Luật Ngầm

Chương 2: Sự mất tích bí ẩn của bác tôi

Gia đình tôi chuyển nhà thường xuyên. Năm tôi tám tuổi, gia đình tôi không sống cùng bà nội nữa mà chuyển đến một căn nhà nhỏ khác, nơi có vườn táo sau nhà, và đó là lý do cho những buổi trưa tôi trốn mẹ vác rổ ra đó hái quả.

Mỗi sáng, ba vẫn chở tôi đi học trên chiếc xe đạp màu huyết dụ. Dáng ông cần mẫn đến khắc khổ. Ngày nắng gắt, mồ hôi ông ướt rịn vai áo, hình ảnh ấy như nhắc nhở tôi mỗi con chữ tôi học là một giọt mồ hôi của ba. Ngày mưa bão, sấm chớp như xé toạc bầu trời để trút nước ào ạt xuống trần gian, gió thổi thốc từng cơn làm oằn đi những thân cây khẳng khiu hai bên đường, ba vẫn gồng mình đạp xe băng băng đưa tôi qua những con phố dần thưa vắng bóng người. Ba tôi là một người đàn ông cương trực và rất tự trọng, nhưng chỉ cần vì tôi thì ông sẵn sàng buông bỏ mọi thứ, miễn là tôi được no đủ… Vào một ngày, khi tôi vừa trải qua một cơn sốt cao, nhà không còn tiền nhưng tôi lại thèm xôi gà nóng bán ở góc đường Lê Thánh Tôn. Người bán xôi lớn tiếng chửi bới ba tôi vì ông vẫn còn nợ tiền của họ, mặc cho bao người qua lại xầm xì, ông vẫn kiên nhẫn đứng đợi lấy cho được hộp xôi nóng và đút cho tôi từng muỗng. Ba tôi vẫn cười, vẫn trìu mến nhắc tôi ăn nhiều vào cho chóng khoẻ. Hộp xôi ngon nhất và cũng có lẽ là chua xót nhất trong cuộc đời tôi…

Sau đó không lâu, chúng tôi lại chuyển nhà. Tôi không hiểu vì sao chúng tôi phải thường xuyên thay đổi chỗ ở như vậy. Đến nơi ở mới, mẹ tôi mở một tiệm cơm. Mẹ nấu ăn ngon nên tiệm cơm rất đắt hàng. Tôi đi học một buổi còn một buổi về phụ mẹ bưng bê, rửa chén bát. Có một lần, do sơ ý làm rơi vỡ đĩa cơm mang cho khách mà tôi hoảng quá khóc thét lên, mọi người thương cảm nên từ đó, quán cơm của mẹ tôi trở thành quán ăn tự phục vụ.

Tôi khó kết bạn với những đứa trẻ cùng tuổi khác. Thế giới của tôi chỉ xoay quanh sách. Tôi mê mẩn những căn nhà có nhiều sách để được thoả sức ngắm nhìn, được hít hà mùi giấy khi lật từng trang, từng trang. Đối với tôi, sách là kho tàng giúp tôi thực hiện những chuyến phiêu lưu dài bất tận, đắm chìm trong sự hào hứng khám phá những bí mật của thế giới này.

Rồi một ngày nọ, ba đưa một người về phụ mẹ buôn bán và bảo mẹ không cần phải trả lương cao. Nhưng sau đó, mẹ phát hiện ra đó chính là nhân tình của ba. Họ cãi nhau, đánh nhau. Ba bỏ đi, để lại cho mẹ vết thương trên đầu đang chảy máu, để lại cho tôi những mảnh ký ức vỡ nát. Tiệm cơm đóng cửa vì mẹ tôi nằm liệt giường. Tôi cũng nghỉ học vài ngày vì cảm thấy không thể tập trung khi ở trên lớp. Nghỉ ngơi được vài ngày, mẹ tôi bắt đầu mở cửa bán hàng trở lại với cái đầu vẫn còn quấn băng trắng. Mẹ bảo tôi giúp bà rửa bát, mỗi ngày, mẹ sẽ cho một nghìn đồng, đến cuối tuần tôi sẽ đủ tiền mua truyện tranh hoặc sách mà tôi thích. Ban ngày, mẹ vẫn làm việc bình thường, nhưng bà bắt đầu uống rượu vào ban đêm. Có những lúc say quá mẹ ngủ quên, khoá luôn cửa phòng trong khi tôi còn đang ở ngoài, gọi mãi mẹ không dậy, tôi đành ngồi bó gối trước cửa suốt đêm.

Sau lần cãi nhau đó, ba không về nhà nữa. Con bé tám tuổi là tôi khi ấy, lần đầu tiên dám tự bắt xe ôm để về nhà bà nội tìm ba. Dọn dẹp xong, không thấy tôi đâu, mẹ hoảng hốt đi tìm kiếm khắp nơi thì hàng xóm nói lại là tôi bắt xe ôm đi rồi, bác xe ôm sau khi chở tôi đến nhà bà nội xong cũng quay về báo tin cho mẹ tôi yên tâm. Mẹ giận lắm. Tôi bị ăn đòn vì dám tự ý bỏ đi mà không xin phép. Nhưng có lẽ vì thế mà mẹ đã tha thứ cho ba để ông có thể trở về.

Thời kỳ này, ba tôi làm chủ một doanh nghiệp nhỏ hoạt động trong lĩnh vực xây dựng và nhanh chóng có tiếng trong vùng. Tôi đã được nhìn thấy rất nhiều bản thiết kế các công trình do ông nhận thầu, và thường xuyên được nghe mọi người khen ngợi. Ít lâu sau, gia đình tôi lại có thêm một tiệm cà phê, công việc kinh doanh bận rộn khiến mẹ phải gửi tôi học bán trú. Những hôm ba bận, người đưa đón tôi sẽ là nhân viên của ba hoặc của mẹ. Thời gian này, tôi chỉ ở nhà vào buổi tối và thường thì khi về nhà, sau khi người giúp việc lo cho tôi ăn uống xong, ba mẹ muốn tôi ở trong phòng làm bài tập, ít khi nào cả nhà cùng ăn cơm cùng nhau.

Một lần, do cô giáo bận việc nên tôi được đón về nhà sớm hơn mọi ngày. Khi về đến nơi, tôi rón rén lên phòng tìm ba mẹ thì thấy ba đang ngồi cùng rất nhiều người, họ có dáng vẻ lạnh lùng và bặm trợn nhưng dường như rất nể sợ ba. Tôi không nghe rõ họ nói gì nhưng bỗng dưng ba đứng phắt dậy, tát tai một người đàn ông trong số đó và quát lớn: “Cút ngay! Tao không dung thứ bọn nghiện ngập! Mày nghiện được ắt phản được!”

Người đàn ông đó tỏ ra sợ sệt trước thái độ của ba. Ba trong mắt tôi là một người đàn ông hiền lành, luôn nhẹ nhàng với mọi người xung quanh và nhất là với tôi. Quãng thời gian từ khi tôi được sinh ra cho đến khi ông mất đi, chưa bao giờ ông đánh tôi dù chỉ một lần. Tôi hoang mang trở về phòng, chưa bao giờ tôi thấy ba đáng sợ như vậy. Tôi vẫn mang trong lòng nỗi thắc mắc về những người mà mình đã nhìn thấy trong phòng ba mẹ nhưng không dám hỏi.

Cuộc sống của tôi lại bình lặng trôi qua. Thỉnh thoảng, tôi vẫn về với bà nội vào cuối tuần và dần không còn quan tâm đến những người trong phòng của ba mẹ hôm ấy nữa, cho đến ngày, ba đột ngột bị tạm giam để phục vụ cho công tác điều tra. Mẹ nói rằng, đó là một tai nạn. Tôi vẫn nhớ như in, đó là một ngày cuối tuần, ba lái xe ra khỏi nhà rồi bất chợt quay lại nhìn mẹ một lúc lâu. Ánh mắt đau đáu của hai người khiến mọi thứ như ngưng lại. Vào buổi chiều, người ta gọi điện báo cho mẹ là ba bị bắt.

Thời gian đó, mẹ tôi không còn tâm trí để lo lắng cho công việc kinh doanh nữa, cũng vì thế mà liên tiếp gặp thua lỗ và phải đóng cửa. Tôi còn nhỏ, chưa ý thức được những khó khăn mà gia đình mình phải đối mặt. Thứ Năm hàng tuần, mẹ luôn đưa tôi đi hơn bảy mươi cây số để đến thăm ba. Mẹ đã chuẩn bị rất nhiều đồ ăn cho ba và luôn có một vài gói lương khô kèm theo. Thường thì mẹ tôi sẽ đặt mua thịt heo có tí mỡ, sau đó kho mặn và gói kĩ để ba ăn với cơm trắng. Mẹ nói cuộc sống trong đó rất thiếu thốn. Khi ba bị bắt cũng là lúc bắt đầu bước vào mùa đông, mặc kệ những cơn mưa to và những trận gió thổi rét buốt, mẹ con tôi vẫn đèo nhau trên chiếc xe máy cũ để đến nơi ba tôi bị tạm giam. Đó là một nơi hẻo lánh, đường xá rất khó đi, xung quanh là những cánh rừng bạt ngàn thưa người qua lại, vì thế nên mẹ con tôi phải dậy chuẩn bị đi từ sáng sớm để có thể trở về nhà trước khi trời tối.

