Madam Nhu Trần Lệ Xuân Quyền Lực Bà Rồng

Chương 13

Docsach24.com
à Nhu đáp xuống New York trễ vài giờ so với kế hoạch. Chuyến bay của hãng Pan American từ Paris gặp nhiễu loạn không khí đâu đó trên bầu trời Đại Tây Dương; những cơn gió ngược đập mạnh vào máy bay. Đó không phải là sức mạnh duy nhất chống lại bà. Cơn bão Flora vẫn còn quanh quẩn ngoài khơi nước Mỹ, tuy đã tiến sâu về phía nam. Nó đã làm thiệt mạng 4.000 người ở Haiti, và không ai biết chắc tiếp theo nó sẽ di chuyển đến đâu hay sẽ gây ra thiệt hại gì khi nó đổ bộ vào đất liển các tiểu bang. Máy bay chở bà Nhu hạ cánh xuống phi trường Idlewild trong sự yên ả trước bão tố.

Việc phi trường này sẽ được đổi tên thành JFK, và việc Tổng thống John Fitzgerald Kennedy mà những ký ức về ông nó được tôn vinh sẽ bị ám sát chỉ trong vài tuần tới, là không thể nào tưởng tượng nổi trong buổi chiều dịu nắng ngày 7 tháng Mười, năm 1963 ấy. Dường như không thể nào có chuyện những gì công luận Mỹ vẫn xem xét cuộc chiến nhỏ nhặt ở Việt Nam, một vùng đất xa xôi ở phương Đông lạ lẫm, sẽ leo thang thành sự hủy diệt trong thập kỷ tới. Sự kiện Vịnh Bắc bộ vẫn còn một năm nữa mới xảy ra; nhân viên Mỹ hiện diện ở Việt Nam chỉ mới là 15.000 cố vấn quân sự - rất xa với con số 200.000 người sẽ có mặt ở quốc gia này vào cuối năm 1965. Vào năm 1963, vẫn chưa có bộ binh.

Nhưng Việt Nam đã đến với Hoa Kỳ - ít nhất là trong hình dáng bé nhỏ của bà Nhu để chuẩn bị cho một chuyến đi tiếp xúc báo chí trên toàn nước Mỹ. Lẽ ra bà nên sợ hãi. Mọi thứ đang bị đe doạ - gia đình bà, đất nước bà, thậm chí sự an toàn của bà. Hình như bà nhận biết mối nguy đó. Bà cảm thấy, bà thú nhận, mình như “con mèo con bị tóm cổ ném vào đấu trường sư tử”. Cho nên lẽ ra bà phải biết bà đang đi trên băng vỡ. Lẽ ra bà nên im lặng. Lẽ ra bà không nên đến Mỹ. Nhưng nếu vậy nó sẽ làm bà Nhu trở nên khả đoán, mà bà hoàn toàn không phải như vậy.

Bà dạn dĩ bước ra khỏi máy bay, son môi hồng tươi và nụ cười rạng rỡ. Chuyến đi xuyên Đại Tây Dương lúc ấy vẫn còn là cái gì xa hoa - những bữa ăn thịnh soạn, phục vụ theo cung cách Trung Hoa, với vô vàn thức uống. Mọi người ăn mặc trịnh trọng cho những chuyến bay. Bà Nhu khoác chiếc khăn choàng lông chồn sẫm màu lên bộ váy nâu bó sát thân hình mảnh dẻ; đôi giày gót nhọn lòi ra dưới ống quần trắng. Bà đi dọc hai hàng ghế mà không chỉnh lại tóc, vốn đã lệch rối chút ít trong chuyến bay dài. Một lọn tóc bướng bỉnh bật lên sau vành tai trái khi bà rảo bước tới sảnh nhà ga.

Một vài tùy viên cấp thấp của Tòa Đại sứ Việt Nam Cộng hòa ở Washington, D.C, có mặt ở sân bay để đón bà Nhu. Bà đưa bàn tay đeo găng với cổ tay thẳng vẫy chào họ, vẻ rất uy nghi. Còn có các thành viên của phái đoàn ngoại giao Việt Nam Cộng hòa ở Liên Hiệp Quốc, và bao trùm lên họ là vô số những gương mặt da trắng và ánh đèn rực sáng.

Bà Nhu phải mất bao lâu để nhận ra những sự vắng mặt đáng chú ý khác? Không có đại diện chính thức của Hoa Kỳ. Không có ai ở liên bang, tiểu bang, hay thậm chí quan chức địa phương đến gặp Đệ nhất Phu nhân của nước Việt Nam Cộng hòa, đồng minh chính thức của Hoa Kỳ trong cuộc chiến Chiến tranh Lạnh chống lại Chủ nghĩa Cộng sản. Chỉ có một sĩ quan cảnh sát, cùng cấp dưới của anh ta, và bốn cảnh sát tuần tra của thành phố New York có nhiệm vụ bảo vệ an ninh cho bà. Cựu đại sứ Trần Văn Chương và vợ ông cũng vắng mặt. Mặc dù thực sự họ đang ở thăm New York hôm đó, nhưng không nhằm mục đích đón con gái mình. Thay vì vậy, vợ chồng ông Chương đang gióng hồi chuông báo động cho khắp thành phố này về những tàn phá mà cặp vợ chồng đói khát quyền lực Nhu - Xuân đang gây ra cho Việt Nam Cộng hòa. Họ cảnh báo rằng chính phủ ở đó không thể cải cách được nữa. Cha mẹ bà Nhu kêu gọi truất phế bà.

Bà Nhu tiếp tục đi, băng qua mặt sân nhựa đường để đến sảnh nhà ga Pan American - một khối tròn lớn lơ lửng trông như con tàu vũ trụ xa lạ. Một trăm nhà báo và phóng viên ảnh xô đẩy nhau để được nhìn rõ hơn những bước chân đầu tiên của bà trên đất Mỹ. Các nhà báo hẳn phải ngạc nhiên tự hỏi làm thế nào mà người đàn bà nhỏ bé này lại là tâm địa chấn của quá nhiều vấn đề như vậy. Những cái micro nhỏ xíu và những cái máy ảnh chực chờ ghi nhận mọi dấu hiệu thiếu tự tin, một điểm yếu trong tính cách. Nhưng bà Nhu đã quen với việc tự chủ trước đám đông. Nụ cười của bà trông khá tự nhiên.

