Độc Cô huynh muội kiên quyết không cho Sử Nhược Mai tiến lên trợ chiến, trong lời nói chứa đựng tình ý thiết tha, quan tâm vô cùng. Đoàn Khắc Tà nghe thấy, lòng nảy sinh nghi ngờ, “Nhược Mai ở trong nhà Độc Cô đã gần mười ngày, Độc Cô huynh muội giúp nàng trị thương, chẳng lẽ ngay cả việc nàng là nữ tử cũng không nhận ra sao?” Nghi ngờ vừa nảy sinh, lòng chàng đã không khỏi bấn loạn. Độc Cô Vũ thoắt cái đã mở Chiết phiến ra nhằm trước mặt chàng đánh tới, Đoàn Khắc Tà tránh hơi chậm, xoẹt một tiếng, y phục của chàng đã bị nan quạt sắc nhọn xé rách một mảnh.
Độc Cô Vũ một chiêu đắc thủ, tức thì phấn chấn tinh thần, Chiết phiến thoắt xòe thoắt cụp, khi thì làm Phán Quan bút điểm tới, lúc lại thành ngũ hành kiếm chém qua, thủ pháp lợi hại, thân pháp khinh linh, xác thực như lưu thủy hành vân, không hề ngừng trệ. Chàng ta vốn là thế gia công tử phong nhã, lại công thêm Chiết phiến càng khiến tăng thêm thần thái tiêu sái, tuấn dật bất phàm!
Đoàn Khắc Tà buồn bực, trong lòng cảm thấy trống rỗng không có chút ý vị gì, chàng chợt nghĩ: “Khi ta đến nơi, nàng đang quanh quẩn dưới bụi hoa, đêm đã khuya như vậy còn một mình trong hoa viên làm gì, không phải là chờ ai sao?” Chàng lại nghĩ: “Hèn gì nàng không thèm để ý hỏi han đến ta, vị Độc Cô công tử này ôn văn tuấn nhã, thật sự là hơn ta bội phần!” Trong lúc thất ý chua cay, chàng lại không khỏi tự hối tự trách, lại tiếp tục nghĩ: “Đều là ta không phải, ta đối với nàng có ngộ nhận, đối với nàng thô bạo, lại từng nói rõ với nàng là thoái hôn, nàng đã chịu đựng quá nhiều ủy khuất, làm sao có thể không hận ta được? Hôm nay nàng đã có người hợp ý, ta sao có thể trách nàng thay lòng đổi dạ?” Chàng trong lúc suy nghĩ bấn loạn, càng nghĩ càng nhận định rõ ràng là Sử Nhược Mai đã thay lòng, cuối cùng chàng kết luận: “Đại trượng phu có thể nắm được thì cũng có thể buông được, vị Độc Cô Vũ này cũng là người hiệp nghĩa, Nhược Mai nay đã thích y mà không thích ta, ta sao không thành toàn cho bọn họ chứ?”
Lập tức chàng hú lên một tiếng dài, thân hình thoắt bay lên, Chiết phiến của Độc Cô Vũ vừa tới liền điểm vào khoảng không. Độc Cô Oánh đâm nhanh trường kiếm ra chiêu “Cử Hỏa Liêu Thiên”. Đoàn Khắc Tà song chỉ bắn ra, lực đạo lúc này sử ra vừa vặn, chỉ nghe thấy một tiếng “keng”, mũi kiếm của Độc Cô Oánh đã bị đánh lệch ra va chạm với Chiết phiến của ca ca nàng. Trong lúc hai huynh muội đang kinh ngạc, Đoàn Khắc Tà đã bay qua đầu tường, tiếng hú ngân cao như thần long vang đến tận chân trời, chỉ thoáng chốc đã đi xa ngoài vài dặm.
Hai huynh muội nhìn nhau thất sắc, Độc Cô Vũ nói:
“Người này bản lĩnh cao cường, khinh công tuyệt diệu, thật sự thế gian hiếm thấy. Cũng không biết tại sao hắn lại đột nhiên bỏ đi như vậy?”
Độc Cô Oánh nói:
“Hắn đi rồi càng hay, Sử đại ca, huynh vừa rồi không bị thương chứ?”
Chỉ thấy Sử Nhược Mai đứng ngây người như tượng gỗ, Độc Cô Oánh lại gọi một lần nữa nàng mới thẫn thờ đáp:
“Đa tạ hai người, ta không bị thương”.
Kỳ thật lúc này nàng cũng đang rất hối hận, Đoàn Khắc Tà bị nàng làm tức giận bỏ đi đúng như tâm nguyện của nàng, oán khí của nàng đã phát tiết hết, còn lại chỉ là một mảnh ảm đạm mịt mờ.
Độc Cô huynh muội chỉ tưởng nàng vì “địch nhân” bản lĩnh quá cao cường mà hoảng sợ đến ngây ngốc, Độc Cô Vũ nói:
“Xem ra người này cũng là một loại nhân vật giống như Không Không Nhi, Không Không Nhi một lần ra tay không đạt mục đích, đã đi xa ngàn dặm, quyết sẽ không quay trở lại”.
Độc Cô Oánh cũng nói:
“Chỉ mong người này cũng như vậy”.
Hai huynh muội hồi tưởng lại hiểm chiêu mới gặp phải vừa rồi, lúc đó thân lâm kỳ cảnh, không biết đến sợ hãi, bây giờ nhớ lại, bất giác trong lòng đều bất an, lo sợ khôn siết, “Nếu lại gặp chuyện như vậy, thật không biết phải ứng phó ra sao?”
Độc Cô Vũ đột nhiên hỏi:
“Sử đại ca, huynh đã đến Trường An chưa?”
Sử Nhược Mai đáp:
“Khi còn nhỏ đệ đã từng đến, sao vậy?”
Độc Cô Vũ nói:
“Chúng ta chưa từng đến Trường An, Tần Tương sắp triệu tập anh hùng đại hội ở Trường An, chi bằng chúng ta hãy đến đó xem náo nhiệt, ngày mai sẽ lên đường”.
Độc Cô Oánh kêu “uy” một tiếng hỏi:
“Ca ca, không phải huynh vốn không muốn đi sao, sao lại thay đổi chủ ý như vậy?”
Đồng thời nàng lại cảm thấy kỳ lạ: “Tại sao ca ca trong lúc này lại không bàn đến việc khẩn yếu trước mắt mà đột nhiên nhắc tới việc này?” Độc Cô Vũ hấp háy mắt cười nói:
“Muội muội, không phải muội rất muốn đi hay sao? Lần này là ta vì muội đó!”
Độc Cô Oánh đôi mắt long lanh, nhất thời đã minh bạch, nàng nói:
“Không sai, đây là thịnh hội trăm năm khó gặp, không cần phải tham gia chỉ đến đại khai nhãn giới cũng rất hay. Sử đại ca, huynh yên tâm, Tần Tương từng nói rất rõ ràng, trong kỳ đại hội này, các lộ anh hùng chỉ cần không gây chuyện tại Trường An thì bất kể trước đây đã làm chuyện gì y cũng sẽ không truy cứu. Với thân phận Tần Tương như vậy, lời y đã nói ra, quyết sẽ không thay đổi”.
Độc Cô Vũ lại nói:
“Sử đại ca nếu như còn có lo lắng, nhà tiểu đệ còn có dịch dung đan, khả dĩ có thể dễ dàng thay đổi dung mạo, chỉ là thớt ngự mã này không thể tiếp tục cưỡi được nữa. Trong thành Trường An có vài vị trưởng bối thế giao của tiểu đệ khả dĩ có thể chiếu cố chúng ta được. Nhưng tiểu đệ chưa từng đến Trường An, đến lúc đó phải thỉnh Sử huynh dẫn đường”.