Có một lần, chúng tôi đến nhưng ba không được ra ngoài gặp mặt, mẹ đứng ngoài khóc, còn tôi thơ thẩn chạy đến các ngóc ngách ở đó xem có cách nào chui vào trong ngôi nhà nằm sau cánh cổng này để gặp ba không. Có lẽ vì tội nghiệp nên lúc ấy, các chú công an đã đặc cách mở cửa phòng giam cho tôi vào nhìn mặt ba, nhưng chỉ mình tôi thôi còn mẹ thì không được. Sau này tôi mới biết, sự “tội nghiệp” này là sai quy định. Tôi trân trọng điều đó vô cùng bởi tôi hiểu, đó là sự cảm thông sâu sắc mà các chú đã dành cho một đứa trẻ như tôi. Tôi đi vào dãy phòng tạm giam kiên cố, những mảng tường bong tróc đầy rong rêu được nối dài, những chấn song sắt lạnh lùng, gỉ sét chỉ đủ cho người bên trong nhón chân lên nhìn ra bên ngoài. Nhiều phạm nhân chạy xô ra vịn tay vào song sắt, cố nhoài ra nhìn tôi, vì đây là lần đầu tiên họ thấy có người nhà phạm nhân được vào tận trong này. Ba tôi cũng cố chen chúc lại gần, đưa tay ra xoa đầu tôi và dặn: “Ở nhà ráng học hành nghen con.” Chỉ kịp có vậy rồi tôi phải nhanh chóng trở ra ngoài. Lúc đó, dù rất muốn khóc nhưng không nỡ để mẹ thêm buồn, tôi đã nén lòng mình xuống và còn nhảy chân sáo ra ngoài, miệng cố kéo lên thành một nụ cười tươi. Đó là lần đầu tiên trong cuộc đời tôi cảm thấy đau ở lồng ngực. Cảm giác ấy, cho đến tận bây giờ, mỗi khi nhớ lại, nó vẫn như còn nguyên vẹn trong tôi.

Một lần khác tới thăm ba, lần này mẹ đưa tôi tới bệnh viện. Bác sĩ nói rằng ba có khối u ở gan nên được đưa ra ngoài để tiện cho việc khám chữa bệnh. Thấy tôi bước vào, ba vội vàng lấy chăn phủ lên người, nhưng giây phút ngắn ngủi đó đã đủ để tôi nhìn thấy chân ba bị còng vào giường. Đôi bàn tay lóng ngóng cùng khuôn mặt in hằn nỗi đau khổ, ái ngại của ba khiến tôi cảm thấy đau đớn đến nghẹt thở. Thời điểm đó, tôi tin rằng mình đã lớn hoặc chí ít là đủ lớn để cảm nhận được những cái nhói buốt một cách rõ ràng nhất.

Mẹ đã đi cầu cạnh rất nhiều người để hỏi thêm tin tức của ba. Mùa mưa lũ năm ấy, trong một lần qua sông để đi đến nhà một vị cán bộ thụ lý hồ sơ của ba, mẹ đã bị nước cuốn. May mắn thay, có người đã kịp nhảy xuống cứu mẹ. Sau này, vì thương cảm, bác ấy lại không có con nên ngỏ ý nhận tôi làm con nuôi, có giấy tờ xác nhận đầy đủ và nói với ba mẹ tôi rằng nếu được, hãy đổi sang họ Nguyễn của bác ấy để tôi có thể nhận được những chính sách ưu đãi của nhà nước đối với con em cán bộ trong ngành. Đứa trẻ tám tuổi - là tôi khi ấy - đã thẳng thắn từ chối và nói: “Con chỉ có một ba thôi.” Câu trả lời của tôi khiến bác ấy rất bất ngờ. Những năm tháng về sau, bác vẫn luôn xem tôi là con gái và dành cho tôi sự quan tâm như một người cha thứ hai. Nhiều năm sau, bác chuyển ra Bộ nhận công tác lãnh đạo nên chúng tôi không còn nhiều dịp gặp lại nữa.

Kinh tế gia đình tôi lâm vào cảnh khó khăn, bi đát hơn khi những đối tác của ba tôi đồng loạt tìm cách từ chối thanh toán công nợ khi hay tin ba tôi bị bắt. Lúc đó, thậm chí nhà cũng không còn gạo để nấu cơm. Sợ mẹ đi làm về không có gì để ăn, tôi đã cầm rổ nhựa đi loanh quanh ngoài vườn xem thử có gì để hái vào nấu được không. Phát hiện ra có một cây rau mồng tơi tôi trồng từ bao giờ đã cao lên và có lá, tôi vặt sạch, mang vào bếp làm bữa chống đói. Lục lọi được khoảng ba, bốn con tôm khô trong bếp, tôi mang ra nấu một chén canh thơm phức. Tôi cứ ngồi nhìn chén canh đó mà không dám ăn. Khi mẹ về, tôi bưng lên cho mẹ, mẹ ngạc nhiên lắm vì lúc đó tôi mới tám tuổi. Tôi cứ tưởng mẹ sẽ la mắng vì dám động vào dao và bếp lửa, nhưng không, mẹ ôm tôi và khóc. Sau này, mẹ đã kể với ba rằng, đó là chén canh ngon nhất trong cuộc đời mẹ.

Một ngày khác, tôi bị cô giáo bắt mời phụ huynh vì làm việc riêng trong giờ học. Khi về nhà, mẹ tức giận cầm roi và hỏi tôi đã làm gì lúc đó. Lúc ấy, tôi chỉ biết mếu máo bảo tôi viết thư cho ba. Lá thư viết dở ấy đã luôn được tôi giữ gìn một khoảng thời gian dài, có một đoạn viết:

“Hôm nay, con đánh nhau với bạn Quốc vì bạn ấy không làm bài tập giúp con để con có thời gian rảnh viết thư cho ba. Ba yên tâm, con đánh thắng, bạn ấy khóc quá trời nhưng con cho ăn kẹo nên nín rồi. Khi nào về, ba nhớ đưa con đi cửa hàng bách hóa, mua cho con một chiếc xe đạp bốn bánh, rồi con sẽ lấy xe chở ba đi cửa hàng mỹ nghệ. Con để dành được sáu ngàn rưỡi, định mua cho ba một hộp bánh, nhưng mẹ mua rồi nên con đã lấy ra mua sách. Con xin lỗi vì trong lúc đọc sách, con đã ăn mất một cái bánh của ba, mẹ không biết đâu vì mẹ chưa đếm lại nhưng ba đừng kể với mẹ nha. Khi nào về, ba dẫn con đi mua thêm truyện tranh mới… Con nhớ ba lắm!”

Lá thư đó được tôi dúi nhanh vào túi áo của ba khi đi cùng mẹ lên thăm nuôi. Sau này, tôi được nghe nói rằng, lá thư ấy được truyền tay cho mọi người trong đó đọc, có rất nhiều người đã rơi nước mắt. Có lẽ lúc ấy, trong họ cũng đang cuộn lên nỗi nhớ nhà, nhớ người thân, nhớ những đứa con bơ vơ khi họ lạc bước phải vào chốn này.

Mỗi lần thăm ba, tôi đều thấy lạ lẫm với bộ quần áo kẻ sọc trên người ông, tóc của ba cũng đã cắt sát da đầu, tôi không còn ngửi được ở ông mùi mồ hôi như trước đây mà thay vào đó là mùi lạ lẫm chát đắng vị “tù nhân”. Ba tôi là một “tù nhân”. Tôi mang trong lòng nỗi mặc cảm đến cùng cực, mùi hương đó cũng phảng phất theo tôi vào tận trong giấc ngủ. Có lẽ mẹ đã đọc thấu suy nghĩ của tôi nên luôn cố giải thích cho tôi hiểu rằng ba chỉ đang bị tạm giam để phục vụ công tác điều tra thôi, chưa ra toà, chưa kết án thì chưa phải là “tù nhân”. Tôi học hành sa sút dần, nghỉ học cũng nhiều hơn, điểm số tụt thê thảm. Những lúc ấy, tôi đợi mẹ hút thuốc rồi mới dám rón rén đưa bài kiểm tra cho mẹ xem. Tôi không hiểu vì sao khi trầm tư hút thuốc, mẹ lại dễ dàng bỏ qua những lỗi lầm của tôi hơn. Hoặc có thể, đó chỉ là cảm giác của tôi thôi.

Rồi ông trời cũng không phụ sự cố gắng của mẹ, cuối cùng, ba tôi cũng được ra khỏi nơi tạm giam. Ba trở về và bắt đầu gây dựng lại mọi thứ. Mẹ cố gắng giúp ba rất nhiều để từng bước tìm lại những khách hàng đã mất cũng như thu hồi công nợ. Cuộc sống của gia đình tôi dần ổn định trở lại.