Bà Nhu đi tới cái bục dành sẵn cho bà. Bà phải đứng trên một chiếc ghế nhỏ để sờ được cái micro. Giọng bà vang lên rắn rỏi và rõ ràng như tiếng chuông khi bà đưa ra một vài nhận định đã chuẩn bị trước - bà đang trông chờ vào chuyến đi sắp tới, bà nói. Một chiếc khăn choàng đã che giấu một cái gì đó vốn có thể phơi bày trong mắt bà.

Một phóng viên từ cuối phòng hỏi bà Nhu về những chỗ trống ai cũng nhìn thấy trong đám đông. Bà Nhu quay sang cô con gái cả mười tám tuổi, người đã tháp tùng bà trong chuyến đi này, giúp việc phiên dịch, và Lệ Thủy tiến lại gần mẹ. Lệ Thủy để kiểu tóc ngắn chạm vai hình quả chuông. Một cái nơ to tướng gắn quá thấp vào một bên gây cảm giác nó có thể tuột ra bất cứ lúc nào. Đó là kiểu cách thời trang lúc bấy giờ. Cô đào Mary Tyler Moore hai mươi ba tuổi cũng xuất hiện với kiểu tóc ấy trong một hồi kịch truyền hình Dick Van Dyke Show sẽ phát sóng cuối tuần đó. Trông như một nữ sinh ngoan hiển, Lệ Thủy thì thầm vào tai mẹ nửa tiếng Việt nửa tiếng Pháp.

Bà Nhu nhắm mắt lại, khẽ gật đầu.

“Tôi đã trở thành, ngoài ý muốn của tôi, một con người gây tranh cãi. Tôi không muốn gây rắc rối cho ai cả”. Vì giờ đây đã ở trên nước Mỹ, bà Nhu nói bà làm mọi cách để “cố hiểu vì sao chúng ta không thể sát cánh bên nhau”.

Khi bà Nhu nói tiếng Anh, giọng bà trầm bổng lên xuống, và một số từ quyện vào nhau rù rì. Lối nói của bà nghe gán như ve vãn. Nhưng cái nhún vai nhẹ buồn trước khi bà chui vào chiếc Cadillac cho đa số đàn ông trong phòng họp thấy chính xác cái gì họ đang chờ đợi: Họ cẩn trọng nắm bắt một cái gì đó mỏng manh và nhân văn bên trong người đàn bà mà họ đặt cho biệt danh là Rồng Cái.

Lịch trình khép kín xuyên nước Mỹ của bà Nhu sẽ đưa bà đi qua mười hai thành phố trong hai mươi hai ngày. Bà đã được mời trước đến nói chuyện mười bảy buổi trên đài phát thanh và đài truyền hình, cộng với mười bảy cuộc hẹn nói chuyện, mười một trong số đó tại viện đại học và trường đại học. Bà còn được mời với tư cách khách mời danh dự đến mười lăm buổi chiêu đãi trúa và tối. Nhưng sự nhiệt tình của người Mỹ có khía cạnh ám muội của nó.

Những lời mời nói chuyện với giới nhà báo và các sự kiện tư nhân, các câu lạc bộ báo chí, và các cơ sở học thuật đã được đưa ra bất chấp ý muốn của chính phủ Mỹ. Tự do báo chí như thế - và sự công khai coi thường những ý muốn của chính phủ - là không thể tưởng tượng được ở Việt Nam Cộng hòa. Vài chục năm sau, bà Nhu vẫn không hiểu được. Bà viện dẫn nó như một bằng chứng về sự vỡ mộng của bà đối với người Mỹ. Bà tự hỏi, tại sao giới truyền thông đại chúng Mỹ và các trường học danh giá nhất của quốc gia này có thể mời bà, để rồi sau đó chính quyền tìm cách nói, “Đừng đến”.

Dân chúng Mỹ cần có một hiện tượng. Chính quyền Mỹ thì tìm cách ngăn chặn nó. Cho nên nó đã làm cái nó có thể làm, về mặt ngoại giao, để ngăn cản bà thăm viếng quốc gia này. Harlan Cleverland ở Bộ Ngoại giao gọi riêng tân đại sứ Việt Nam Cộng hòa ở Hoa Kỳ đến Washington để hỏi chính quyền sở tại có sử dụng biện pháp nào nhằm “giảm nhiệt” bà Nhu không. Tân đại sứ đến từ Sài Gòn đã nói rõ qua những cuộc nói chuyện bí mật với các quan chức Mỹ rằng cá nhân ông nghĩ bà nên bị “loại bỏ”, nhưng ông vẫn bóng gió nói làm sao việc đó có thể thực hiện được. Lo lắng cho cái ghế và có thể cả cái đầu của mình, ông phải tế nhị hơn. Ông gởi năm bức điện tín về Sài Gòn trước khi bà Nhu đến Mỹ. Ông chỉ biết rằng Đệ nhất Phu nhân đã được căn dặn riêng phải “trầm tĩnh”. Mọi người không tin chuyện đó có thể xảy ra.

Các phóng viên Mỹ tác nghiệp rất giỏi. Họ có thể khiêu khích bà Nhu để bà cự cãi giữa đông người. Việc đó thêm dễ dàng vì quí bà này “không may lại quá xinh đẹp để có thể làm ngơ”. Vì thế chính quyền Mỹ tìm cách làm nhục giới truyền thông thay vì bà Nhu. Một viên chức cao cấp giấu tên trong chính phủ Kennedy đã chỉ trích không chính thức các tên tuổi lớn nhất trong giới truyền thông: CBS, NBC, Time, Newsweek, và New York Post. Họ đang chú ý quá nhiều đến ả Rồng Cái này. Lẽ nào họ không biết mối nguy hại tiềm tàng khi trao cho bà Nhu một diễn đàn để bà trình bày lập trường của mình trước dân chúng Mỹ? Nguy cơ của Mỹ ở Nam Việt Nam là rất cao, và người đàn bà nhỏ nhắn này đe dọa mọi thứ.(1)