Độc Cô Oánh thấy Sử Nhược Mai vẫn còn trù trừ, nàng đảo tròn tròng mắt một vòng, cười nói:
“Sử đại ca lo sợ gặp phải nguy hiểm không đến Trường An cũng được. Muội có một vị cô cô ở tại Lũng Tây Phụng Tường, cô trượng (dượng) trên giang hồ nổi danh là Thông Tý Thần Quyền Cốc Đại Hào. Đã nhiều năm muội chưa gặp cô cô, không bằng chúng ta lên đường đến Phụng Tường có được không? Nơi đó sơn thanh thủy tú, rất đáng để thăm quan, Sử đại ca không muốn kết giao bằng hữu đến đó giải tỏa tâm tình cũng tốt”.
Sử Nhược Mai đang buồn bã chán nản còn có tâm tình gì nữa. Nhưng nàng thấy huynh muội bọn họ kẻ tung người hứng, cũng thấy có chút lạ kỳ, đột nhiên nàng hiểu ra liền đáp:
“Đa tạ huynh muội hai người đã vì ta mà lo lắng mọi đường, kỳ thật các người cũng không cần phải bỏ nhà đi xa như vậy, ta một mình ra đi cũng được, người kia cũng chỉ là muốn tìm ta, ta sẽ không liên lụy đến các người”.
Nguyên là điều Độc Cô huynh muội trong lòng đang lo lắng chính là những phiền toái sau này. Người đến đêm nay võ công quá mức cao cường, bọn họ tự biết quyết không phải là đối thủ, mặc dù bọn họ hy vọng người này sẽ không quay trở lại, nhưng làm sao có thể đảm bảo được điều đó? Bọn họ cũng lại không biết ẩn tình bên trong, nằm mơ cũng không thể ngờ người này lại chính là Đoàn Khắc Tà, hơn nữa Đoàn Khắc Tà lại là vị hôn phu của Sử Nhược Mai. Họ chỉ tưởng người này là cao thủ triều đình, nếu không thì cũng là cừu gia của Sử Nhược Mai, tóm lại đối với Sử Nhược Mai có bất lợi.
Bọn họ vì sự an toàn của Sử Nhược Mai, cũng là để tránh tai bay vạ gió cho nên mới quyết ý rời nhà tị nạn. Trường An có vài vị lão anh hùng là thế giao của bọn họ, Phụng Tường thì có cô trượng, đám người này đều có khả năng bảo vệ bọn họ, chỉ e Sử Nhược Mai có điều ái ngại cho nên mới không chịu nói rõ ràng.
Sử Nhược Mai đã nhận ra được dụng ý của hai người, nàng cùng với Đoàn Khắc Tà gây ra chuyện, làm hỗn loạn đến thế cũng thấy xấu hổ, đồng thời lại biết Độc Cô Vũ đã có chút nghi ngờ đối với mình, nếu như chàng ta biết được mình là nữ tử, chỉ sợ lại thêm phiền toái, khi đó đã xấu hổ lại càng xấu hổ hơn. Theo tình hình này, Sử Nhược Mai làm sao có thể đem chân tướng nói rõ ràng được, cho nên nàng mới đắn đo suy nghĩ, vừa rồi mới ấp a ấp úng nói ra một câu mơ hồ tiết lộ “người kia” bất quá chỉ là đến tìm nàng, quyết sẽ không làm liên lụy gì đến Độc Cô huynh muội, tự mình rời đi là thích hợp nhất.
Thế nhưng Độc Cô huynh muội lại không rõ chân tướng, làm sao có thể để cho nàng rời đi một mình? Độc Cô Vũ biến sắc, chàng ngửa mặt lên trời cười dài nói:
“Sử đại ca, huynh cũng xem thường ta!”
Sử Nhược Mai nói:
“Độc Cô huynh sao lại nói như vậy, ta sao dám xem thường huynh đài?”
Độc Cô Vũ đáp:
“Huynh nếu như còn coi ta là bằng hữu, thì nên có phúc cùng hưởng có họa cùng chịu. Huynh đến hôm nay cũng đã thấy rõ tâm ý của huynh muội chúng ta, vậy ta cũng mở lòng thành thật nói rõ hết. Địch nhân của huynh xác thực là lợi hại, huynh muội chúng ta đều không đánh lại hắn, Sử đại ca, huynh có kiếm pháp cao cường, nhưng tiễn thương vừa mới khỏi cũng vị tất đã là đối thủ của hắn. Nơi này không thể tiếp tục ở lại nữa, trước mắt chỉ có kế sách là đi xa lánh nạn, chúng ta vô lực bảo vệ an toàn cho huynh, đã là lo lắng không hết huynh lại còn muốn nói liên lụy với không liên lụy gì nữa, đó chính là không xem chúng ta là bằng hữu. Trên giang hồ có câu nói rất hay: Làm bằng hữu chẳng ngại bị đao đâm! Tính mệnh còn có thể hy sinh vì nhau, huống hồ chỉ là cơ nghiệp?”
Độc Cô Oánh không kìm được tình cảm cũng tiến lên nắm lấy tay áo của Sử Nhược Mai nói:
“Sử đại ca, khó khăn chúng ta mới được ở cùng một chỗ, muội thật vất vả lắm mới trị liệu cho huynh khỏe lại, sao có thể lại để cho huynh xảy ra chuyện gì được”.
Sử Nhược Mai siết chặt tay nàng thâm tình nói:
“Ân nghĩa của Độc Cô cô nương, ta vĩnh viễn sẽ không quên. Chỉ là....”
Nàng đang muốn lựa lời khéo léo chối từ, nhưng Độc Cô Vũ đã cắt ngang, cao giọng nói:
“Sử đại ca không cần phải hai ý ba lòng nữa, nếu như muốn ly khai cũng hãy chờ đến sau này, chờ khi thám thính được đích xác chỗ trú ngụ của Thiết trại chủ, chúng ta sẽ đưa huynh đi”.
Sử Nhược Mai khó mở lời, bất quá đối với tình nghĩa của huynh muội bọn họ thật cảm kích sâu sắc.
Độc Cô Oánh thấy nàng không nói lời nào, chỉ cho rằng nàng đã hồi tâm chuyển ý, nàng cười nói:
“Muội thấy hay là để Sử đại ca đổi dung mạo đi, lánh đến Trường An sẽ rất tuyệt. Thứ nhất là có náo nhiệt để coi, thứ hai là người kia là cao thủ của triều đình, hắn cũng quyết không thể ngờ rằng chúng ta lại có gan lai vãng Trường An. Chỉ cần đến được Trường An là khả dĩ sẽ vô sự”.
Độc Cô Vũ nói:
“Đến Phụng Tường cũng không tệ. Ở đó có cô trượng của chúng ta, càng có thể yên tâm hơn”.
Sử Nhược Mai tâm sự rối bời, nàng miễn cưỡng cười nói:
“Đến Trường An hay Phụng Tường, chúng ta để ngày mai bàn lại được không? Dù sao thì cũng phải chờ đến hừng đông mới có thể lên đường được”.
Độc Cô huynh muội nghe khẩu khí của nàng đã ưng thuận, khối đá lớn trong lòng được dỡ bỏ, cả hai đồng thanh nói:
“Đúng, nhốn nháo đến nửa đêm rồi, cũng nên đi nghỉ thôi”.