Nhưng có lẽ khoảng lặng bình yên như thế luôn là tiền đề cho những cơn giông bão dữ dội hơn sau đó. Mùa hè năm 2002, mẹ đưa tôi vào Sài Gòn để thăm nhà cậu ruột là anh trai của mẹ. Kỳ nghỉ chưa kết thúc thì bất chợt mẹ đưa tôi quay về Nha Trang. Nhưng lạ thay, chúng tôi không về nhà mà lại ở khách sạn. Tối hôm đó, mẹ đưa tôi đi mua một que kem ốc quế, loại kem mà tôi yêu thích nhất. Tôi hí hửng ăn mà không để ý đến sự trầm ngâm của mẹ, mẹ cứ ngồi rít thuốc đến giữa đêm thì bảo tôi thu xếp đồ đi về nhà. Tôi lấy làm lạ lắm nhưng vẫn nghe lời mẹ. Hai mẹ con bắt taxi, về đến nhà, mẹ lặng lẽ mở cổng và khẽ khàng bước vào, tôi líu ríu đi theo. Nhà tối om như mực, đèn được bật sáng và trước mắt tôi là một người phụ nữ đang trần như nhộng ngay trên giường của ba mẹ tôi. Mẹ che mắt tôi lại rồi đẩy tôi ra ngoài, bảo sang nhà hàng xóm ngủ tạm. Suốt cả đêm, tôi chập chờn với những âm thanh hỗn loạn vọng sang từ phía nhà mình. Những âm thanh mơ hồ theo tôi vào giấc ngủ mệt lả, đục ngầu và nghét đắng.

Sáng hôm sau, tôi về nhà, ba đang ngồi ở sofa, cúi gằm mặt không nhìn tôi. Người phụ nữ hôm qua áo quần xộc xệch ngồi một góc. Đơn ly hôn nằm chỏng chơ trên mặt bàn, nhàu nhĩ. Thấy tôi về, mẹ cất tiếng bảo ba bắt xe cho cô ta về đi. Mẹ gom hết chăn màn, đệm gối vứt ra sân và bảo tôi đi mua cho mẹ một ít dầu lửa, tôi ngoan ngoãn làm theo. Mẹ châm một mồi lửa đốt sạch tất cả. Mẹ bảo không muốn tôi nằm trên chiếc giường đó nữa. Lửa bốc lên dây điện suýt cháy to, ba tôi vội mang nước ra dập. Ngọn lửa thiêu rụi đệm gối nhưng không thể xóa đi lỗi lầm của ba. Khói đen của ngày hôm ấy ám cả vào tuổi thơ tôi.Ba không chịu ký vào đơn, tôi buộc phải theo mẹ về vùng quê hẻo lánh, nơi có ngôi chùa nhỏ mà bà ngoại tôi đang tu hành. Khi ra đi, tôi phải bỏ lại hai con mèo mà mình đã chăm bẵm từ thuở nhỏ. Ra đi như chạy trốn, tôi chỉ kịp mang theo hai con búp bê, một lớn một nhỏ mà ba đã mua cho tôi cách đó không lâu. Tôi ngoảnh đầu nhìn lại nhà mình, nó tan hoang và ngổn ngang. Người ta nói rằng, gia đình tan vỡ nghĩa là mọi thứ đều trở thành những mảnh vỡ, kể cả trái tim. Điều đó thật đúng với tôi bây giờ.

❉❉❉

Tôi “nổi bật” ở ngôi trường tiểu học nơi vùng quê này, bởi lẽ tôi có sẵn sự mạnh dạn của đứa trẻ thành phố. Tôi chăm chỉ học hành và luôn đứng nhất lớp. Tôi năng nổ trong những đợt gây dựng phong trào, tham gia tích cực các hoạt động đoàn đội, nhờ vậy mà trong mấy năm tiểu học, tôi chưa bao giờ tụt hạng. Giải thưởng lớn bé, cấp trường cấp huyện đều xướng tên tôi. Tôi còn đưa về cho trường những giải thưởng nhiều cấp độ trong công tác Đội.

Mẹ tôi lại mở một tiệm cơm ở chợ huyện. Mỗi ngày, tôi lủi thủi bên bà ngoại đợi mẹ về. Tôi theo bà học kinh kệ, học thiền để kiếm tìm sự bình yên nơi tâm hồn mà một đứa trẻ như tôi đã sớm đánh mất. Lạ thay, tôi tiếp thu rất nhanh giáo lý nhà Phật. Tôi chăm chỉ kinh kệ và trong lòng vẫn cầu mong đức Phật phù hộ cho ba mẹ tôi trở về bên nhau. Thật không ngờ, sau tất cả những gì đã xảy ra, tôi vẫn thật sự mong mỏi điều đó…

Sinh nhật năm đó của tôi được tổ chức trong lặng lẽ. Dù sinh nhật mọi năm cũng ít khi có sự hiện diện của ba bởi ông luôn bận nhiều việc bên ngoài, nhưng chẳng hiểu sao năm nay, tôi vẫn thấy trống vắng bởi tôi hiểu rằng thật khó để chúng tôi có thể trở lại là một gia đình. Đêm khuya, mẹ về mang theo chiếc bánh kem mua vội, tôi ngó ra cửa và buột miệng hỏi: “Ba có về không mẹ?”

Sự thành tâm của tôi không thể qua được mắt bà ngoại. Bà gọi mẹ sang và kể rằng tôi đã quỳ rất lâu mỗi khi kinh kệ. Bà khuyên mẹ hãy cho ba thêm một cơ hội nữa bởi theo bà, trong hôn nhân, hãy nghĩ cho con cái trước tiên, sau đó mới là bản thân mình. Mẹ tôi im lặng không nói gì. Sau đó ít lâu, mẹ lại một lần nữa mở cánh cổng cho ba tôi quay về. Tôi biết, mẹ làm điều đó là vì tôi. Nhưng mẹ quyết định ở hẳn nơi miền quê này mà không trở về thành phố nữa, đó là cách duy nhất để tẩy xoá đi ký ức đau buồn mà ba đã gây ra.

Ba vẫn thường xuyên vắng nhà như trước. Mỗi lúc rảnh rang, ông lại mang cuốc ra sau nhà xới đất trồng khoai rồi đào khoai, còn tôi thì xách giỏ chạy theo nhặt những củ khoai mập tròn. Tôi tưởng tượng đến một buổi tối cả nhà sum vầy bên nồi khoai xem tivi cùng nhau, một hình ảnh hạnh phúc mà tôi đã từng mô tả trong bài văn viết ở lớp và được điểm cao. Có ngờ đâu đào khoai, ăn tối xong thì ông cũng khoác áo đi mất. Tôi ngóng hoài, ngóng hoài tiếng xe của ông suốt đêm nhưng đều là những tiếng động xa lạ của người qua đường. Chờ đợi một lúc, tôi chìm vào giấc ngủ lúc nào chẳng hay, để rồi sự ngóng trông đó kéo dài từ ngày này qua ngày khác. Khoai thì đã vơi dần đi, nhưng chưa bao giờ tôi có được hình ảnh như trong bài văn mà tôi đã viết. Đôi lúc, tôi tự hỏi, làm thế nào mà tôi luôn được điểm cao môn văn, nhất là những bài văn nói về gia đình? Vì gia đình của tôi thật sự hạnh phúc như thế, hay bởi khao khát hạnh phúc trong tôi đã quá lớn, đến mức tôi có thể tự tay tô vẽ nên những viễn cảnh viển vông?

Những ngày hè oi ả nơi miền quê cằn cỗi, tiếng ve kêu rợp trời, nắng vàng chói loá trên những đôi cánh bướm bay dập dìu. Tôi đạp chiếc xe mini nhỏ xíu dành cho trẻ em đi học. Mẹ nói mãi mà tôi chẳng chịu đổi chiếc xe lớn hơn, đơn giản vì tôi nhát. Sau giờ học, tôi thường hì hục đạp xe thật nhanh về nhà, trên ghi đông vắt vẻo một bịch khi là chè, khi là bánh, khi lại là bắp rang đường. Tôi mua cho ba, vì ở nhà, chỉ có hai cha con là thích ăn vặt. Ba ngồi trong nhà, nhìn ra xa thấy con gái mua quà cho mình thì cũng được dịp lên mặt với mẹ: “Em thấy chưa, con thương anh ghê hôn!” Ba tôi hoàn toàn có quyền tự hào như vậy vì tôi đã dành cho cho ông một tình yêu vô bờ bến, để rồi những ngày tháng sau đó, tình cảm ấy lại trở thành thứ vũ khí giết chết tâm hồn tôi, giết chết trái tim ông.

Sau nhiều biến cố gia đình, tôi bắt đầu được mẹ rèn luyện tính tự lập. Vì thế nên khi đi lãnh phần thưởng cuối năm, chẳng bao giờ tôi cần ba mẹ phải chở đi như những đứa bạn khác. Tôi tự thức dậy, tự chuẩn bị quần áo rồi tự đạp xe bon bon trên đường đến trường lĩnh thưởng. Thật không may, trên đường về nhà, phần thưởng tôi để ở yên sau bị rớt ngay vào bãi phân trâu nằm chỏng chơ giữa đường. Tôi phi vào nhà, vừa đi vừa khóc lóc kể lể với ba. Hai cha con hì hục phóng ra nhặt về cho mẹ tôi rửa. Có lẽ tôi là niềm tự hào và hạnh phúc duy nhất còn sót lại trong cuộc hôn nhân của ba mẹ. Có lẽ mẹ tôi có một cuộc hôn nhân không thành công, nhưng ít ra mẹ đã không thất bại khi sinh ra tôi.

