không hỏi.

“Sao cũng được.” Anh nhún vai và lấy lại tốc độ, suốt phần còn lại của chuyến đi, chúng tôi cứ lái xe trong im lặng.