Sử Nhược Mai làm sao có thể ngủ được, nàng đóng cửa phòng lại, tựa cửa sổ, chỉ nhìn thấy ánh trăng mông lung, hồ sen trong như một tấm gương, mai hoa dập dờn, bóng đổ nghiêng chao. Ngay trong bụi hoa đó, mình và Đoàn Khắc Tà vừa mới đi qua, chiếc bóng của chàng tựa hồ vẫn còn hiện ra trước mắt. Vậy mà không biết người bây giờ đã đi đến phương nào rồi. Sử Nhược Mai buồn bã chán nản, không khỏi thầm hối hận, thần sắc ảm đạm thương tâm. Nàng dựa mình bên song cửa, vọng nhìn xa mãi phía chân trời, cũng không biết đã trải qua bao lâu, chỉ thấy trăng đã lên cao, bắc đẩu nằm ngang, bất giác đêm cũng đã đến canh ba. Một trận gió thổi qua khiến hai đóa hoa nhẹ rơi xuống hồ sen làm nhiễu loạn mất ánh trăng nơi đáy hồ. Sử Nhược Mai động tâm cả kinh, trong lòng thầm nghĩ: “Ta không sớm quyết định chủ ý, chẳng lẽ để mặc mối nhân duyên tốt đẹp này trở thành hoa trong gương trăng trong nước hay sao?”
Căn phòng mà Sử Nhược Mai ở vốn là thư phòng của Độc Cô Oánh, nghiên mực, bút viết mọi thứ đều đầy đủ. Sử Nhược Mai nghĩ tới nghĩ lui, cuối cùng nàng quyết định lưu lại một phong thư rồi lặng lẽ rời đi. Chỉ là phong thư này cũng thật khó mà hạ bút. Sửa đi sửa lại vài lần bản thảo, cắm cúi viết hơn nửa canh giờ, tự mình xem thấy viết đã tốt lắm rồi, thế nhưng vẫn còn cảm giác không diễn đạt được hết ý tứ. Nàng lúc ban đầu vốn không muốn giấu diếm, định mang toàn bộ sự tình ra thổ lộ để tránh cho Độc Cô Oánh vì mình mà tương tư, thế nhưng lại nghĩ: “Ta cùng với Đoàn Khắc Tà, rốt cục tương lai như thế nào cũng khó mà đoán trước được, nếu như lại có biến hóa khác, lương duyên chẳng vẹn, như vậy chẳng phải khiến người đời cười chê hay sao? Ừ, ta không thể nói rằng ta đi tìm vị hôn phu của mình được!” “Vậy, không nói đến việc này, chỉ nói ra ta là một nữ nhân có được không? Ôi, điều này cũng không ổn, nếu như Độc Cô Oánh thực sự vì ca ca nàng ta mà cầu hôn với ta, ta đây làm sao mà ứng phó được?” Sử Nhược Mai muốn giữ mặt mũi, lại vẫn băn khoăn, nháp đi nháp lại vài lần, cuối cùng nàng viết mấy câu hàm hồ, viết một đoạn nói cảm kích Độc Cô huynh muội, lại viết thêm một đoạn nói không muốn cho bọn họ gặp thêm phiền toái, rồi tiếp tục viết một đoạn đảm bảo sau khi mình ra đi bọn họ tất nhiên sẽ vô sự, mong bọn họ hãy cứ yên tâm, cuối cùng nàng viết thêm hai câu ám chỉ: “Tình chẳng đạt thành, ngày sau sẽ rõ”, rồi nàng viết qua loa vài chữ kết thúc phong thư.
Bút vừa hạ xuống, ngẩng đầu nhìn ra, bên ngoài song cửa ánh rạng đông đã hơi hé sáng, Sử Nhược Mai nhìn lại phong thư một chút, tự mình cũng cảm thấy rất không hài lòng, nhưng trong lòng thầm nhủ: “Để cho Độc Cô Vũ chửi ta không trọn tình bằng hữu, Độc Cô Oánh mắng ta là kẻ bạc hạnh phụ tình, ta cũng là bất đắc dĩ. Chỉ mong trời cao phù hộ, sớm ngày cho ta cùng Khắc Tà tương hội, nếu như hiềm khích trước đây được cởi bỏ hết, khi đó trở về hướng huynh muội bọn họ mà tạ ơn và thỉnh tội, đến lúc đó, thiết nghĩ bọn họ cũng sẽ không trách cứ ta”. Vì vậy nàng liền mang mấy bản nháp thiêu hủy đi, mang phong thơ đã viết tốt nhất để lại trên bàn nơi dễ nhìn nhất, rồi nhẹ nhàng mở cửa sổ nhảy ra ngoài. Cũng may là tối hôm qua Độc Cô Vũ trải qua một trận kịch chiến nên ngủ rất say, mặc dù ở phía đối diện nhưng chàng cũng không hề phát giác ra.
Sử Nhược Mai khi đi qua cửa sổ phòng Độc Cô Oánh, mơ hồ nàng nghe thấy Độc Cô Oánh kêu lên một tiếng “Sử đại ca”, Sử Nhược Mai lấy làm kinh hãi, vội ngừng hô hấp, sau một hồi không thấy có tiếng kêu nữa, khi đó mới biết là Độc Cô Oánh đang nói mơ. Sử Nhược Mai cười thầm: “Trong mộng nàng cũng vẫn nhớ đến ta, còn ta lại đang nhớ đến người khác”. Nàng nghĩ đến đây không khỏi trong lòng đau xót, hối hận vì mình đã vô tình quá. Trước đó là Đoàn Khắc Tà khổ tâm tìm kiếm nàng, bây giờ sau hồi đảo điên nàng lại phải truy tầm tung tích của chàng. Đoàn Khắc Tà tìm nàng còn tương đối dễ dàng, nhưng nàng đi tìm Đoàn Khắc Tà thì lại không hề nắm chắc được chút nào.
Đáng tiếc là Đoàn Khắc Tà không biết Sử Nhược Mai đang đuổi theo chàng, sau khi chàng rời khỏi Độc Cô gia, trong lòng buồn bực không sao nói hết, như điên như cuồng chạy bay về phía trước vô mục đích. Bất tri bất giác, sắc trời đã hửng sáng, chàng nhìn bia đường thì mới biết đã đến cảnh giới Phách Huyền thuộc Lô Long quận. Trong một canh giờ chàng đã chạy được hơn hai trăm dặm! Một hơi chạy đường dài như vậy, tinh lực phát tiết ra rất nhiều, lòng buồn bực cuối cùng cũng suy giảm. Nhưng chàng một đêm bôn ba, đã đi đến sáu bảy trăm dặm, trong bụng cũng cảm thấy đói. Ngẩng đầu nhìn xa, chàng thấy bên đường có một quán rượu nhỏ vừa lúc đang mở cửa. Đoàn Khắc Tà thầm nghĩ: “Quán rượu này mở cửa sớm như vậy, vừa đúng lúc thuận tiện cho ta”.
Loại quán rượu ven đường này đương nhiên sanh ý phải dựa vào khách qua đường, trời vừa mới mờ sáng trên đường lấy đâu ra khách? Theo lẽ thường mà nói thì không nên mở cửa sớm như vậy. Đoàn Khắc Tà cũng thấy có điểm kỳ quái, thế nhưng bụng đang trống rỗng cũng không có thời gian để suy xét.
Trong quán có một đôi trung niên nam nữ và một nữ hài tử khoảng hơn mười tuổi, xem ra đây là một gia đình gồm hai vợ chồng và nữ nhi của họ. Đoàn Khắc Tà vừa mới bước vào quán rượu, nữ hài tử kia đã reo lên:
“Cha, Hóa Tử đại gia đến!”
khiến cho Đoàn Khắc Tà ngẩn người ra.
Trung niên hán tử kia liếc mắt nhìn Đoàn Khắc Tà, nhìn khắp người chàng từ trên xuống dưới, thấy y phục không hề bị rách nát thì cũng ngẩn người ra, thần sắc tựa hồ có chút kinh ngạc, lập tức y xấu hổ cười nói:
“Tiểu hài tử nói nhăng nói quậy, xin đừng trách cứ, khách quan, người đến sớm như vậy”.