Tôi có một người chị họ lớn hơn mình một tuổi, vì vậy, quần áo tôi mặc đều là đồ xin lại của người chị này. Tôi mặc lại của chị từ đồng phục đi học đến quần áo ở nhà, nhưng quần áo còn mới và đẹp lắm. Mẹ ủi thẳng thớm lại cho tôi nên nom mọi thứ đều như đồ mới. Vì chị chỉ học trên tôi một lớp nên tôi cũng được hưởng sách giáo khoa của chị mà không phải tốn một đồng nào của ba mẹ. Suốt những năm tháng đi học của mình, tôi chưa từng được mua một bộ sách giáo khoa mới, nhưng tôi cũng không cảm thấy buồn bao giờ bởi tôi hiểu, ba mẹ đã phải mưu sinh vất vả như thế nào.

Mùa đông năm đó, trước Giáng sinh hai tuần, ba đưa tôi và mẹ xuống thành phố chơi. Từ nhà tôi xuống trung tâm cách bốn mươi cây số. Trời lạnh se sắt, tôi mặc chiếc áo ấm màu cam và đeo kính chắn gió của ba. Ba bảo trông tôi cứ như một con mèo mướp vậy. Khi đi ngang qua khách sạn Yasaka, toà nhà sang trọng bậc nhất thành phố lúc bấy giờ, tôi bị thu hút bởi ánh đèn nhấp nháy và âm thanh xập xình phát ra từ chiếc loa cỡ lớn. Ngước lên nhìn, tôi thấy họ đề trên băng rôn nội dung đại loại là trước đêm Giáng sinh một hôm, ở đây sẽ có một chương trình ca nhạc phục vụ các bạn nhỏ. Tôi bắt đầu suy nghĩ mông lung suốt quãng đường về nhà cho đến khi ngủ gật lúc nào không hay.

Không một phút chần chờ, sáng hôm sau, ngay khi tỉnh dậy, tôi nắn nót viết một lá thư rất dài gửi cho “Ban lãnh đạo khách sạn”. Đến bây giờ, tôi vẫn không hiểu được, vì sao thời điểm đó, mình lại có thể hiểu biết và chững chạc để dùng những từ ngữ rất người lớn như thế. Tôi trình bày rõ ràng nguyện vọng của mình là được biểu diễn trên sân khấu vào đêm ca nhạc Giáng sinh của khách sạn. Viết thư xong, tôi lôi chiếc đài cassette cũ của ba ra, bật nút ghi âm lại giọng hát của mình rồi gửi kèm cuộn băng đó cùng với lá thư.

Tôi hì hục đạp xe ra bưu điện xã để gửi thư và bưu phẩm. Cô văn thư thông báo rằng họ đã hết tem nên có lẽ tôi phải đợi đến ngày mai. Quá nôn nóng muốn được gửi ngay, hơn nữa nơi tôi sống lại là miền quê nên thư gửi đi sẽ đến thành phố rất chậm, vì thế tôi lại tiếp tục đạp xe như bay đến thư viện để xin tem thư. Mất vài vòng đạp tới đạp lui như thế, cuối cùng tôi cũng hoàn thành được mục đích của mình. Tôi đi về nhà mà trong lòng ngổn ngang lo lắng, không biết liệu lá thư của tôi có đến được tay “Ban lãnh đạo khách sạn” hay không.

Ngóng đợi đối với tôi là một điều kinh khủng, bởi tôi vốn là một người không có tính nhẫn nại. Khi chỉ còn năm ngày nữa là Giáng sinh, tôi bắt đầu sốt ruột và hy vọng cũng dần nguội tắt vì có lẽ họ chẳng thèm quan tâm đến lời đề nghị của tôi. Ba ngày trước Giáng sinh, tờ mờ sáng hôm đó, tôi thức dậy sửa soạn đi học trong sự buồn bã. Trời mưa phùn khiến con đường đến trường của tôi trở nên ướt nhẹp. Tôi tạt vào ven đường mua một suất ăn sáng, bánh mì thời đó đơn giản thôi nhưng đến tận sau này tôi vẫn không tìm lại được hương vị ngon lành của mỗi sáng đi học hôm nào: Một thứ nước sốt màu cam đỏ rưới vào ruột bánh, có vài miếng hành phi tong teo và váng dầu, vị hơi ngọt. Có những ngày, tôi đi học muộn nên mua mà không kịp ăn, nước sốt thấm ra ngoài làm nhão cả vỏ bánh. Ấy thế mà tôi ăn vẫn thấy ngon lành.

Tiết học đầu tiên trôi qua nặng nề. Đến giữa tiết thứ hai, khi cô chủ nhiệm lên văn phòng lấy dụng cụ giảng bài môn Toán xuống thì có kèm theo một bao thư, cô mang đến cho tôi: “Thư của em này, họ gửi đến từ hôm qua. Giờ ra chơi mới được mở ra đọc đấy, còn bây giờ tập trung học đi đã.” Cảm giác của tôi khi đó có thể diễn tả bằng hai từ “hồi sinh”. Từ tâm trạng ủ ê buồn bã, tôi bỗng trở nên tươi tỉnh. Lá thư như bình nước tưới vào cái cây đang héo úa là tôi, khiến nó trở nên tươi tắn bất ngờ. Tôi vươn vai ngồi thẳng dậy, ra chiều chăm chú học hành nhưng tâm trí thực ra đã gắn chặt vào lá thư. Tôi chỉ mong tiếng trống ra chơi vang lên để tôi được mở thư ra xem ngay lập tức.

“Tùng! Tùng! Tùng!!!” Giờ khắc tôi mong đợi đã đến. Cả lớp ùa ra sân chơi như ong vỡ tổ, riêng tôi ngồi trong lớp, chậm rãi mở lá thư một cách nâng niu như sợ chỉ cần mạnh tay một chút thôi là lá thư quý giá này của tôi sẽ bị rách tan vậy. Tim tôi đập thình thịch, tôi ngấu nghiến đọc từng dòng chữ được người ta gõ bằng máy tính rồi in ra rất đẹp. Lá thư có đoạn:

“Chúng tôi rất vui mừng và đánh giá cao sự mạnh dạn cũng như tinh thần đam mê nghệ thuật của cháu. Tuy nhiên, việc tham gia biểu diễn tại khách sạn phải được sự đồng ý của phụ huynh cháu. Buổi ca nhạc sẽ được tổ chức sau 19 giờ 30 phút ngày 23 tháng 12. Vì khoảng cách khá xa, chúng tôi cần đảm bảo rằng phụ huynh có thể đưa đón cháu...”

Kết thư là lời chúc sức khoẻ cũng như chúc chăm ngoan học giỏi, chữ kí bằng mực xanh của lãnh đạo khách sạn và dấu tròn đỏ tươi rất đẹp. Vậy là họ đã đồng ý với lời đề nghị tưởng chừng là quá phận của tôi. Tôi sung sướng đọc đi đọc lại những dòng ngắn ngủi đó hàng trăm lần, trong đầu bắt đầu nghĩ đến những bài hát mình có thể thể hiện tốt nhất để trình bày trong đêm đó.

Giờ ra chơi ngắn ngủi kết thúc, các bạn trở về lớp để chuẩn bị cho tiết học tiếp theo. Tôi xếp lá thư ngay ngắn vào phong bì và cẩn thận để ở trước mặt. Tôi đã chia sẻ với mẹ về việc này sau giờ tan học. Tôi ngỏ ý muốn mua một chiếc đầm công chúa màu hồng bằng voan có đính nơ to đằng sau lưng cho buổi biểu diễn. Hôm trước, tôi đã thấy nó được trưng bày đẹp đẽ trong một tiệm bán quần áo lớn trên đường đi dạo. Mẹ im lặng không nói gì rồi hỏi: “Con có chắc chắn là mình muốn biểu diễn ở đó không? Con đã tập bài hát nào chưa?”

“Con chắc chắn, con chắc chắn mà. Mơ ước của con sắp thành sự thật rồi.” Tôi nhoẻn miệng cười, ánh mắt lấp lánh niềm hy vọng.

Tối hôm đó, sau giờ ăn cơm, tôi ngồi học bài ở phòng khách, ba mẹ xem tivi trong phòng ngủ. Bỗng dưng, phân vân không biết chọn bài hát nào để trình bày trong buổi biểu diễn đêm Giáng sinh, tôi vào phòng định hỏi ý kiến mẹ. Vừa đứng trước cửa phòng, tôi đã nghe tiếng ba thủ thỉ với mẹ: “Nếu con thích em cứ mua cho con đi. Bộ váy đẹp một chút vì con sẽ đứng trước rất nhiều người đấy!”

“Nhưng bộ váy diêm dúa như thế con chỉ mặc được một lần rồi cất vào tủ. Như vậy lãng phí quá! Nhà mình đang cần lo nhiều thứ...” Mẹ đáp lại đầy lo lắng.

Tôi lặng lẽ trở về bàn học, có cái gì đó sụp đổ trong tôi, nước mắt giàn giụa lúc nào không hay. Sáng hôm sau, khi mẹ đang buộc tóc cho tôi để đi học, tôi ngắm mình trước gương rồi nói: “Mẹ, chắc con không biểu diễn ở Yasaka đêm Giáng sinh nữa đâu.”

Mẹ ngạc nhiên nhìn tôi. Không đợi mẹ nói gì thêm, tôi tiếp lời: “Tại vì con chưa tập được bài hát ưng ý mà lại sắp đến ngày diễn rồi.”

Nói đến đó, tôi đứng dậy thưa mẹ đi học. Thật ra, tôi cố đi vội để né tránh ánh mắt của mẹ, che giấu sự buồn bã trong lòng.