Do bà Nhu đang làm lạnh xương sống chính quyền Kennedy, bà trở thành người bạn dễ gần trong năm tranh cử với các đối thủ của ông, như vợ chồng Dougherty, họ có cả một gia sản lớn ở Texas và một giếng dầu trước sân nhà, và Clare Boothe Luce đáng gờm, nghị sĩ Đảng Cộng hòa và là vợ của Henry Luce, người tạo dựng đế quốc báo chí Time-Life. Họ nằm trong số nhiều thành viên bảo thủ và Đảng Cộng hòa muốn chìa bàn tay nồng nhiệt ra mời Đệ nhất Phu nhân của Việt Nam Cộng hòa đến Mỹ. Marguerite Higgins cũng tỏ ra là người bạn chung thủy. Bà viết ra những điều cần nói và những điều cần tránh. Những điều cấn tránh bao gồm một số cụm từ ưa thích của bà Nhu: bà phải tránh sử dụng những cách nói như “âm mưu có hệ thống” và “các nhà sư bị đầu độc”. Higgins cũng cảnh báo bà Nhu không nên chỉ trích Tổng thống Kennedy thẳng thừng như vậy.

Vì không công nhận bà là khách mời “chính thức” đến Hoa Kỳ, Bộ Ngoại giao công khai nói với bà Nhu rằng họ không bảo đảm an ninh cho bà. Bà một mình tự lo lấy. Sự thiếu vắng các nghi thức ngoại giao khi bà đến New York truyền đi một thông điệp rõ ràng. Sự công nhận chính thức duy nhất đối với chuyến viếng thăm của bà Nhu được thể hiện bằng sự phản đối. Thượng nghị sĩ Stephen Young, một thành viên Đảng Dân chủ ở Ohio, nói rằng bà Nhu “quá tự cao tự đại” và nên đưa bà trở lại Việt Nam Cộng hòa. Hạ nghị sĩ Wayne L. Hayes, Chủ tịch Uỷ ban Đối ngoại Hạ viện của Quốc hội Hoa Kỳ, đã cho lưu hành trên nội san Quốc hội đơn kiện chính thức “người phụ nữ xấu xa” đã vào đất nước này bằng hộ chiếu ngoại giao. Và mặc dù bà Nhu không biết điều đó, bà thậm chí còn nhận một lời cảnh báo từ đích thân Tổng thống Hoa Kỳ.

Vào tháng Tám và tháng Chín, bà Nhu đã gởi nhiều lá thư từ Sài Gòn và sau đó từ Paris đến Phó Tổng thống Lyndon Johnson, hỏi về việc bà có được hoan nghênh ở Hoa Kỳ không. Bà cảm thấy thoải mái khi hỏi ông Johnson - bà đã được biết ông trong chuyến công du của ông đến Việt Nam, và những cô con gái tuổi mới lớn của họ đã thành bạn bè. Nên bà Nhu nghĩ bà sẽ viện đến tính cách lịch lãm của người đàn ông cao lớn vùng Texas. Bà đã quyến rũ được ông không lâu trước đây và giờ đây bà chòng ghẹo ông trong thư để ông không “sợ hãi vì một quí bà”.

Nhưng cá nhân Tổng thống Kennedy thì phật ý về chuyến viếng thăm sắp tới của bà. Trong cái nhìn của ông, bà Nhu làm nhu nhược những người đàn ông chung quanh bà. Bộ Ngoại giao đã cảnh báo hồi tháng Tám rằng bà làm xói mòn uy quyền bằng cách xuất hiện để dẫn dắt những người đàn ông vây quanh “quá phụ thuộc vào bà”. Ông Kennedy không có ý định để cho sự tiếm quyền đó xảy ra trên đất Mỹ. Bản phác thảo lời hồi đáp cho lá thư của bà Nhu của văn phòng ông Johnson được gởi tới Nhà Trắng; ông Johnson muốn đích thân Kennedy chấp thuận nó.

“Đây không phải loại thư từ mà ông viết cho một phụ nữ đầy quyến dụ”, ông Kennedy quở trách với nụ cười nhạo báng. Ông đang đọc nó trong phòng tắm hơi, một kiểu văn phòng thay thế cho Tổng thống, người bị đau lưng nặng. Nghe nói rằng ông nảy ra được nhiều ý tưởng xuất sắc trong khi tắm. Thực vậy, các cố vấn của ông Kennedy thường tập trung quanh Tổng thống, người tiếp họ trong lúc ở trần từ thắt lưng trở lên và che đậy phần dưới thắt lưng bằng một chiếc khăn tắm - ít nhất đó là những gì ông thường được miêu tả. Trong khi đó, các cố vấn mặc vét, đeo cà vạt và thậm chí ngồi trên bệ cầu hoặc ngồi chồm hổm trên nền gạch ẩm ướt.

Ông Kennedy tập trung suy nghĩ một chút về cách viết lá thư trả lời bà Nhu. “Nó cần phải tế nhị hơn và..”. Ý tưởng đó chựng lại khi ông đang nghĩ cách viết thư hồi đáp. Ồng Kennedy diễn giải về nhan sắc và sự quyến dụ của bà. Ông cũng gửi đến bà lời cảnh báo về “một số sự kiện chính trị về cuộc sống”. Lá thư yêu cầu bà xem xét, “càng khách quan lạnh lùng càng tốt câu hỏi liệu bà đến đây sẽ hữu ích hay gây khó khăn thêm”. Phó Tổng thống Johnson đọc bản nháp lá thư được biên tập lại và thấy “khá tốt”. Ông nghiêm cẩn ký lá thư và gởi đến bà Nhu như lá thư của riêng ông.(2)

Bà Nhu có thể đã không biết ai là tác giả thực sự, nhưng bà đã nhận ra thông điệp giữa những dòng chữ. Tôi chỉ có thể hình dung cái cằm của bà bạnh ra khi bà dùng bút bi gạch bỏ lá thư hồi đáp trịch thượng. Quyết định không im lặng đứng nhìn của bà là quyết định của lương tâm, bà nói. Bà sẽ đi Hoa Kỳ. Và tóm tắt sự mạnh mẽ trong ý định của mình với cách nói cường điệu điển hình, bà viết, “Tôi từ chối đóng vai đồng lõa trong một vụ thảm sát tàn bạo”.