Quán rượu nhỏ này chỉ có hai gian trong và ngoài, gian bên trong là phòng chứa tạp vật, cũng không hề thấy đặt nhà bếp ở đâu, còn gian bên ngoài lại bày ra một góc là bếp lò. Quán rượu ven đường nên sắp đặt đơn giản, điều này cũng không có gì là kỳ lạ.
Điểm kỳ lạ là trên bàn thịt của quán có mười mấy con gà béo đã làm lông sạch sẽ, trên mặt đất có một đống đất sét, còn có rất nhiều lá sen, bếp lò trong góc đang cháy rất to. Quán rượu ven đường chỉ là buôn bán nhỏ, lại thịt nhiều gà như vậy thật sự là một việc rất kỳ lạ.
Đoàn Khắc Tà bụng đói cồn cào nên cũng không có thời gian hỏi nhiều, chàng vừa ngồi xuống liền reo lên:
“Hay lắm, hay lắm! Làm cho ta một con gà và lấy hai cân rượu!”
Thần sắc trung niên kia lại càng xấu hổ, y làm bộ dạng cung kính lúng túng nói:
“Khách quan, chỗ này đều phải dùng để làm khiếu hóa kê [1]”.
Đoàn Khắc Tà nhướng mày nói:
“Lúc này sao lại làm nhiều khiếu hóa kê vậy, ta không đợi được, hãy làm một con gà sạch cho ta”.
Trong lòng chàng thầm ngờ vực: “Vị chủ quán này cũng thật là cổ quái, vì sao lại chỉ muốn làm khiếu hóa kê?”
Viên chủ quán cười trừ đáp:
“Tôi còn chưa nói rõ ràng, chỗ gà này đều là do người khác định làm khiếu hóa kê hết, không thể bán được”.
Đoàn Khắc Tà lại càng cảm thấy lạ, phải biết rằng với loại quán rượu này, sanh ý đều dựa vào khách nhân qua đường, mỗi ngày khách qua lại cơ hồ đều không giống nhau, làm sao có thể dự đoán người ta định ăn gì, hơn nữa lại biết rõ chắc chắn là khiếu hóa kê, việc này chẳng phải là chuyện lạ đáng kinh ngạc sao? Thế nhưng Đoàn Khắc Tà là người không để bụng, không có hứng thú quản chuyện không đâu, chàng liền nhíu mày nói:
“Lúc này hãy còn sớm, ngươi vẫn có thể mua thêm vài con gà nữa, chỗ này gà đã thịt sẵn hết rồi, nhượng lại một con cho ta thì có làm sao?”
Chủ quán lại cười nói:
“Khách quan có điểm chưa biết, gà trong vùng phụ cận thôn này đều bị các tửu điếm trên trấn và các quán rượu nhỏ dọc đường mua sạch rồi, tiểu điếm cố hết sức mới tranh mua được hơn chục con, chỉ sợ vẫn còn chưa đủ dùng! Khách quan, người rộng lượng bỏ qua, xuê xoa một chút, tôi mang cho người một cân thịt bò nhé”.
Đoàn Khắc Tà cũng chỉ cầu cho no bụng, chàng liền nói:
“Cũng tốt, người hãy mang lại cho ta một cân thịt bò”.
Chàng uống lấy mấy chung rượu, không gỡ bỏ được nghi ngờ, không nhịn được liền hỏi:
“Nghe khẩu khí của ngươi, tựa hồ hôm nay sẽ có rất nhiều khách nhân rộng rãi đi qua con đường này?”
Chủ quán cười nói:
“Khách nhân rộng rãi ư, ngược lại thì có, bất quá, bất quá, họ cũng là khách quý không thể chậm trễ được”.
Đang lúc y nói đến đó thì nghe thấy phu nhân kêu lên:
“Ôi, khách quý đến rồi!”
Đoàn Khắc Tà trong lòng đang thầm nghĩ: “Không biết khách quý nào đây?” Chàng ngẩng đầu lên nhìn, chỉ thấy có ba vị “khách quý” đã bước đến, nhưng nguyên lai đó là ba tay khất cái quần áo lam lũ.
Chủ quán cũng thật sự là cung cung kính kính mời chào:
“Ba vị đại gia đã đến sớm! May mắn có hai con gà tốt, không có gì khác, xin các vị đại gia lượng thứ cho”.
Ba tên khất cái liếc mắt dò xét Đoàn Khắc Tà, đều cảm thấy có điểm kỳ lạ: “Tiểu tử này sao cũng đến sớm như vậy?” Nhưng bọn chúng thấy chàng còn nhỏ tuổi nên cũng không để trong lòng. Đoàn Khắc Tà cũng dò xét bọn chúng, vừa nhìn qua đã biết bọn chúng đều là người luyện qua võ công, quyết không phải những tên khất cái tầm thường. Ba khất cái này trên lưng đều mang theo túi ăn mày nhưng màu sắc lại không giống nhau. Một lão khất cái mang túi vải màu hồng buộc miệng, còn lại là hai trung niên khất cái lưng mang túi vải xanh và túi vải lam nhưng đều không có nút thắt nào. Đoàn Khắc Tà nhủ thầm: “Nguyên lai là đầu mục của Cái bang”. Đương thời Cái bang dùng màu sắc của túi vải để phân biệt cấp bậc, cấp tối cao là túi màu vàng thắt miệng, bên dưới theo thứ tự là hồng, lam, xanh rồi đến đen. Lão khất cái này lưng mang túi vải màu hồng thắt ba nút nghĩa là có vai vế trong Cái bang. Thiết Ma Lăc đã từng nói tỉ mỉ với Đoàn Khắc Tà về tập quán, quy củ của các bang hội lớn trên giang hồ nên Đoàn Khắc Tà mới biết được chi tiết như vậy.
Lão khất cái nói:
“Mọi người đều nói Mã đà chủ của Phách Huyền bổn bang làm việc chu đáo, quả nhiên danh bất hư truyền. Thật là khó khăn lắm, mới sáng sớm đã phân phó chu tất, chuẩn bị bữa ăn đúng chiêu bài của bổn gia cho chúng ta. Tốt, mang bình rượu lớn đến đây”.
Lão nói chiêu bài của bổn gia đương nhiên là để chỉ món khiếu hóa kê. Tên trung niên khất cái kia nói:
“Gần mười năm nay bổn bang chưa triệu tập đại hội, lần này triệu khai đại hội tại địa phận của Mã đà chủ, hắn sao lại dám không tận hết sức làm phận sự chủ nhà?”
Lão khất cái kia cười:
“Bất quá cũng là có điểm quá mức phô trương, nói không chừng Bang chủ còn không cao hứng ấy chứ!”
Người kia lại nói:
“Nhưng mà chúng ta đi cả đêm đến đây, nếu như hắn không tiên liệu trước mà bố trí, chả lẽ định bắt chúng ta phải vác bát đến tận cửa để xin ăn sao?”
Xem ra hắn đối với sự an bài của Mã đà chủ rất lấy làm mãn ý.
Đoàn Khắc Tà lúc này mới biết nguyên lai là Cái bang muốn triệu khai đại hội, trong lòng thầm nghĩ: “Thảo nào tất cả gà trong vùng phụ cận thôn này đều bị bọn họ mua sạch không còn một con. Thanh danh của Cái bang vốn luôn rất tốt nhưng cách làm việc của vị Mã đà chủ này, chà, cũng thực là khiến người ta chẳng dám a dua theo, chẳng lẽ không sợ người qua đường nhìn thấy hay sao?”