❉❉❉

Có lẽ vì ý thức được sự khó khăn về mặt tài chính của gia đình trong thời kỳ này mà tôi đã nghĩ nhiều cách để kiếm tiền phụ giúp cho ba mẹ tôi. Tôi đi xin truyện cũ từ các anh chị họ của mình dưới thành phố để mang về cho thuê. Ở làng quê nghèo này, truyện tranh là thứ vô cùng quý giá với bọn trẻ con như tôi. Tôi đặt một cái bàn nhựa, một cái ghế nhựa nho nhỏ trước nhà như thể bàn thu ngân. Khách hàng của tôi là bọn trẻ trong thôn, bạn cùng trường với tôi. Mùa hè nắng nóng, đá lạnh là thứ cần thiết trong mỗi gia đình nhưng không phải nhà nào cũng có tủ lạnh như nhà tôi. Tôi đi mua cả tập túi nilon loại nửa ký và một nhúm dây thun, đổ nước vào túi, buộc lại cẩn thận rồi cho vào ngăn đá làm đá lạnh bán thêm cho những nhà lân cận. Cứ như thế, tôi có công việc nho nhỏ của riêng mình, làm ra một ít tiền để tiêu vặt và để dành.

Cuộc sống vẫn đều đều trôi qua. Mỗi ngày, tôi vẫn dành thời gian chạy sang chùa của bà ngoại học thiền, theo bà tưới cây, dọn cơm cho bà vào mỗi buổi trưa khi tôi đi học về. Với tôi, bà ngoại là một người nghiêm khắc nhưng lại có nụ cười rất hiền. Chưa bao giờ tôi nói yêu bà, bà cũng chưa bao giờ nói yêu tôi nhưng tôi cảm nhận được sự quan tâm và tình yêu thương bà dành cho mình. Bà chưa bao giờ ôm tôi vào lòng hay vuốt ve tôi. Tôi nghĩ rằng bởi vì bà đã xuất gia nên ít nhiều giữa bà và con cháu cũng nên có một khoảng cách nhất định để bày tỏ sự tôn trọng đối với chốn cửa chùa linh thiêng. Tôi không gọi là “bà” mà phải gọi bằng “thầy”. Bởi vì bà cũng là sư phụ của tôi, người đã quy y Tam Bảo cho tôi. Tôi thường đạp chiếc xe con con của mình đi chơi vào buổi chiều. Hôm đó, khi đạp xe ngang qua chùa, bà ngoại đứng trên cao nhìn xuống, thấy tôi liền gọi to: “Đi đâu đó? Lên đây thầy bảo.”

Tôi giật thót tim vì tôi vẫn luôn sợ bà ngoại. Tôi quẳng xe không kịp dựng chân chống, chạy lên mấy chục bậc tam cấp, vừa lên tới nơi đã chắp tay hành lễ với bà. Cũng thật lạ, các anh chị họ của tôi mỗi khi về thăm bà đều không cần hành lễ, có lẽ họ thi thoảng mới gặp nên bà đã không nỡ nhắc nhở.

“Thầy gọi con ạ?” Tôi rón rén hỏi.

“Con đi đâu đó? Coi tóc tai kìa. Lại đây, thầy chải lại tóc cho.”Nói rồi bà ngoại kéo tôi lại, tháo cây kẹp đã tróc sơn vài chỗ xuống và chải tóc ngay ngắn lại cho tôi. Tôi chưa bao giờ được ngồi gần bà ngoại đến thế, đến cả thở mạnh cũng không dám. Chải tóc xong, bà nhìn tôi rồi nói: “Đẹp rồi đó! Lần sau nhớ chải tóc đàng hoàng.”

Tôi chào ngoại rồi tiếp tục leo lên xe đạp đi chơi. Lúc này mà tim tôi vẫn còn đập thình thịch, nhưng tôi thích lắm! Tối hôm đó, tôi đã không dám gội đầu, tôi để nguyên cặp tóc như thế mà leo lên giường đi ngủ.

❉❉❉

Trái tim tôi mềm yếu và luôn sẵn lòng giúp đỡ người khác. Tôi cảm giác mình như run lên mỗi khi có cơ hội giúp ai đó bất cứ việc gì. Một lần, tôi nhìn thấy bạn học cùng lớp của mình nhịn đói ở lại trường đợi vào học buổi chiều vì nhà bạn ở xa trường lại thuộc diện gia đình khó khăn. Không ngần ngại, tôi chạy một mạch về xin mẹ gói mì để mang lên trường cho bạn. Mẹ nói tôi có thể đưa bạn về nhà ăn cơm, vậy là tôi lại chạy ngược lên trường giữa trưa nắng để đưa bạn về nhà.

Tôi vẫn hồn nhiên giúp đỡ bạn bè của mình với tất cả sự tốt đẹp cho đến một ngày, tôi phát hiện ra người bạn đó không thật lòng yêu quý tôi như tôi vẫn nghĩ. Bạn ấy cảm thấy khó chịu với những thành tích mà tôi nhận được ở trường, cảm thấy khó chịu vì tôi nhận được học bổng trong khi nhà tôi không khó khăn. Thầy Hiệu phó đã giải thích rõ ràng trước toàn thể phụ huynh và học sinh rằng suất học bổng đó dành cho học sinh ưu tú của trường có thành tích xuất sắc trong học tập lẫn công tác đoàn đội. Vậy mà bạn ấy cùng nhiều phụ huynh khác vẫn ghét tôi ra mặt.

Tôi buồn lắm, tôi khóc với mẹ và mẹ đã nói với tôi rằng: “Con có thể lựa chọn thái độ sống của mình khi đối diện người khác chứ hoàn toàn không thể chọn lựa thái độ sống của người khác dành cho mình. Nếu con giúp đỡ người khác vì mưu cầu một điều tương tự nghĩa là sự giúp đỡ đó không xuất phát từ tấm lòng. Vậy con có giúp bạn bằng tất cả tấm lòng của con không?”

“Có mẹ ạ!” Tôi buồn rầu đáp.

“Nếu như vậy thì hãy vui lên vì con đã cho đi rồi.”

Nghe mẹ nói vậy, lòng tôi cũng cảm thấy thanh thản hơn.

❉❉❉

Năm 2004, bác Hai của tôi đột nhiên mất tích. Bác Hai chính là người anh em sinh đôi của ba. Lần cuối cùng bác gọi cho ba là ba ngày trước khi vợ bác thông báo không thấy bác về nhà nữa. Lúc đó, vợ bác đang mang thai lần thứ hai được hơn ba tháng.

Bằng nhiều cách và các mối quan hệ, ba cố tìm kiếm tung tích của bác Hai trong nhiều tháng trời nhưng vô ích. Không có một phản hồi nào, sự mất tích một cách kỳ lạ giống như bác chưa từng tồn tại. Giấy tờ tùy thân, quần áo, tiền bạc và mọi vật dụng cá nhân vẫn còn nguyên vẹn trong tủ ở nhà. Bà nội tôi suy sụp lắm, nhưng bà tin và nghĩ rằng có lẽ bác tôi đi đâu đó một thời gian rồi sẽ quay trở về. Niềm tin đó giúp bà gắng gượng sống tiếp trong chờ đợi.

Bệnh của ba trở nên nặng hơn khi những cơn đau ngày càng dồn dập. Theo bệnh án ban đầu thì ba tôi có một khối u bẩm sinh, may mắn là u lành tính. Tuy nhiên, vì khối u ngày càng lớn nên cần phải xạ trị. Ba và mẹ lui tới bệnh viện ngày một nhiều hơn. Mẹ đưa ba vào bệnh viện Chợ Rẫy để chạy chữa, đêm mẹ trải giấy báo nằm ngoài hành lang. Tài sản trong nhà lại dần đội nón ra đi vì chi phí chữa bệnh quá đắt đỏ. Mẹ và ba đã bắt đầu ăn những suất cơm từ thiện trong bệnh viện để tiết kiệm. Còn tôi ở nhà ngóng đợi từng ngày.

Những lúc ba mẹ không có nhà, bà nội thường lên ở với tôi. Tôi biết bà rất thương tôi. Thấy tôi nói thèm chè khoai tím, bà ra vườn đào lấy một củ thật to rồi vào bếp ngồi bào mỏng để nấu chè cho tôi ăn. Nhà tôi có một cây me rất to và sai trĩu quả, tôi nói thèm ăn mứt me rim đường, bà lại hì hụi ra gốc me nhặt trái chín, nhà có bếp ga nhưng bà sợ tốn kém nên lại loay hoay đi nhặt củi về thổi lửa nhóm bếp rim cho tôi một hộp me thật to. Ấy thế mà tôi chỉ ăn một muỗng rồi cho luôn vào tủ lạnh.

Bà nội tôi vẫn ở thành phố. Nhiều năm trước, bà bán căn nhà lớn đi để chia tiền cho các con có vốn làm ăn, sau đó thì được nhà nước cấp cho một mảnh đất khác nhỏ hơn xây một căn nhà và sống ở đó. Tôi hơi sợ căn nhà mới của bà vì nó nằm gần một nghĩa trang. Lần nào tôi về, có bao nhiêu bánh kẹo, trái cây bà đều gói cho tôi mang về nhà. Quê bà nội tôi có một món bánh truyền thống rất ngon gọi là “bánh Tổ”. Mỗi năm, bà đều gửi người ngoài quê mang vào cho ba vì ba rất thích ăn món đó.