Có thể nói, vụ “thảm sát” mà bà để cập đến trong lá thư là lối tu từ hoa mỹ. Thư ký Nhà Trắng đưa vào tập hồ sơ thư từ trao đổi hẳn đã nghĩ thế khi cô viết nguệch ngoạc lên trên dòng chữ: “không cần hồi đáp”. Nhưng vài tuần sau, khi chồng bà Nhu và người anh chồng của bà thực sự bị giết chết một cách tàn bạo, cụm từ đó trong lá thư của bà Nhu được xem như một tiên báo kỳ dị. Vào thời điểm bà Nhu viết những dòng chữ đó, cuộc đảo chính sẽ lật đổ và giết chết hai anh em họ Ngô đã nhận được sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ. Mưu đồ đó lẽ ra phải được giữ thật kín, với những bức điện tín được mã hóa, những thư báo mật, và những cuộc họp bất hợp pháp ở Sài Gòn. Nhưng bà Nhu hình như biết điều đó. Và bà chuẩn bị đến Hoa Kỳ trong một chuyến đi mở rộng thăm một quốc gia mà bà gần như kết tội gây ra vụ thảm sát có chuẩn bị trước.

Bà Nhu đã được “khuyên can mạnh mẽ” không nên đi, bà giải thích với đặc phái viên đài CBS trên chuyến bay vượt Đại Tây Dương từ Paris. Bà muốn nói tới lá thư của ông Kennedy và lời từ chối không bảo đảm an ninh cho bà của Bộ Ngoại giao, bà cũng muốn nhắc đến những thông điệp khác mà bà nhận được từ các nhà ngoại giao Việt Nam đầy băn khoăn.(3) Nhưng bà Nhu vẫn kiên định, theo cách mà bà gọi là “tinh thần nghịch lý của nữ tính - có thể nếu người ta mời, khăng khăng muốn tôi đến, thì tôi lại không đi!” của bà. Và sau đó, theo nhà báo này, bà Nhu cười khúc khích và rung nhẹ người lên như cánh bướm xao xuyến, chuyên viếng thăm của bà là sự bốc đồng đỏm dáng, như bà từng tìm cách thuyết phục nhà báo kia trên chuyến bay, hay bà là “nhà tuyên truyền khát khao quyền lực”, như cha bà, cựu đại sứ, tuyên bố?

Sự thật là bà Nhu có nhiều quyền lực hơn cái chính quyền đang lung lay mà bà bỏ lại sau lưng ở Nam Việt Nam. Chế độ Ngô Đình Diệm đang bất lực, và bà biết điều đó. Nó yếu và thủ thế, trong khi bà sôi nổi và hùng hổn. Bà tin vào bản thân hơn cả tin vào chồng và anh chồng bà. Bà không chịu ở nhà làm một người nội trợ lặng lẽ trong khi đám du thủ du thực vây ráp bà. Suy cho cùng, bà từng đối mặt với súng đạn; bà từng gom nhặt quần áo và bồng con nhỏ băng qua cầu an toàn. Bà đã khuất phục băng đảng Bình Xuyên và Tướng Hinh vĩ đại. Bà Nhu tin chắc vào bản thân, và sự tự tin của bà chưa bao giờ phản bội bà.

Sự tự tin của bà Nhu được hậu thuẫn bởi kỹ năng chính trị bẩm sinh. Ngay cả những người, như cựu đại sứ Việt Nam Cộng hòa Lawton Collins, nghĩ bà là một “con cáo già”, vẫn không thể không thấy sự vận động chính trị - và sự can đảm của bà - rất nổi bật. Các nhà báo ngoại quốc từng chứng kiến những lần bà thể hiện sự dũng cảm ở Sài Gòn đều bất đắc dĩ phải thừa nhận họ nể sự táo bạo của bà - và bà Nhu hẳn đã cảm nhận được điều đó. Bà không quan tâm việc họ đặt cho bà biệt danh Rồng Cái; bà hiểu được sự thu hút đó. “Tôi tỏ ra không sợ hãi, điều đó đúng”. Cho nên người Mỹ đã mời bà rồi lại nói “Đừng đến” thì chuyện gì xảy ra? Do bà không được phép ở lại đất nước mình, nên bà thà đi vào một nơi bà ví như hang sư tử trong kinh thánh để xem bà có thể làm được gì hòng sửa chữa mối quan hệ đang căng thẳng giữa Việt Nam Cộng hòa và Mỹ bằng cách nắm giữ chí ít là ảo tưởng quyền lực từ bên trong.

Bà biết rằng bà không có gì để mất.

Các Viện Đại học Columbia, Harvard, và Princeton đòi mời cho được bà Nhu đến thăm trường mình. Tạp chí Time, báo New York Times, và các mạng lưới truyền hình cạnh tranh nhau để được tiếp xúc trực tiếp với Đệ nhất Phu nhân. Một số gia đình nhiều quyền thế ở Mỹ tiếp đãi bà trọng thị. Các nỗ lực của chính phủ Mỹ yêu cầu bà im tiếng chỉ củng cố thêm rằng bà thực sự là một nhân cách mạnh mẽ đáng gờm. Mọi sự chú ý, kể cả tiêu cực, dành cho chuyến đi thăm của bà chỉ làm bà thêm tự tin.

Bà Nhu ngụ lại New York chủ yếu ở tầng bảy của khách sạn Barclay. Khách sạn xa hoa này đã quen bảo vệ sự riêng tư cho khách của họ, trong đó có các ngôi sao nổi tiếng như Marlon Brando và Betie Davis. Ở tầng trệt là nhà thuốc tây Caswell-Massey uy tín. Greta Garbo và Katherine Hepburn từng là thân chủ của nó. Sarah Bernhardt có lần xài hết kem dưỡng da dưa chuột nổi tiếng của công ty này bèn yêu cầu hiệu thuốc chuyển gấp ba chục hộp cho chuyến lưu diễn châu Âu của bà. Sảnh khách sạn có những tấm thảm lộng lẫy và tường ốp ván mỏng. Một cái lổng chim mạ vàng khổng lổ án ngữ lối vào.