Chàng nhớ lạiThiết Ma Lặc từng nói về chuyện của Cái bang, Cái bang vốn có ba vị trưởng lão danh vang thiên hạ được hợp xưng là “Giang hồ tam dị cái”, một người là Tửu Cái Xa Trì, một người là Phong Cái Vệ Việt và một người là Hoàng Phủ Tung được xưng danh Tây Nhạc Thần Long. Sau khi Xa Trì qua đời, Vệ Việt hành tung vô định, Hoàng Phủ Tung thì ẩn cư tại Hoa Sơn, hai người này đều không quản đến việc trong bang nữa. Hiện đương kim Bang chủ Tiêu Cố là sư điệt của Vệ Việt là người trung hậu thành thật, võ công rất cao, chỉ có điều không đủ tinh minh, trị dưới không nghiêm, cho nên có rất nhiều Cái bang đệ tử không nghiêm khắc tuân thủ bang quy. Đoàn Khắc Tà nghĩ đến đó thì không khỏi có chút cảm khái.
Tên khất cái mang túi xanh đã uống hai chén rượu lớn, hắn vừa xé một chiếc đùi gà, vừa nhai vừa nói:
“Lão gia tử lần này vì chuyện gì mà triệu tập đại hội, lão có biết hay không?”
Lão kia cũng đang xé một đùi gà lớn nhai, đưa mắt liếc Đoàn Khắc Tà một cái rồi chậm rãi nói:
“Chuyện này, ta cũng không rõ lắm... ai dà, phì!”
Đột nhiên lão phun ra một khúc xương gà, Đoàn Khắc Tà và bọn họ cách nhau chỉ một cái bàn, chiếc xương gà kia không ngờ mang theo tiếng xé gió sắc nhọn hướng Đoàn Khắc Tà bay tới!
Đoàn Khắc Tà trong lòng rúng động: “Lão khiếu hóa này võ công không kém, lại có thể phun ra chiếc xương gà làm thành ám khí như vậy!” Đoàn Khắc Tà làm như không hay biết, chàng đưa đũa gắp một miếng thịt bò giơ lên nói:
“Thịt bò này vẫn còn tươi ngon, tiểu nhị, mau mang lại đây một cân nữa”.
Chiếc xương gà vừa bắn đến phía sau não của Đoàn Khắc Tà thì đột nhiên “cách” một tiếng rơi xuống đất. Lão khiếu hóa kia liền kêu lên:
“Ai dà, thật là xấu hổ quá, tiểu ca, không làm bẩn y phục của ngươi đấy chứ?”
Đoàn Khắc Tà ngạc nhiên quay lại, chàng làm bộ dạng như vừa mới phát hiện ra chiếc xương gà, một hồi lâu mới nói:
“Không có, không có,”
rồi chàng quay đầu lại, lại tự ăn tự uống. Lão khiếu hóa kia lầm bầm tự nói với mình như là để giải thích:
“Con gà này nướng còn chưa đủ nhừ, hàm răng của lão khiếu hóa không còn dùng được nữa, lại cắn ngay phải cái xương đầu, không làm sao được chỉ đành nhổ nó ra”.
Nguyên là lão khiếu hóa vốn cố ý như vậy để thử Đoàn Khắc Tà. Lão nhổ chiếc xương gà nhắm ngay vào huyệt Thiên đột sau não Đoàn Khắc Tà bắn tới. Huyệt Thiên đột là một trong những tử huyệt trên người, nếu như Đoàn Khắc Tà thân mang võ công tất nhiên sẽ đại kinh thất sắc lập tức tránh né hoặc giả sẽ dùng vật để ngăn cản đánh rơi nó. Thế nhưng bây giờ Đoàn Khắc Tà lại làm ra vẻ ngơ ngác không biết gì nên lão khiếu hóa kia yên tâm, “Nguyên lai tên tiểu tử này quả nhiên không biết một chút võ công nào”. Lão làm sao ngờ được, Đoàn Khắc Tà nghe thấy tiếng xương gà xé gió, sớm đã biết chiếc xương gà này sẽ đánh trúng vào Thiên đột huyệt của mình, cho nên chàng làm như rất ngẫu nhiên không chuẩn bị, phỏng chừng tựa như tự mình không biết, sắc mặt tỉnh bơ, thản nhiên dùng đôi đũa đánh rơi chiếc xương gà.
Lão khiếu hóa kia “thử nghiệm ra” Đoàn Khắc Tà không biết võ công, cho nên trong lời nói cũng giảm đi rất nhiều cố kị, bất quá lão vẫn không muốn tiết lộ bí mật trong bang cho ngoại nhân biết, vì vậy lão dùng giang hồ thiết khẩu (thuật ngữ trên giang hồ), tiếp tục nói:
“Cũng đã gần mười năm nay, bổn bang chưa mở đại hội, lần này triệu khai, tự nhiên là chuyện cực bất tầm thường. Nghe nói rằng có một đại sự kiện quan hệ đến hưng suy của bổn bang, Bang chủ cũng không định được chủ ý”.
Trung niên khất cái kia hỏi:
“Rốt cuộc là sự tình gì?”
Lão khiếu hóa dùng lời lẽ hàm hồ trả lời:
“Ta cũng không được rõ lắm, dù sao hôm nay cũng có thể biết được sự tình, ngươi cũng không cần gấp gáp”.
Trung niên khất cái kia lại hỏi:
“Nghe nói sẽ còn phải đối phó với một kẻ địch cực kỳ lợi hại, đúng không?”
Lão khiếu hóa thoạt biến sắc nói:
“Ngươi đã biết kẻ đối đầu cực kỳ lợi hại, tại sao lại còn đàm luận lung tung?”
Trung niên khất cái nọ không phục lắm, hắn nghĩ thầm: “Trong tiểu điếm chỉ có một tên tiểu tử mao đầu không biết võ công, chủ quán cũng quyết không phải nhân vật giang hồ, tại sao lão lại còn sợ như vậy?”
Thế nhưng địa vị trong bang của lão khiếu hóa kia cao hơn hắn ba bậc, lão đã không chịu nói, hắn đương nhiên cũng không dám tiếp tục hỏi xem rốt cuộc kẻ đối địch lợi hại ấy là ai.
Đoàn Khắc Tà xuất đạo chưa lâu, đối với giang hồ thiết khẩu cũng không hiểu được nhiều lắm, chỉ có thể minh bạch được sáu bảy phần, trong lòng chàng vô cùng kinh ngạc, “Cái bang là đệ nhất đại bang trên giang hồ, lại có nhân vật lợi hại nào đám đối nghịch với bọn họ? Hơn nữa Cái bang không ngờ lại phải triệu khai đại hội, dùng toàn lực đối phó với hắn?”
Ba khiếu hóa tử tiếp tục đàm luận về nhân sự trong bang phái của bọn họ, Đoàn Khắc Tà không biết những người này, chàng nghe giang hồ thiết khẩu cũng phải cố gắng hết sức mới hiểu, lập tức không để tâm nghe nữa, trong lòng thầm nghĩ: “Hai vị lão tiền bối của Cái bang với phụ thân ta khi sanh tiền là hảo bằng hữu, giao tình của Cái bang với Kim Kê lĩnh cũng không phải chỉ một ngày. Nếu như bọn họ thực sự đụng phải cường địch, ta sao có thể rũ áo đứng nhìn được?”
Rồi chàng lại chuyển tâm niệm: “Cái bang cao thủ như mây, bọn họ lại không phát anh hùng thiệp nhờ người trợ sức, nếu như ta mạo muội đến nói rằng tương trợ, chỉ sợ ngược lại khiến cho các hóa tử trong bang hiểu lầm rằng ta đã coi thường Cái bang bọn họ. Bản thân ta, chuyện của chính mình còn lo chẳng được, sao lại dám quản chuyện của người khác nhiều như vậy? Ôi, hôm nay Nhược Mai cùng với ta chia tay đã trở thành đại cục, bảo ta làm sao quay về ăn nói với Thiết đại ca đây?”