Khi bệnh tình của ba đã thuyên giảm, ba mẹ bàn với nhau việc sinh thêm em bé cho tôi có chị có em. Tôi hào hứng lắm. Tôi thậm chí đã lấy giấy ra, hỏi mẹ và ghi lại cẩn thận những chi phí cần thiết cho việc sinh em bé. Chi phí khá là nhiều khiến tôi “đau đầu” tính toán không biết phải làm gì để đủ tiền lo cho em tôi.

Ba tôi có một chiếc xe bán tải cũ, chính xác thì chiếc xe đó từng là của bác Hai. Ba dùng nó để chở một vài thứ nông sản hoặc gà vịt mà nhà tôi trồng hoặc nuôi được xuống thành phố cho khách hàng có nhu cầu, hoặc chỉ đơn giản là mang của nhà trồng được đến biếu một số họ hàng. Trong mắt tôi, ba là một người đàn ông chất phác, sống đơn giản và tốt bụng. Đã có lần, ông cùng tôi ngồi hàng giờ trước cổng nhà một người họ hàng bên ngoại của tôi chỉ để đợi họ về mà biếu một giỏ vú sữa chín mọng. Tôi vẫn thường cảm nhận được rằng họ tỏ ra xem thường ba tôi, xem thường bộ quần áo bạc thếch mà ông mặc trên người, xem thường cả món quà quê mà họ dễ dàng mua được nơi phố thị tấp nập. Nhưng ba thì không lấy đó làm phiền lòng, ông vui vẻ vì sự chia sẻ của mình, không bận tâm đến cách người khác nhìn và đánh giá về mình. Đó là điều khiến tôi ngưỡng mộ và tự hào về ba mình. Một buổi chiều nọ, tôi được ba lấy xe đưa đi tắm sông, sẵn tiện chở thêm một vài thùng nước lấy dưới sông về nấu ăn vì ở vùng quê tôi sống, đa phần nguồn nước giếng đều bị nhiễm phèn và vôi, giếng nhà tôi cũng không ngoại lệ. Vì thế, nước giếng chỉ để tắm giặt chứ không thể sử dụng để nấu nướng.

Đang ngụp lặn dưới sông, tôi nhìn thấy trên đường bầy bò và nghé con đi hiên ngang. Trong đầu tôi chợt loé lên một suy nghĩ. Trên đường về nhà, tôi hỏi ba: “Ba, bò con có đắt không hả ba?”

“Khoảng bốn triệu một con. Mà con hỏi làm gì?” Ba vừa lái xe vừa trả lời tôi. Tôi im lặng không nói gì. Mùi cỏ khô bị đốt thoang thoảng khiến tôi cảm thấy khó chịu.

Tối hôm đó về, tôi lại lấy giấy bút ra tính toán. Tôi cảm thấy hào hứng vô cùng và còn mang niềm hào hứng của mình vào trong giấc ngủ ngon lành với tờ giấy được tôi nắn nót ghi “Tính toán chi phí nuôi em bé” đặt dưới gối.

Nhưng rồi, niềm hào hứng của tôi vụt tắt khi mẹ đưa ba đi tái khám ở Sài Gòn. Khi trở về, mẹ nói rằng mẹ không sinh em bé được vì bác sĩ nói ba điều trị khối u bằng biện pháp xạ trị, nếu sinh ra sẽ không tốt cho em. Tôi cảm thấy buồn lắm, tôi vào giường, giở gối nằm của mình ra để lấy “bản kế hoạch vĩ đại”. Tôi đem cất trong ngăn bàn học, cất cả niềm hy vọng có em của tôi.

❉❉❉

Nhà tôi có một đàn chó. Con lớn nhất tên Ki, nó có bộ lông màu mỡ gà óng mượt và rất dày, điều này khiến nó có rận vì đất ẩm ở quê cộng với thời tiết nắng nóng. Con tiếp theo là Rex, ba tôi đặt tên như vậy vì nó cao ráo, lông ngắn và mượt lại rất nhanh nhẹn, nom giống chú chó thám tử trong một bộ phim truyền hình nước ngoài mà chúng tôi đã xem. Tiếp nữa là Boy, cậu chàng này trái ngược với hai cậu kia, Boy mập ú và lùn, tạo ra cái dáng tròn lẳn rất buồn cười. Gia đình tôi yêu chúng lắm. Mỗi mùa đông về, trời rét mướt, mẹ mở cửa cho chúng chạy vào nhà, rồi trải thảm cho từng con ngủ trong nhà, hoặc ba sẽ đốt lửa để sưởi ấm cho bọn nó. Chiều nào đi học về, tôi cũng tha thẩn chơi với ba đứa, đến giờ ăn, chỉ cần lấy cái muỗng gõ vào nồi là ba con sẽ lũ lượt kéo nhau chạy về. Nhưng rồi, cơ cực sẽ cướp đi kỷ niệm, sự nghèo đói sẽ cướp đi những thứ mà ta yêu quý. Hàng ngày, có một chiếc xe máy chở cái lồng sắt, bên trong là những chú chó co ro đầy tội nghiệp đi ngang qua nhà tôi, vừa đi vừa rao: “Ai bán chó không?”

Cái âm thanh phát ra từ loa điện tử gắn trước đầu xe mà tôi vẫn nghe mỗi ngày khiến tôi cảm thấy thật khó chịu. Vậy mà, tôi không ngờ rằng có một ngày, chiếc xe chở cái lồng sắt ấy lại dừng lại trước cửa nhà tôi.Mẹ tôi bán chó.

Chính xác là mẹ tôi đã gọi chiếc xe ấy lại và cắn răng bán đi đám chó mà gia đình tôi đã chăm bẵm từ nhỏ. Người mua bắt đầu ỉ ôi chê đứa này lắm rận, đứa kia quá béo. Tôi biết người đàn ông đó chỉ nói như vậy để tìm cách ép giá thôi, và tôi bỗng dưng nhớ đến nhân vật chị Dậu trong tác phẩm “Tắt đèn” của nhà văn Ngô Tất Tố. Tôi thấy khi đó, mẹ cũng không khác chị Dậu là bao, đến đàn chó của gia đình cũng phải cắn răng bán để gom tiền cứu chữa cho ba tôi đang nằm trong bệnh viện. Mẹ rất thương tôi, mẹ đã từng nói sẽ không bao giờ lấy đi những gì tôi yêu quý. Nhưng có lẽ, khi bị đẩy vào bước đường cùng, con người ta thật khó để có thể chọn lựa…

Mẹ cầm nắm tiền nhàu nát trong tay và ôm tôi đứng nhìn người ta cầm kẹp sắt cẩu từng con bỏ vào chiếc lồng. Lần lượt con Ki, con Boy bị cẩu lên với sự thảng thốt và vùng vẫy trong tuyệt vọng. Con Rex lanh lợi hơn nên linh cảm được sự chẳng lành đang xảy ra với mình, nó vùng chạy nhưng không kịp. Cái kìm sắt vươn ra kẹp lấy nó, lôi ngược trở lại và ném nó vào lồng chung với những con chó khác. Người đàn ông mồ hôi nhễ nhại, giơ tay đóng sập cửa lồng rồi lên xe rồ máy. Những con chó yêu quý của tôi giương mắt buồn rầu nhìn về phía tôi và mẹ, ánh mắt ai oán đầy tuyệt vọng. Chúng không hiểu vì sao tôi lại có thể để cho người khác làm những điều độc ác với chúng như vậy. Chúng bắt đầu kêu ăng ẳng khi chiếc xe rời đi, tiếng kêu xé nát lòng tôi văng vẳng xa dần, xa dần... Tôi vùng chạy theo nhưng không thể làm được gì ngoài việc đứng chôn chân nhìn theo chiếc xe mờ dần rồi khuất hẳn trong làn bụi mù mịt của con đường làng chưa được đổ bê tông. Chiếc lồng chật hẹp đã mang những người bạn của tôi đi xa mãi, chở theo cả một vùng trời tuổi thơ tôi…

Lạ thay, tôi chẳng khóc chút nào. Tôi không như những đứa trẻ khác thường khóc nấc lên mỗi khi bị lấy đi những thứ mình yêu thích. Tôi giấu hết nỗi buồn vào trong lòng, dù nhỏ bé nhưng trái tim tôi cũng đủ chất chứa hết những muộn phiền, để không phải khiến người bên cạnh mình thêm bận tâm. Biết tôi buồn nên mẹ xoa đầu tôi và nói: “Rex, Boy và Ki đều đẹp. Người ta sẽ bán nó cho những người muốn nuôi chứ không mang đi ăn thịt đâu. Vì thế, con đừng lo lắng nhé! Chúng sẽ tìm được chủ nhân mới và có cuộc sống mới tốt đẹp hơn mà.”