Bà Nhu không hề rời khỏi khách sạn trong ngày đầu tiên. Bà ẩn mình trong phòng 708, phòng suite với các cửa sổ treo màn dày kín, chỉ chừa cho bà một khe nhỏ để nhìn xuống Midtown Manhattan. Từ đó, Phố Bốn Mươi Tám chạy qua trước khách sạn để giáp với hai đại lộ, Lexington và Park, tạo thành hai góc vuông. Sự đối xứng đó tự nó không có gì nổi bật, nhưng thành phố này lúc nào cũng vậy, một làn đường trật tự với những chiếc Cadillac đen bóng, Buick mui mềm, xe buýt nội thành, và dĩ nhiên cả những chiếc taxi vàng. Cái thế giới này hẳn phải rất trật tự và phong lưu nếu nhìn từ trên cao đó, Những người đi bộ nhìn kỹ vạch giới hạn của vỉa hè. Những ngọn đèn đường điều khiển giao thông. Các doanh nhân mặc vét đen xử lý công việc thường ngày của mình bên trong các tòa nhà đứng san sát khách sạn của bà như những người anh em đua tranh xem ai cao hơn ai. Tất cả xác nhận những gì bà Nhu nghĩ - rằng người Mỹ có thể là một dân tộc chân thành, nhưng kiêu ngạo. Và không có gì ngạc nhiên; cứ nhìn quanh thành phố New York năm 1963 để xác nhận sự tự tin không-có-gì-là-không-thể đã ăn sâu vào các cấu trúc hạ tầng của nước Mỹ. Không thấy có dấu hiệu gì khép kín hay khiêm tốn.(4)

Belgrade, Rome, và dĩ nhiên chặng dừng chân cuối cùng của bà về phía Tây, Paris, từng rất đẹp theo kiểu thế giới cổ xưa đó - những con phố quanh co và tượng thạch cao vỡ vụn, những liên tưởng lịch sử và vinh quang phai nhạt. Đó là ấn tượng mà bà Nhu có thể thấu hiểu và là nền tảng của thế giới duy nhất bà từng biết đến. Mỹ học châu Âu và các chuẩn mực về cái đẹp đã định hình nên chính sách thuộc địa ở Đông Dương. Nhưng âm thanh của tất cả những thành phố Tây phương này vẫn còn quá xa lạ. Chúng là một nghịch âm của tiếng còi xe, tiếng xì xào, và tiếng còi hụ. Trái lại, những chiếc xe ngựa và xe xích lô chen chúc trên các ngã đường Sài Gòn là tiếng rù rù nghẹt họng mà chỉ cẫn một cơn mưa lớn là có thể át hẳn.

Chỉ cần vén tấm màn che của khách sạn Barclay là thấy ngay những người biểu tình phản đối. Họ đã có mặt trên con phố này từ đêm trước, hô to, “Biến đi Nhu! Biến đi Nhu!”. Những người này không giống như các nhà sư bình tĩnh tự thiêu ở đất nước bà Nhu. Họ cũng không giống những thanh niên híp-pi Mỹ hay các nhà hoạt động hòa bình tóc tai rối bù, những người sẽ phát động phong trào phản chiến chỉ trong vài năm nữa thôi. Thanh niên mặc vét, đeo cà vạt; phụ nữ mang giày và vớ cao. Kẻ trước người sau, họ tuần hành trật tự thành vòng tròn và trương những tấm áp-phích qua vai, với thông điệp “Kết liễu Diệm” và “Chấm dứt Chiến tranh ở Việt Nam” viết trên giấy xtăng-xin bằng những chữ rời rõ to. Xem lại băng ghi hình của cuộc biểu tình này, thấy nó có vẻ kỳ quặc và vô hại, một biểu thị thận trọng của tự do ngôn luận. Những chia rẽ đau đớn trong xã hội gắn với Chiến tranh Việt Nam sẽ đến sau này - tại Đại hội Đảng Dân chủ ở Chicago năm 1968, tại đây cảnh sát đẩy lùi những người biểu tình đang đốt những tấm thẻ quân dịch, và dĩ nhiên ở Đại học Kent State. Nhưng nhóm người biểu tình bên ngoài khách sạn của bà Nhu năm 1963 là nhóm cực đoan thời đó. Hầu hết người Mỹ vẫn một dạ tin vào hiệu ứng domino và nhìn chung họ tin tưởng chính phủ của mình. Khi Tổng thống Kennedy nói rằng Hoa Kỳ có trách nhiệm ở Việt Nam Cộng hòa là chặn đứng Chủ nghĩa Cộng sản, chính sách đó phần lớn không ai nghi ngờ.

Một chàng trai tóc húi cua mang kính bước ra khỏi đội hình hình bầu dục để được Ben Horman, phóng viên CBS, phỏng vấn. Chàng trai đứng đắn mặc áo nịt len bên dưới áo cộc tay có huy hiệu, túi trước cài mấy cây bút. Horman hỏi cậu, vẻ rất trịch thượng, “Nào, cậu có nghĩ chúng ta nên rút hết quân về nước không? Và cứ để cho bọn Cộng vào chiếm đóng?”. Cục yết hầu và thần kinh của chàng trai đe dọa làm anh nghẹt thở, nhưng anh bạnh hết quai hàm và nói thẳng vào cái micro CBS: “Cái đó để người Việt Nam quyết định”. Rồi anh lặp lại lời tuyên bố cho chắc ăn: “Cái đó để người Việt Nam quyết định”.(5)

Bà Nhu hoàn toàn không đồng ý. Người Việt Nam không được tin cậy để quyết định chuyện đó, người Mỹ cũng thế thôi. Ý tưởng cho rằng Việt Nam Cộng hòa có thể không xứng đáng để đấu tranh bảo vệ là lời nguyền rủa đối với bà.

Bà xuất hiện tươi rói từ khách sạn của mình ngày hôm sau. Năm chục phóng viên và quay phim truyền hình chờ đợi bà ở sảnh. Bà đến đáp cho họ bằng một thoáng cười, phô hàm răng trắng như ngọc.

Những người đàn ông la hét gây chú ý, nhưng bà chỉ kéo sát chiếc áo choàng lông vào người rồi đi lướt qua.