Chàng nhớ đến Thiết Ma Lặc, đột nhiên lại nhớ đến một việc liên quan giữa Thiết Ma Lặc với Cái bang, việc này đúng là có quan hệ với việc tháng trước Kim Kê lĩnh triệu khai anh hùng đại hội. Lần đó mục đích của anh hùng đại hội là để bầu ra Lục lâm Minh chủ, đến tám chín phần người được mời đến đều là nhân vật lục lâm. Cái bang không phải lục lâm, đối với việc lục lâm tuyển chọn Minh chủ khả dĩ là việc bên ngoài. Bất quá bởi vì trên giang hồ, Cái bang là đệ nhất đại bang hội, cùng với các nhân vật đầu não trong giới lục lâm đều có ít nhiều uyên nguyên, nhất là giao tình với Thiết Ma Lặc lại đặc biệt thâm hậu, cho nên người chủ trì đại hội đã gửi anh hùng thiệp đến Cái bang từ rất sớm, mời Tiêu bang chủ và mười mấy thuộc hạ đầu não của y, hơn nữa bên trong còn ước định, đến lúc đó thỉnh Tiêu bang chủ lấy thân phận là người thứ ba đứng ra làm tổng trọng tài cho đại hội, nếu như có xảy ra tranh chấp thì sẽ do y là người quyết định cuối cùng. Có thể nói Cái bang đã được kính trọng vô cùng.
Vậy mà đến khi đại hội, không thấy Cái bang Tiêu bang chủ đến, thủ hạ của y gồm bốn vị trưởng lão, tám vị Hương chủ cũng không có người nào đi phó hội. Cứ như với quan hệ giữa Cái bang và lục lâm, hơn nữa là giao tình của Tiêu bang chủ với nhóm người Tân Thiên Hùng, Thiết Ma Lặc, theo lý mà nói nếu Bang chủ không có thời gian đến thì cũng phải phái người đến chúc mừng, nhưng thực tế lại diễn ra như vậy. Cái bang một người cũng không đến! Quần hào lục lâm thảy đều kinh ngạc vô cùng. Thiết Ma Lặc vốn định phái người đến Cái bang hỏi thăm nhưng vì lúc đó lại phát sinh việc quan quân tấn công Kim Kê lĩnh, các lộ anh hùng đều tan tác, Thiết, Mưu hai người lại có rất nhiều việc cần làm để khắc phục hậu quả nên việc đến thăm hỏi Cái bang cũng đành phải tạm hoãn lại.
Nghĩ đến chuyện này, Đoàn Khắc Tà không khỏi động niệm trong lòng: “Đúng ra Thiết, Mưu hai vị đại ca phải biết tin tức của Cái bang. Hôm nay Cái bang cử hành đại hội tại đây, ta vừa hay gặp dịp này, chi bằng ta thay Thiết đại ca đi một chuyến”.
Chàng từ nhỏ đã được sự dạy dỗ của sư phụ, tính tình sảng khoái hào tình, mặc dù mới vừa rồi còn thất ý, tâm tình khó tránh khỏi sầu muộn, thế nhưng lúc này nghĩ đến đại sự cần thu xếp, thất ý nhất thời cũng đều dẹp khỏi đầu.
Ba tay khất cái kia uống sạch sành sanh một bình rượu lớn liền lau mép rời đi. Đoàn Khắc Tà đợi bọn họ đi một đoạn thì cũng đứng lên trả liền, chủ quán xin lỗi nói:
“Khách quan, người hôm nay đến vừa gặp lúc Cái bang mở hội, tiểu điếm phải phục vụ cho nhiều hóa tử đại gia, đối với khách quan chiêu đãi không được chu toàn, mong được thứ tội”.
Đoàn Khắc Tà đáp:
“Bất tất phải khách khí, ta hết bao nhiêu tiền?”
Chủ quán đáp:
“Thịt bò một cân, rượu hai cân, làm ơn cho xin bảy tiền năm phân bạc”.
Đoàn Khắc Tà đang lúc lấy tiền ra trả, ánh mắt chợt liếc thấy trên mặt đất có một chiếc bao gai. Đây là một bao gạo, đựng đầy vừa đúng mười cân. Nguyên lai tiệm gạo của tiểu trấn nhỏ thế này đa phần đều là mua của các tiểu hộ ở quanh vùng phụ cận, nhiều năm qua lại tín nhiệm lẫn nhau, những khách buôn và các gia đình này có thói quen mỗi lần mua bán mười cân, cho nên các tiệm gạo đều dự trữ bao đựng gạo cho vừa vặn, khi giao dịch sẽ bớt phiền hà. Quán rượu nhỏ ven đường này mỗi sớm đều phải nấu một nồi cháo, vừa vặn cũng dùng bao gạo mười cân.
Chủ quán sau khi đổ hết gạo vào nồi, tiện tay rũ sạch bao gạo rồi ném sang một bên. Đoàn Khắc Tà trong lòng động niệm, chàng lấy ra một lượng bạc cười nói:
“Điếm gia, chiếc bao này ngươi nhượng lại cho ta có được không. Một lượng bạc này không cần phải thối lại”.
Loại bao gai thô này vốn không phải là thứ gì đáng giá, tối đa cũng không quá vài phân bạc, tiền cơm rượu của Đoàn Khắc Tà bất quá chỉ bảy tiền năm phân, một lượng bạc này không cần thối lại chỉ để đổi lấy chiếc bao tải, đối với điếm gia đương nhiên là quá có lợi rồi.
Chủ quán ngẩn người ra, lão thấy có chút kỳ lạ liền hỏi:
“Khách quan, người cần cái bao gai này để làm gì?”
Đoàn Khắc Tà cười nói:
“Hôm nay hay nhất là ta làm hóa tử đại gia, ta mang chiếc bao gai này trên lưng để đến quán rượu phía trước ăn khiếu hóa kê”.
Chủ quán chỉ nghĩ là chàng còn đang tức giận, cuống quít nói:
“Khách quan chỉ nói đùa”.
Đoàn Khắc Tà cầm lấy bao gai vắt lên lưng nói:
“Bạc trắng ở đây, ai nói đùa với lão làm gì”.
Chủ quán kia thấy chàng nói rất nghiêm chỉnh liền có chút lo lắng, lão nói:
“Khách quan, người đừng gây náo loạn làm ra chuyện không may”.
Đoàn Khắc Tà để ngân lượng xuống nói:
“Ta cũng không phải ăn không khiếu hóa kê của lão, lão sợ gì chứ? Chỉ cần lão đừng nói với các hóa tử đại gia khác là được rồi”.
Đoàn Khắc Tà lại tiện tay lấy một nắm tro than, trát lên mặt vài cái, xé rách quần áo mấy chỗ. Chàng vốn đã đầy người bụi đất, trên lưng lại mang bao gai, quả nhiên khiến mình trông giống như một tiểu khất cái.
Trên đường có mấy tên khất cái hướng quán rượu này đi đến, Đoàn Khắc Tà nhìn chủ quán cười thấp giọng nói:
“Xin giúp đỡ, đừng làm lộ tung tích của ta”.
Đúng như chàng định liệu, chủ quán này nhát gan sợ chuyện, đương nhiên sẽ không dám vạch trần chân tướng, vì vậy chàng đóng giả bộ dáng say rượu, cao giọng xướng điệu liên hoa (điệu hát hoa sen) rồi bước ra khỏi cửa quán. Chàng trên lưng mang theo bao gai, cùng với các khất cái thông thường không sai biệt nhiều lắm, mấy tên khất cái kia chỉ nghĩ chàng là đệ tử phẩm cấp thuộc loại thấp nhất trong bang, quả nhiên không hề chú ý đến.