Nghe đến đây, cổ họng tôi như nghẹn đắng. Làm sao tôi có thể tưởng tượng ra được hình ảnh khủng khiếp khi những chú chó thân yêu của tôi sẽ bị người ta làm thịt? Tôi biết mẹ đang cố trấn an tôi, muốn tôi được yên lòng. Quả thật là tôi cần lời xoa dịu đó bởi nó mang cho tôi một tia hy vọng, một sự thoả hiệp với cảm xúc đau đớn lúc bấy giờ. Tôi hy vọng những chú chó của mình sẽ được bình an như mẹ nói, hay tôi đang tự lừa dối bản thân rằng mình không có lỗi với những người bạn bốn chân kia vì rời xa tôi, chúng sẽ có cuộc sống tốt đẹp hơn? Sẽ thật sự tốt đẹp hơn nhưng là ở một thế giới khác chăng?Và rồi từ đó, tôi lờ mờ nhận ra rằng, đói nghèo sẽ lấy đi của tôi tất cả. Nếu nghèo, tôi sẽ chẳng thể giữ được những điều mà mình yêu quý. Nếu nghèo, tôi sẽ chẳng thể bảo vệ được mọi thứ ở bên cạnh mình.

❉❉❉

Mọi chuyện rồi cũng qua. Ba bắt đầu điều trị thêm bằng thuốc nam. Chén thuốc nghi ngút khói có mùi hơi khó chịu cộng với màu đen đậm đặc khiến tôi cảm thấy sờ sợ. Ba là người mạnh mẽ nhất mà tôi từng biết nhưng khi bưng chén thuốc uống một hơi đánh ực, khuôn mặt ba vẫn không tránh nổi nét chau mày. Có lần, vì tò mò, tôi đã chấm thử một giọt thuốc đưa lên lưỡi nếm thử, vị đắng nghét đến lợm cổ họng khiến tôi phải nhổ ra ngay lập tức. Tôi thương ba vì ngày nào cũng phải uống loại thuốc đắng như thế.

Thời gian đó, chiều nào tôi cũng đi khắp vườn để nhổ những bụi cây diệp hạ châu già trĩu những hạt màu xanh để mang về cho mẹ sắc. Vườn nhà mình hết, tôi lại lân la sang vườn nhà hàng xóm để xin. Tôi cùng chiếc xe con con của mình đi từ thôn này qua thôn khác để mang về cho mẹ những bó cây diệp hạ châu và lá đu đủ già. Ngày nắng cũng như ngày mưa, mọi người dần quen với hình ảnh con bé đen nhẻm khi thì mặc áo mưa ướt nhẹp, lom khom gồng người đạp xe chở theo sau là một bó xanh xanh, lúc lại thấy con bé đội cái nón màu vàng vừa đạp xe vừa nháo nhác nhìn vào từng nhà xem nhà nào có thứ cây nó cần để dựng xe chạy vào xin. Ông trời rồi cũng không phụ sự cố gắng của tôi và mẹ, ba đỡ bệnh hơn rất nhiều. Những cơn đau cũng dần bị đẩy lùi, tôi biết vì tôi không còn nhìn thấy ba ôm bụng ngồi thụp xuống mỗi khi làm việc nặng nữa. Ba lại bắt đầu đi nhiều hơn, có những đêm không về nhà. Tôi lại mong ngóng tiếng xe của ba mỗi khi đêm về. Làng quê thanh vắng đến nỗi tôi có thể đếm được từng tiếng xe ngang qua nhà mình. Tôi dường như đã quen với tiếng xe của ba nên không khó để nhận ra có phải ba về hay không. Sự mong ngóng có khi được đền đáp bằng tiếng lách cách mở cổng, và tiếng dắt xe vào nhà - ba tôi về. Nhưng lắm lúc, trả lời tôi chỉ là những khoảng không đầy yên lặng, tiếng côn trùng kêu rả rích bên ngoài, tiếng chó nhà hàng xóm sủa văng vẳng xa xa, hay tiếng đôi mèo đuổi nhau chạy rầm rập trên mái nhà…

Gia đình tôi thường xuyên phải chuyển nhà, kinh tế lúc khá giả khi lại nghèo túng đến không còn lối thoát. Tôi không hiểu lý do vì sao, cũng chưa từng hỏi mẹ bởi vì đối với mẹ, có những việc chỉ người lớn mới được quyền biết, tôi cũng phải đợi đến khi mình đủ lớn để có thể hiểu điều ấy.

Cuối đông, trời vẫn lạnh và bóng đêm đen đặc cứ mang ba tôi đi biền biệt vào những ngày như thế. Tết năm đó, ba đã đưa mẹ con tôi đi mua rất nhiều bánh mứt, toàn là loại tôi thích. Mẹ cũng mua vải để đưa thợ may áo sơ mi và quần tây mới cho ba mặc Tết. Lần đầu tiên tôi thấy ba mặc quần áo chỉnh tề đóng bộ như thế. Ba đẹp trai lạ thường, mặc dù ông ngượng nghịu với sự chỉnh tề khác lạ đó nhưng tôi vẫn thấy ba rất bảnh. Mẹ thì được ba mua cho một đôi giày mới rất đẹp. Lần đầu tiên nhìn thấy, mẹ đã rất thích nhưng vì giá khá đắt nên mẹ cương quyết kéo ba về mà không mua nữa. Hôm sau, đôi giày “bỗng dưng” có mặt ở nhà tôi, mặc cho mẹ cằn nhằn còn ba thì cười xoà. Mấy ngày giáp Tết, thời tiết dịu ngọt và không khí rộn ràng khiến con người trở nên thư thái hơn. Trẻ con chạy tung tăng trên khắp các con đường làng vì đã vào kỳ nghỉ năm mới kéo dài gần hai tuần lễ. Tôi mang rổ ra vườn chọn một trái đu đủ xanh thật to, sau đó ra chợ mua cà rốt, củ cải về gọt vỏ, phơi cho héo để làm dưa món. Chợ quê nhộn nhịp buôn bán, rau củ cũng được chất nhiều hơn ngày thường, câu đối đỏ, bao lì xì được bày bán đỏ một góc chợ. Những cái mẹt lớn đựng đầy củ kiệu còn bám đầy bùn đất mang đến cho tôi một hương vị Tết nao lòng đến khó tả.

Người ta vẫn thường nói, Tết vui nhất là những ngày chuẩn bị, tôi cũng cảm thấy như vậy. Mọi người đều tất bật ngược xuôi, người tha phương cầu thực vội vã trở về quê hương để được đoàn tụ với gia đình, kẻ bán buôn hàng hoá tấp nập chỉ mong cho chóng hết. Khuôn mặt người lớn thì đượm vẻ lo lắng, còn trẻ thơ thì tươi rói những nụ cười trên môi. Người lớn âu lo bộn bề chỉ mong được nhìn thấy nụ cười thơ trẻ khi chúng được cầm trên tay chiếc áo mới, bé gái thì có thêm một cái ví nhỏ đủ màu sắc để đựng phong bao lì xì. Tôi cảm nhận được sự trăn trở đó dù vẫn chỉ là một đứa trẻ. Tôi biết rằng rồi đây mình sẽ lớn lên, sẽ trưởng thành và sẽ giống như ba mẹ, như những người lớn mà tôi đã nhìn thấy.

Đêm ba mươi, hơn mười một giờ mà ba vẫn chưa về. Tôi lặng lẽ ra cửa đứng ngóng với bộ quần áo mới có chút cọc cạch với đôi giày cũ. Hôm nay, ba hứa sẽ mua cho tôi một đôi giày, nhưng khoảnh khắc giao thừa sắp điểm mà ba vẫn chưa về. Không giờ ba mươi phút, giao thừa đã qua được một lúc, tôi như chực khóc vì với tôi, đó là thời khắc đoàn viên quan trọng nhất. Tôi ngồi thừ một góc ngoài cửa, mẹ ngồi trên ghế ở phòng khách, mâm cúng giao thừa ngoài sân đã tàn nhang từ lâu mà chưa có ai mang vào. Ngọn gió chớm xuân thổi tạt qua làm tung toé bụi nhang. Thật lạ, gió xuân nên là những ngọn gió mát mẻ và tươi mới nhất mới phải, ấy vậy mà sao tôi lại cảm thấy nó hiu hắt đến lạ thường? Bỗng có tiếng xe của ba đỗ xịch trước cổng, tiếng lách xách mở khoá, lòng khấp khởi mừng vui, tôi đứng bật dậy đón ba vào nhà. Ba đưa cho tôi một cái túi trong có đựng một đôi giày màu xanh lá mạ, bên trên có thêu hình lá trúc. Tôi ướm thử mà trong lòng vui lắm.

❉❉❉

Tôi vào cấp hai, trường cách nhà năm cây số. Vì muốn tự lập nên tôi xin ba mẹ cho phép đạp xe đi học mỗi ngày như chúng bạn. Ba mẹ tôi đồng ý và đổi cho tôi một chiếc xe đạp lớn hơn. Cả đi cả về là mười cây số, con đường làng dẫn ra đường nhựa với đủ loại xe tải lớn chạy bạt mạng khiến thời gian đầu tôi có chút lo sợ, nhưng rồi cũng quen dần. Có những hôm bận học thêm, hơn chín giờ tối tôi mới tan học về nhà, con đường xa tít tắp với những cánh đồng mía hai bên đường tối om om, không một ánh đèn đường. Tôi thường rủ những đứa bạn cùng xã đi về chung cho đỡ sợ, một ánh đèn xe máy chạy lướt qua cũng khiến chúng tôi mừng rỡ trong giây lát. Những ngày không có ai về chung, tôi đi một mình trên con đường tối như mực hay sáng mờ ánh trăng mà trong lòng không khỏi suy nghĩ vu vơ. Tôi thường đi ngang qua gốc cây cổ thụ rất to, cái cây mang theo nhiều lời đồn thổi về những hồn ma, những câu chuyện được thêu dệt đầy màu sắc huyền bí khiến con đường về của học sinh chúng tôi càng thêm phần gian nan, càng thêm nhiều nỗi sợ vô hình. Hai bên đường luôn có bóng học sinh ôm cặp xin quá giang, đó là những học sinh từ miền núi xuống, còn xa hơn cả xã tôi. Họ đi bộ xuống tận đây rồi xin đi nhờ xe của những người qua đường đi tiếp xuống trường học. Những lúc chở tôi đi học bằng xe máy, ba luôn dừng lại để đón thêm ít nhất hai bạn nữa đi cùng. Một đứa ngồi trước còn một đứa ngồi sau lưng tôi. Chiếc xe máy cà tàng của ba cứ thế lặc lè đưa đón những đứa trẻ thèm tri thức.