Từ đó về sau, bà Nhu dường như có mặt ở mọi nơi một cách bất ngờ. Góp phần làm tăng thêm ấn tượng đó là việc các cửa hiệu quần áo thời trang trong thành phố đặt những người nộm ma-nơ-canh mắt quả hạnh và mớ tóc giả phồng lên ở tủ kính bày hàng. Một nhà thiết kế thời trang rầu rĩ bình luận rằng bà Nhu rất có thể sẽ gieo ảnh hưởng thời trang lâu dài cho New York vì phụ nữ Mỹ không đủ nhỏ nhắn, hoặc ngực đủ lép, để có được vẻ đẹp của bà.

Đi đến đâu bà Nhu cũng làm ngưng trệ sự đi lại, đúng theo nghĩa đen. Hai trăm người biểu tình xuất hiện để cản trở sự kiện đầu tiên, nhưng số người đó bị nuốt chửng bởi 1.000 người tham dự buổi ăn trưa của bà Nhu tại Waldorf Astoria do Câu lạc bộ Báo chí Hải ngoại tổ chức. Tạp chí Time đưa tin số phụ nữ mặc áo choàng lông chồn đông vượt các nhà báo đang tác nghiệp. “Bà ấy bốn mươi?”, một bà đứng tuổi trong đám người hỏi. Bà Nhu chỉ mới ba chín. “Ta không có những cái móng tay như thế, và phải làm việc nhà suốt ngày”, một phụ nữ khác trong đám đông càu nhàu. Một vài người trong cử tọa đã quên - có lẽ họ không bao giờ biết - tại sao bà Nhu ở New York. Bà đang tìm cách cứu gia đình bà. Bà đang cố gắng tìm sự hậu thuẫn cho cuộc chiến đấu chống Cộng sản. Bà không ở đó để chứng tỏ mình là người nội trợ giỏi giang.

Ngày hôm sau ba trăm người tụ tập chỉ để thấy bà bước ra từ chiếc limousine và đi vội vào Nhà hát Radio City. Bà Nhu phải di chuyển khắp New York dưới sự hộ tống chặt chẽ của cảnh sát, gây tắc nghẽn giao thông qua lại ở các đại lộ bà đi qua từ Midtown đến Times Square, từ Columbia đến Sarah Lawrence và Fordham.(6)

Vào ngày thứ tư ở thành phố này, bà gần như suy sụp. Bà Nhu đã có buổi nói chuyện trên truyền hình ngày hôm trước và mới về nhà sau buổi ăn trưa với các ông chủ của tạp chí Time. Khi bà bước lên sân khấu của trường Đại học Sarah Lawrence vào chiều muộn, giọng bà run run. Một phụ nữ ngồi giữa cử tọa nói bà Nhu “rõ ràng không được khỏe” và bà phải nhiều lần ngừng nói để nhấp vài ngụm nước và nuốt mấy viên thuốc. Bà đứng không vững dưới ánh đèn rực sáng của sân khấu và xin phép rời sân khấu trước khi ngất đi. Đó là một trải nghiệm khác hoàn toàn với trạng thái tinh thần thường ngày của bà. Nhưng trong trường hợp này, dường như điều đó có lợi cho bà.

Một nhóm phụ nữ đứng tha thẩn trong bộ đôi áo cổ chui với áo dài tay cùng màu và váy bút chì dài ngang gối tập trung lại sau buổi nói chuyện bên ngoài giảng đường để nhai kẹo swing-gum, hút thuốc, và trao đổi ý kiến về những ấn tượng của mình. “Tôi không ghét bà ta được!”, một cô gái kêu lên, và bạn bè cô gật đầu đồng tình. Rồi họ ngắt lời nhau như những chú chim tranh nhau mổ cùng một hạt: “Tôi hết bực tức rồi”. “Bà ấy xinh thật”. “Tôi tiếc là bà ấy không khỏe hơn”. Nhưng một phụ nữ khác bày tỏ sự thất vọng của mình. Đệ nhất Phu nhân mà bà mong đợi đã không xuất hiện. Danh xưng “không có vẻ gì phù hợp với người đàn bà ngọt ngào đó”.(7)

Có thể để đỡ vất vả hơn gia đình họ Ngô đã thuê một người dân New York phụ trách mọi thứ cho chuyến đi của bà Nhu. Cô ta và hai phụ tá làm việc trong hai phòng liền nhau ở khách sạn Barclay trong thời gian bà Nhu lưu lại đây. Họ điều phối từng chi tiết của chuyến đi xuyên quốc gia nhưng họ quả quyết với giới truyền thông rằng họ không phải là những nhà tư vấn quan hệ công chúng - và chắc chắn “không khuyên ai nên nói gì”.(8)

Một công ty quan hệ công chúng đã từ chối bà Nhu và cả gia đình họ Ngô từng là khách hàng của họ. Oram Group là một hãng tư vấn danh tiếng và rất được ngưỡng mộ về các vấn đề xã hội và chính trị. Thân chủ của họ bao gồm tổ chức Trợ giúp sức khỏe sinh sản Planned Parenthood (PPFA) và tổ chức Quyền công dân National Association for the Advancement of Colored People (NAACP), cũng như các nhóm bảo vệ môi trường, tôn giáo, và quyền công dân khác. Tổ chức Những người bạn Mỹ của Việt Nam đã thuê Oram Group một thời gian dưới thời chính phủ Eisenhower. Vì 3.000 đô la Mỹ một tháng, hãng này bị cáo buộc khuyến khích Tổng thống Diệm và bảo đảm rằng chính phủ Hoa Kỳ và dân chúng đóng thuế sẽ kiên định hậu thuẫn cho Tổng thống bị vây khốn của Việt Nam Cộng hòa. Chính Harold Oram đã góp phần sắp xếp chuyến công du thắng lợi của ông Diệm đến Hoa Kỳ năm 1957, khi đích thân Tổng thống Eisenhower ra tận sân bay ở Washington đón ông, và 50.000 người dân đã chứng kiến đoàn xe hộ tống của ông chạy qua thành phố. Khi ông Diệm trên đường đến Manhattan, thành phố này đã tổ chức một cuộc diễu hành ném hoa giấy truyền thống. Nhưng đội ngũ tư vấn ở Oram và các giám đốc của hãng này về sau đã tự phân hóa nội bộ trước câu hỏi về ông Diệm: Ông ta là nhà lãnh đạo mạnh mẽ hay nhà độc tài bạo ngược? Vào năm 1962, họ đã dứt khoát. Oram chấm dứt mọi cam kết làm đại diện và cổ vũ Việt Nam Cộng hòa như một chính nghĩa. Hãng sẽ không làm bất cứ cái gì để giúp bà Nhu trong chuyến đi này.(9)