Chàng đi được một hồi, thấy các khiếu hóa tử trên đường ngày càng đông, Đoàn Khắc Tà cũng không nói lời nào, chàng yên lặng đi theo đám khiếu hóa. Đám khiếu hóa này đều là từ các nơi khác đến, tám chín phần là không quen biết nhau. Đoàn Khắc Tà trà trộn trong đám khiếu hóa cũng không có ai đặc biệt chú ý. Chàng đi ước chừng được một thời thần, cho đến gần giữa trưa thì tiến vào một sơn cốc.
Hai bên sơn cốc là đỉnh núi cao vút, gãy khúc đột ngột, vách núi dựng thẳng, đáy cốc là một khoảng đất rộng bằng phẳng, ở giữa có một tòa thạch đài, quần cái lần lượt dựa theo thứ tự hoặc ngồi hoặc đứng quây thành vòng xung quay thạch đài. Đoàn Khắc Tà lẫn trong đám tiểu hóa tử phẩm cấp thấp nhất, đứng ở tận vòng ngoài cùng, sát bên cạnh vách núi.
Đệ tử Cái bang ở các nơi lũ lượt tiến vào trong sơn cốc, đến chính Ngọ thì ước chừng người đến nữa cũng không nhiều rồi dần dần thưa thớt đi. Lúc này khắp sơn cốc đều là khất cái, thế nhưng trên đài lại hoàn toàn không có một bóng người.
Vài tên khất cái bên cạnh Đoàn Khắc Tà nói:
“Uy, kỳ lạ thật, sao Bang chủ vẫn còn chưa đến?”
Đoàn Khắc Tà từ câu chuyện của bọn họ sớm đã biết đại hội lần này nguyên là định đúng chính ngọ thì khai hội, bây giờ mặt trời đã quá ngọ mà Bang chủ vẫn chưa xuất hiện, không khỏi khiến cho đệ tử Cái bang kinh nghi, đoán già đoán non. Với không khí như vậy, Đoàn Khắc Tà cũng có chút lo lắng bất an.
Một lát sau, thanh âm thì thào nghị luận của quần cái càng ngày càng lớn, chợt thấy một lão khiếu hóa lưng mang túi màu vàng có thắt miệng nhảy lên thạch đài, lão vỗ vỗ hai tay cao giọng nói:
“Bang chủ sẽ không đến nữa!”
Khi lão nói những lời này, thanh âm đầy bi phẫn, những người ngồi phía trước thạch đài có thể nhìn thấy trong hốc mắt lão lệ châu đang ứa ra! Lời này vừa nói ra, quần cái nhất thời xao động:
“Bang chủ hiện tại đang ở đâu?”
“Người vì sao lại không thể đến đây?”
“Có phải là đã có chuyện gì xảy ra?”
Lão khất cái này là người đứng đầu Tứ đại trưởng lão của Cái bang, địa vị chỉ sau Bang chủ, lão hai tay án xuống, trấn áp tiếng ồn ào của quần cái rồi cất giọng bi thiết nói:
“Đây là tin tức tối bất hạnh, chúng ta sẽ không thể nhìn thấy Bang chủ nữa, Bang chủ... người..., người đã quy tiên rồi!”
Lời này vừa thốt ra, toàn tràng liền chấn động, có người khóc lóc, có người kêu thảm:
“Nửa tháng trước ta vẫn còn nhìn thấy Bang chủ, cũng không nghe thấy Bang chủ có bệnh gì, tại sao lại đột nhiên quy tiên như vậy”.
“Rốt cuộc Bang chủ chết như thế nào, mau nói, mau nói ra!”
Lão khất cái kia gọi:
“Vũ Văn Thùy, ngươi lên đây tường trình lại cho các huynh đệ nghe một chút”.
Một hóa tử lệ rơi đầy mặt bước lên thạch đài, xem ra tuổi y cũng mới hơn hai mươi, mi thanh mục tú, quần áo cũng chỉ có mấy chỗ vá, nếu như không phải y xuất hiện trong đại hội Cái bang thì cũng thực không nhìn ra y lại là một tên khất cái.
Đoàn Khắc Tà thấp giọng hỏi:
“Y là ai vậy?”
Tên khất cái bên cạnh đáp:
“Đến y là ai mà ngươi cũng không biết hay sao, y chính là đại đệ tử của Bang chủ chúng ta, những năm gần đây có rất nhiều chuyện trong bang đều là do y hỗ trợ xử lý”.
Đoàn Khắc Tà nói:
“Ta là đệ tử mới sơ nhập bang”.
Tên khất cái kia cũng cảm thấy có chút kỳ quái, thế nhưng lúc này hắn đang để hết tinh thần chăm chú muốn nghe xem Vũ Văn Thùy nói gì, cho nên không có thời gian để vặn hỏi Đoàn Khắc Tà.
Chỉ thấy Vũ Văn Thùy nâng cây trúc trượng màu bích lục lên, đột nhiên lại cất tiếng khóc lớn. Cây trúc trượng này chính là pháp trượng của Cái bang, quần cái trông thấy tình cảnh y như vậy, trong lòng đều đã minh bạch, liền thi nhau hỏi:
“Nói nhanh, nói nhanh, Bang chủ bị ai hại chết?”
Đổng trưởng lão kia cũng khuyên nhủ:
“Vũ Văn Thùy, thương lượng đại sự là khẩn yếu, ngươi đừng chỉ có khóc nữa”.
Vũ Văn Thùy lau nước mắt, y cắn răng, trầm giọng nói:
“Bang chủ bị Tần Tương và Uất Trì Bắc hai tên cẩu quan đó hại chết!”
Vũ Văn Thùy nói ra danh tự của hai người này, tràng diện vốn đang hò hét nhốn nháo ngay lập tức lại trở lên lặng ngắt như tờ, tựa hồ một chiếc kim rơi xuống cũng nghe thấy. Qua một hồi lâu thânh âm mới đột nhiên vỡ ra:
“A..., chà chà, là bọn hắn? Là bọn hắn sao?”
Tựa hồ mọi người đều cảm thấy việc này xảy ra rất ngoài dự ý.
Nên biết Tần Tương, Uất Trì Bắc hai người chính là chánh, phó thống lĩnh vũ lâm quân, bọn họ làm quan trong triều cùng với Cái bang nước sông không phạm nước giếng, không có ân oán gì, Vũ Văn Thùy lại nói Bang chủ bị bọn họ hại chết nên đệ tử Cái bang mọi người đều thấy kỳ lạ.
Đoàn Khắc Tà lại càng nghi ngờ, “Tần Tương là người lỗi lạc, hào khí can vân, đối với hào kiệt giang hồ đều yêu mến, che chở giúp đỡ, lần này mặc dù y mang vũ lâm quân công phá Kim Kê lĩnh, nhưng cũng là bị thượng lệnh ép buộc, thân bất do kỷ. Hơn nữa, y đối với Thiết đại ca cũng vẫn còn ngầm lưu tình. Y là người như vậy thì sao lại tự dưng đi hại Bang chủ Cái bang được? Uất Trì Bắc cũng là một hán tử sảng khoái chính trực, theo lý cũng không hạ độc thủ như vậy? Hơn nữa khi Vũ Văn Thùy nói Bang chủ bị hại, hai người bọn họ lại ở cùng một nơi, cho dù Uất Trì Bắc tính tình táo bạo nhưng chẳng lẽ Tần Tương lại không ngăn cản y?”
Chỉ là cho dù đệ tử Cái bang đều thấy kinh dị nhưng Vũ Văn Thùy lại là đệ tử tâm phúc luôn luôn theo bên cạnh Bang chủ, hắn đã nói như vậy thì không thể không tin. Cho nên có người phẫn kích, mắng lớn Tần Tương là mua danh trục lợi, thật là mặt người dạ thú. Lại có người ưu sầu vìTần Tương, Uất Trì Bắc nắm trong tay vũ lâm quân tinh nhuệ nhất của triều đình, thù này làm sao có thể báo được? Có người lại cảm thấy chuyện này xảy ra rất khó hiểu, mặc dù không dám không tin nhưng cũng muốn hỏi cho rõ sự tình.