Cái nắng cháy da và gió Lào hầm hập khiến học sinh chúng tôi đứa nào đứa nấy đều đen nhẻm đen nhèm, da khô sần. Nhìn những đứa cùng trường nhưng ở xã gần thị trấn, đứa nào cũng trắng như bông bưởi mà tôi thèm. Ngày mưa, đường xá lầy lội, đã thế cây cầu xã tôi còn thấp hơn các xã khác nên chỉ cần một trận mưa nguồn thôi cũng đủ khiến cho nước dâng lên làm cây cầu mất hút rồi. Nước lũ cuồn cuộn, đen ngòm cùng với những khúc gỗ và rác rưởi kéo về. Ngày mùa, những chiếc xe tải lớn chạy bạt mạng trên con đường nhựa đã xuất hiện nhiều ổ voi, ổ gà. Bóng những chiếc áo trắng học sinh cố gồng mình trên chiếc xe đạp như chơ vơ giữa đường, dạt sang hai bên lề đường như chực chờ đổ ập xuống. Thỉnh thoảng, có những chiếc nón vải tung lên, bay ra giữa đường bị xe cán qua, đứa học trò bất chấp ô tô qua lại mà chạy ra nhặt, bàn tay đen nhẻm phủi phủi bụi đất trên chiếc nón đã sờn cũ rồi lại đội lên, tiếp tục hành trình đến trường, hành trình đi tìm con chữ của những đứa học trò nơi làng quê nghèo xa xôi.

Mùa mưa là thời điểm mà học sinh xã tôi lo lắng nhất. Buổi sáng, đạp xe qua cầu thấy nước mấp mé thành cầu là cả buổi chúng tôi ngồi học không yên, chỉ cần nghe tiếng loa trường thông báo là phải hoảng hốt lục đục thu dọn đi về cho kịp trước khi nước tràn qua cầu. Vì thế mà chúng tôi luôn bị mất nhiều bài vở, đứa học giỏi cũng phải rất vất vả mới theo kịp bài, còn đứa có học lực yếu hơn chắc chắn kết quả học tập không mấy khả quan. Những lớp có học sinh thuộc xã vùng xa cũng chẳng mấy khi được giao những nhiệm vụ quan trọng của trường bởi vì những hạn chế đó.

Mùa lũ năm ấy, nước tràn về nhanh hơn dự kiến, lớp tôi nháo nhác như ong vỡ tổ. Giữa trời mưa giăng kín cùng những cơn gió thổi tốc mái tôn, nhiều đứa gồng mình đạp thật nhanh để kịp chạy về bất chấp thời tiết nguy hiểm. Về đến đầu cầu dẫn vào xã, chúng tôi lặng đi khi nước đã ngập qua cầu, những con nước đục ngầu bạc trắng cuồn cuộn dâng mải miết. Hai bên cầu đứng nhìn nhau, phía bên kia là phụ huynh còn phía bên này là học sinh chúng tôi cùng những người lỡ việc về không kịp. Lúc này, nước chưa dâng cao lắm, một vài đứa đánh liều dắt xe lội qua, một đứa rồi hai đứa. Tôi run lắm vì tôi không biết bơi và mẹ cũng đã dặn đi dặn lại không được đi qua cho dù nước chưa dâng cao nhưng cứ nghĩ đến cảnh không được về nhà khiến tôi nhắm mắt làm liều. Tôi lấy cặp đeo trên vai, cởi giày ra treo ở cổ xe rồi bắt đầu lội qua. Các ngón chân của tôi bám xuống nền cầu bằng xi măng lúc này đang khá trơn và nước chảy siết đã gần đến đầu gối. Ra đến giữa cầu, tôi bắt đầu lo sợ vì nước chảy mạnh cứ chực chờ cuốn phăng chiếc xe đạp của tôi đi. Tay tôi ghìm chặt xe lại, các ngón chân cũng bấu xuống chặt hơn. Tôi bắt đầu nghe thấy tiếng la hét của những phụ huynh bên kia cầu xen lẫn trong tiếng nước chảy ào ạt ngày một dữ dội. Tôi lấy hết sức bình sinh tiếp tục bước qua, vì lúc này tôi đã ở thế tiến thoái lưỡng nan rồi. Đột nhiên, có một khúc gỗ mục lớn trôi về như chực chờ sẽ đâm sầm vào tôi. Tôi bước nhanh hơn, đành phó mặc số phận của mình cho dòng nước. Cuối cùng, tôi cũng sang được bờ bên kia. Tay chân tôi lạnh ngắt và bắt đầu nhăn nheo vì nước. Nhìn thấy tôi đạp xe về nhà, mẹ hoảng hốt hỏi: “Tại sao con về được? Nghe xã báo nước lên, mẹ vừa gọi ba đang ở dưới thành phố chạy về đón con. Sao con đã về đến đây rồi?”

Biết tôi đánh liều lội qua, mẹ thất thần. Mẹ nhìn tôi nửa muốn mắng, nửa muốn đánh, nửa mừng nửa sợ còn tôi thì đứng lặng người.

Lũ về lớn, các con đường tắt dẫn vào xã tôi cũng ngập sâu trong nước. Chính quyền xã bắt đầu nhắc nhở người dân không được sử dụng ghe thuyền làm phương tiện qua sông để tránh nguy hiểm. Tôi nghe loáng thoáng có anh thanh niên vì vợ sinh con nên cương quyết lội qua sông đã bị nước cuốn trôi không tìm thấy xác. Ba cũng không về kịp nên đành ở lại nhà bà nội dưới thành phố. Chợ xã đìu hiu vì thực phẩm ở đây đều do dân buôn dưới thị trấn mang lên bán, nay nước lớn, họ cũng không thể qua được. Những cơn mưa dầm thối đất thối cát đổ ầm ầm xuống mái tôn kèm theo cái lạnh cắt da cắt thịt, thức ăn trong nhà cũng vơi dần. Những hàng tạp hoá cũng không còn mì gói, bánh kẹo và sữa nữa vì những hộ khá giả đã thu gom hết. Vườn rau nhỏ tôi trồng vừa mới nhú mầm cũng đã bị những trận mưa dầm quật nát hết cả. Mẹ con tôi bắt đầu hái đu đủ, rau dại quanh vườn vào nấu canh với bột ngọt. Những trái mít non cũng được khều xuống để trộn ăn qua bữa đợi nước xuống. Hàng xóm í ới gọi nhau, chia sẻ từng lon gạo, hộp sữa.

Hồi ấy, miền quê nơi tôi sống đối mặt với hai trận lũ lớn. Điều khiến tôi cảm thấy buồn đó là cách cư sự của ba trong cả hai lần gian nan đó. Ở trận lũ đầu tiên, ba tôi không về được vì nước lớn, tôi và mẹ đều hiểu và thông cảm được. Trận lũ thứ hai cách trận đầu gần ba tuần. Trước lúc ấy, có một cô bạn của ba tên Nguyệt đến nhà ở nhờ vì giận chồng, mẹ vui vẻ sắp xếp chỗ ở cho cô ấy. Cô Nguyệt là người miền Tây, có dáng người khá mập mạp và làn da trắng hồng. Cô vừa ở được gần một tuần thì lũ quét lại tràn về trong đêm, may mắn nhà tôi ở trên cao nên không bị ảnh hưởng mấy, nhưng rất nhiều nhà ở mé sông đã bị cuốn trôi, giao thông bị gián đoạn hoàn toàn, xã tôi bị cô lập. Vậy mà sáng hôm sau, ba về đến nhà mang theo một túi to gạo, thịt hộp, cá hộp và các loại thực phẩm khô khác. Khi đó, khuôn mặt mẹ tôi sa sầm thấy rõ nhưng tôi chưa đủ nhạy bén để nhận ra sự khác lạ này. Tôi không hiểu vì sao ba mang thức ăn về mẹ lại không vui nhưng mãi đến tận sau này, khi nghe mẹ tâm sự, tôi mới hiểu được cảm giác bẽ bàng và xót xa của mẹ khi đó. Bỗng nhiên, tôi cũng cảm thấy có một chút đăng đắng trong cổ họng.

Mùa hè năm ấy, mẹ bảo sẽ cho tôi vào Sài Gòn nghỉ hè ở nhà cậu Tư. Cậu Tư là anh ruột của mẹ tôi, một người rất giàu có trong dòng họ. Tôi rời miền quê nghèo khó để bắt đầu kỳ nghỉ hè của mình trong sự khấp khởi chờ mong mà không hay biết rằng có một bi kịch đang chờ đợi mình ở phía trước.