Như bất kỳ khách du lịch sành sỏi nào khi đến Big Apple (tên thường gọi của thành phố New York - ND), bà Nhu cũng đi thăm thú nhiều, trong đó có màn trình diễn ở Times Square và ăn tối ở hộp đêm nơi bà nghe nhạc jazz. Có vẻ bà sẵn sàng trải nghiệm mọi thứ. Bà Nhu đang nỗ lực thực sự để cho người Mỹ thấy rằng bà đánh giá cao nền văn hóa của họ. Quyết định mở lòng ra trên đất Mỹ là một chiến thuật khôn ngoan. Bà biết bà cần làm mềm mại hình ảnh của mình. Bằng cách đi thăm tất cả thắng cảnh, thưởng thức mọi mùi vị và âm thanh mà thành phố New York mời gọi, bà đang muốn nói rằng phong cách và thú tiêu khiển của Mỹ rất tuyệt vời - ở châu Mỹ. Bà muốn chứng tỏ rằng không phải lúc nào bà cũng là nhà đạo đức chiến binh, Nhưng bà Nhu không xin lỗi - chí ít là không xin lỗi một cách thành thật. Vài tuần trước, ở Rome, bà Nhu đã bình luận trước báo chí rằng quân đội Mỹ ở Việt Nam hành động như “những chú lính đánh thuê”. Một câu nói tệ hại, ngay bà cũng thực sự không hiểu bà hàm ý gì. Tân đại sứ ở Sài Gòn, Henry Cabot Lodge, đã mạnh mẽ lên án bà vì câu nói đó, và báo chí tận dụng câu chuyện này, thẳng thừng gọi bà là kẻ chống Mỹ và buộc tội bà xúc phạm đến sự hy sinh của 112 quân nhân Mỹ đã chết ở Nam Việt Nam. Tất cả những chuyện này góp phần tạo nên sự căng thẳng và giận dữ vây quanh chuyến thăm Hoa Kỳ của bà.(10)

Bà Nhu từ chối, hoặc có lẽ bà không thể, hạ xuống giọng điệu thủ thế. Mặc dù bà đã xin lỗi vì gây xúc phạm, bà vẫn không thể làm vấn đề lắng xuống. Thay vì vậy, bà quyết định nhấn mạnh điều bà muốn nói. “Người Mỹ mang nhà cửa của họ trên lưng [đến Việt Nam]... Họ sinh hoạt rất tốn kém”.

Bà có lý. Việt Nam Cộng hòa là một đất nước đang có chiến tranh. Sự chừng mực sẽ là thích hợp hơn. Như với mọi cặp vợ chồng gặp trục trặc trong hôn nhân, những cuộc cãi cọ về tiền bạc chỉ làm trầm trọng thêm căng thẳng giữa chính phủ Hoa Kỳ và chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Vào thời điểm năm 1963, Hoa Kỳ đã đổ vào Việt Nam Cộng hòa 1,5 triệu đô la Mỹ mỗi ngày, gần 550 triệu đô la Mỹ hàng năm. Người Mỹ nghĩ người miền Nam Việt Nam nên làm việc nhiều hơn với dòng tiền khổng lồ chảy vào, nhưng người miền Nam Việt Nam biện luận rằng quá nhiều tiền bạc dành cho Việt Nam Cộng hòa đã chảy vào “các phí tổn hoạt động” của nhân viên và các cố vấn Mỹ - đem coca-cola lạnh, humburgerr, và tivi màu đến vùng xa xôi hẻo lánh để an ủi các vị cố vấn ở đó. Anh em họ Ngô muốn cắt giảm số cố vấn Mỹ; trong khi đó, chính quyền Kennedy lại tỏ dấu hiệu cho thấy họ sẽ đưa thêm người vào Nam Việt Nam và cắt cả gói viện trợ. Đồng thời, những người Cộng sản chỉ cần vạch rõ sự Mỹ hóa ở Nam Việt Nam - từ kinh tế, thời trang đến các kệ đựng hàng trong các cửa hiệu tạp hóa - để khẳng định lập trường quốc gia của họ.

Người ta đã nói quá nhiều về cụm từ “bữa tiệc nướng sư” và bây giờ là lời bình luận “những người lính đánh thuê” đến nỗi, bà Nhu phàn nàn, ý nghĩa sâu xa của bà đã bị lạc mất. “Tôi không được lắng nghe tại đất nước tôi”. Bà được lắng nghe khá trọng thị bởi 4.000 đến 5.000 sinh viên ngồi chật kín giảng đường Đại học Fordham trong ngày thứ năm của chuyến đi thăm. Cử tọa toàn nam giới đã dành cho bà Nhu sự chào đón nồng nhiệt khi bà bước lên sân khấu. Bà mặc một chiếc áo dài lụa, loại cổ thuyền, tóc bới cao xoắn gọn. Bà không còn dấu hiệu kiệt quệ của ngày hôm trước. Đây là một đám đông hoàn toàn khác. Từ dưới các hàng ghế, mọi người dán mắt vào một dáng vóc nhỏ bé trên sân khấu. Họ mặc com lê nghiêm chinh, đeo cà vạt sẫm màu và rì rầm cười sảng khoái khi bà Nhu bảo họ, “Tôi sẵn sàng trả lời mọi câu hỏi - nhưng tôi không muốn tước mất bữa ăn trưa của các bạn”. Họ bị mê hoặc và có vẻ như hoàn toàn sẵn sàng ủng hộ bà Nhu khi bà yêu cầu họ điều cuối cùng, “Dù bạn nghe gì, xin đừng kết án tôi”. Mọi người đứng dậy vỗ tay hoan hô bà hồi lâu.

Trước mặt những người đàn ông ở Fordham, bà Nhu dường như đã vượt qua được những e ngại hay hoài nghi dai dẳng từng làm bà khổ sở. Thành công đó được tiếp nối bởi những tiếng hoan hô từ hội trường đầy kín người ở Đại học Columbia. Mặc dù những kẻ gây nhiễu vẫn liên tục ném trứng và đá phấn lên chiếc limousine của bà khi bà đi lại trong thành phố này, bà Nhu hình như nhận thấy, vào cuối tuần thứ nhất của bà ở Hoa Kỳ, bà sẽ ổn thôi, không cần đến cái chính quyền đã từ chối thừa nhận bà.

Vào buổi sáng Chủ nhật, bà Nhu và con gái đi lễ tại Nhà thờ Thánh Agnes trên Phố Bốn Mươi Ba gần nhà ga Grand Central. Bà Nhu mặc áo dài màu hồng cam, còn Lệ Thủy mặc áo dài màu ngọc lam; với những nụ cười tươi nhìn thật hòa hợp, hai mẹ con trông như mới chụp một tấm ảnh cho hãng quảng cáo Howard Johnson. Bà Nhu có nhiều lý do để cười - buổi phỏng vấn của bà trong chương trình quen thuộc của NBC Meet the Press sẽ phát sóng tối hôm đó, và bà mới nhận được một bó hoa to từ các sinh viên Columbia thav lời xin lỗi vì những cuộc biểu tình phản đối mà họ đã gây ra trong sân trường hôm trước đó. Đó là một ấn tượng dễ chịu, và còn dễ chịu hơn nữa là buổi thăm hỏi của ủy viên sự kiện công chúng thành phố New York. Đó là buổi chào hỏi trực tiếp chính thức đầu tiên từ một viên chức chính quyền. Mọi sự ầm ĩ chung quanh bà Nhu khiến bà trở thành “mối quan tâm của ông” với tư cách đại diện thành phố New York.(11) Hẳn bà cũng tức cười khi thấy ngay cả ông ta cũng gặp rắc rối khi đi qua sảnh khách sạn Barclay. Bà Nhu đã có mặt trên đất nước này gần trọn một tuân, và sự náo động chung quanh bà vẫn chưa lắng xuống. Những kẻ tò mò tọc mạch, giới truyền thông, những người biểu tình, và những người hâm mộ vẫn tụ tập đầy bên ngoài khách sạn của bà. Sau khi gặp bà Nhu, viên chức nọ xác nhận với báo chí rằng bà là “một máy phát điện”(12). Đơn giản là không thể và sẽ không phớt lờ bà được.

CHÚ THÍCH

1. Về lời của bà Nhu rằng bà “bị nhận ra bởi làn da nơi cổ”, xem “Phỏng vấn bà Ngô Đình Nhu, 1982”, 11 tháng Hai, 1982, WGBH Media Library & Archives.

2. Về cuộc trò chuyện giữa đại sứ Việt Nam Bửu Hội và Harlan Cleveland về những nỗ lực ngoại giao để trấn dịu bà Nhu, xem Jones, Death of a Generation, 385.

3. Về sự trao đổi thư từ giữa bà Nhu với Lynđon Johnson, từ ngày 7 đến 30 tháng Chín, cùng với giác thư hồi đáp bà Nhu bởi Bộ Ngoại giao và Nhà Trắng (bao gồm những giác thư do Tổng thống duyệt và yêu cầu Tổng thống Johnson kỷ vào nếu nó được phê chuẩn), xem LBJ Library: LBJA: Famous Names, Box 7, Folder N. Việc Kennedy viết cho bà Nhu một lá thư từ phòng tắm hơi được thuật lại trong Jones, Death ofa Generation, 290.

4. Xem “Giác thư về cuộc trò chuyện”, New York, 2 tháng 10, 1963, Document 168, FRUS, 1961-1963, 4:347-349.

5. Về niềm tin của bà Nhu rằng người Mỹ giàu thiện chí nhưng kiêu căng, xem “Phỏng vấn bà Ngô Đình Nhu, 1982”, 11 tháng 2 năm 1982, WGBH Media Library & Archives.

6. Cuộc phỏng vấn của Ben Horman với người thanh niên bên ngoài Khách sạn Barclay vào 10 tháng Chín, 1963 là một cảnh trong chuyến viếng thăm của bà Nhu chiếu trên CBS. “Bà Nhu Đứng Chắn Bên Ngoài Khách Sạn Của Bà”, 9 tháng 10, 1963, WGBH Media Library & Archives.

7. Xem Central Intelligence Agency, “Vietnamese Summary Supplement, October 7-31, 1963”, mô tả bà Nhu đến Mỹ, xuất hiện trên truyền thông, và chu du khắp quốc gia.

8. Về những bình luận của sinh viên, như lấy làm tiếc vì bà Nhu đã không cảm thấy khá hơn, xem “Madame Nhu at Fordham University: Bonze, Fordham/Student Comments Re: Madame Nhu [part 1 of 2]”, October 11, 1963, WGBH Media Library & Archives.

9. “Visa to Mrs. Nhu Is Under Inquiry; Diplomatic Nature of Permit Questioned by Rep. Hays; Visa Issued Last Year; Mrs. Nhu Rests at Hotel Here; Telephones Kept Busy”, New York Times, 9 tháng 10 năm 1963,10. Giám đốc chương trình, Anita Berke Diamant, tiếp tục trở thành người đại diện xuất bản quan trọng (major literary agent), khởi sự công ty riêng và làm đại diện cho tác giả best-seller truyện kinh dị gothic V.C. Andrews, với những cốt truyện đầy những điều bí mật thầm kín trong gia đình và tội loạn luân.

10. Về Oram Associates, xem “Oram Group, Inc. Records, 1938-1992”, Ruth Lilly Special Collections & Archives, Indiana University- Purdue University Indianapolis, http://www.ulib.iupui.edu/ special/collections/phiỉanthropy/mss057; về Những Người Bạn Mỹ Quyên Tặng Cho Việt Nam, xem Special Collections Bell-McClure Syndicate Drew Pearson tại American University Library.

11. Blair, Lodge in Vietnam, 64.

12. Uỷ viên sự kiện công chúng (public events commissioner) NYC được dẫn lời trong “Vietnamese Summary Supplement, October 7-31, 1963”, Central Intelligence Agency.