Vũ Văn Thùy chờ cho hỗn loạn lắng xuống mới nói:
“Mười sáu tháng trước, Bang chủ nhận được thiếp mời của Tần Tương, muốn người đến Trường An thương lượng một việc. Bang chủ dẫn ta cùng đi”.
Mọi người đều biết Tần Tương đang trù bị mở anh hùng đại hội, có nhiều người thầm nghĩ:
“Hắn và Bang chủ thương lượng việc này, chẳng lẽ hắn vì Bang chủ không chịu giúp đỡ mà giết người?”
Vũ Văn Thùy biết được tâm tư mọi người đang nghĩ gì, y nói:
“Lúc đầu Bang chủ cũng nghĩ là có quan hệ đến việc Tần Tương muốn triệu khai anh hùng đại hội, nhưng sau khi gặp Tần Tương mới biết là không phải”.
Những trưởng lão và các Hương chủ đều gật đầu, trong lòng nghĩ: “Không sai, Tần Tương quyết không vì việc thương lượng anh hùng đại hội mà ra tay hạ độc thủ”. Nguyên lai là sau khi nghe phong thanh chuyện Tần Tương muốn triệu khai anh hùng đại hội, Tiêu Cố cùng bốn trưởng lão và tám Hương chủ sớm đã họp nhau thương lượng quyết định thái độ của Cái bang: không ép buộc các đệ tử trong bang, tham gia cũng được, tùy nghi nghe ngóng, toàn bộ thông tri đến các hương đường, nếu như có đệ tử nào đến thỉnh thị thì mang chủ ý này nói cho bọn họ biết. Đệ tử Cái bang đi xin ăn tứ phương, lại quen không có phép tắc gì, vốn không có mấy người muốn tham gia anh hùng đại hội, cho nên đến hương đường các nơi hỏi về việc này cũng không có mấy ai. Hôm nay hội họp mọi người, tuyệt đại đa số đều không biết trong bang sớm đã có quyết định này.
Có người hỏi:
“Cũng không phải vì việc này, thế thì vì cái gì?”
Vũ Văn Thùy nói:
“Đó là vì Tần Tương không cho đệ tử Cái bang đặt chân đến Trường An! Tần Tương vừa thấy mặt Bang chủ đã nói: ‘Tiêu bang chủ, hoan nghênh ngươi đã tới nhưng ở Trường An này dù là tiểu hóa tử hay đại hóa tử đều là thứ ta rất chán ghét!”
Quần Cái huyên náo sôi sục, thi nhau mắng chửi:
“Lý nào lại như vậy? Từ xưa đến nay, khiếu hóa tử đi xin ăn khắp thập phương, Tần Tương là cái giống gì dám cấm chúng ta đến Trường An?”
“Tần Tương là thống lĩnh của vũ lâm quân thì sao? Vũ lâm quân nghe hắn quản, nhưng hắn không thể trèo lên đầu mà quản chúng ta!”
Từ trong bốn vị trưởng lão, Từ trưởng lão nói:
“À, nguyên lai là hắn đề cập đến chuyện cũ, chuyện này trước kia không phải sớm đã bàn thảo xong rồi sao? Chẳng lẽ đệ tử bổn bang tại kinh thành lại gây ra náo loạn gì? Vi hương chủ đâu?”
Một tên khất cái lưng đeo bao bố màu vàng bước ra nói:
“Vi hương chủ không biết hạ lạc nơi nào. Đệ tử bổn bang ở kinh thành ngẫu nhiên trộm gà cướp chó, chuyện nhỏ này là có thật. Còn những chuyện lớn thì từ hai ba năm nay chưa hề phạm qua”.
Viên khất cái này chính là Phó hương chủ hương đường Cái bang Trường An, Từ trưởng lão hỏi Vi hương chủ tức là chánh Hương chủ. Từ trưởng lão cả kinh hỏi lại:
“Vi hương chủ thất tung sao? Phát giác khi nào? Nội tình ra sao?”
Phó hương chủ kia đáp:
“Sau ngày mười tám tháng trước thì không thấy Vi hương chủ đâu, các huynh đệ hoài nghi y bị vướng vào vòng lao lý”.
Mã trưởng lão kia nói:
“Còn hỏi cái gì nữa, nhất định là bị Tần Tương sau khi sát hại Tiêu bang chủ, tiếp theo lại hạ độc thủ với Vi hương chủ”.
Nguyên lai là sau khi Tiêu Cố chấp chưởng Cái bang, bang quy buông lơi, một số nơi khác còn hoàn toàn bãi bỏ. Trường An là kinh đô, sứ giả, thương nhân các nước ở Trường An nhiều không biết bao nhiêu. Mỡ để miệng mèo, những đệ tử Cái bang này tại Trường An trộm gà cướp chó, cướp giết thành ác, thậm chí đả thương người lấy đồ, mỗi ngày đều gây ra tám, mười vụ án tử, quan trên nghe thấy không thể không lý tới. “Na kinh triệu doãn” (chức trưởng quan coi quản hành chính của kinh đô) biết Tần Tương cùng các bang hội giang hồ vẫn có qua lại nên thỉnh cầu Tần Tương xuất đầu yêu cầu Bang chủ Cái bang quản thúc đệ tử ở Trường An. Lúc đó, “Na kinh triệu doãn” quả thực đã từng đề cập qua vấn đề này: Tốt nhất là trục xuất tất cả đệ tử Cái bang khỏi Trường An, về phần những ăn mày thông thường ở Trường An, chỉ cần bọn họ không làm chuyện náo loạn thì sẽ không trục xuất. Sau đó Tần Tương và Tiêu Cố thương lượng, Tiêu Cố cam kết có thể ra lệnh cho các Hương chủ Cái bang ở Trường An tăng cường quản thúc nghiêm ngặt đệ tử, nếu có đệ tử Cái bang phạm pháp sẽ mặc cho quan phủ xử lý, Cái bang quyết không xen vào. Thế nhưng muốn trục xuất khỏi Trường An thì vạn vạn lần không được. Tần Tương đồng ý với biện pháp này, chuyện cũng đã trở thành quá khứ.
Các vị chức sắc cao trong Cái bang đều đã nghe qua chuyện này nên đối với lời nói của Vũ Văn Thùy cũng không chút hoài nghi, người người đều chửi Tần Tương, nói y vi phạm hiệp nghị, cậy thế khi dễ Cái bang.
Quần Cái mắng chửi một hồi, lửa hận phát tiết ít nhiều, mới yên lặng tiếp tục nghe Vũ Văn Thùy báo cáo. Vũ Văn Thùy nói:
“Tần Tương muốn trục xuất đệ tử Cái bang ra khỏi Trường An, Bang chủ dĩ nhiên không chịu đáp ứng. Uất Trì Bắc mới bước ra nói: ‘Ngươi không chịu đáp ứng, vậy ngươi hãy lưu lại Trường An, bất tất phải trở về nữa!’ Hai người một lời không hợp, thế là động thủ. Tiêu bang chủ cùng với hắn ước định, nếu như Tiêu bang chủ thua thì trong thời hạn ba tháng, đệ tử Cái bang toàn bộ sẽ rút khỏi Trường An, còn nếu như Uất Trì Bắc thua thì sẽ không được quản đến chuyện của Cái bang nữa. Bọn họ hai người ác đấu đến nửa ngày, võ công của Bang chủ tịnh không thua kém hắn nhưng người lại nhiều tuổi hơn, khí lực không bằng, cuối cùng bị Uất Trì Bắc một chưởng đả thương”.
Từ trưởng lão hỏi:
“Tần Tương kia đâu? Uất Trì Bắc đánh thương Bang chủ mà hắn không ra tay ngăn trở sao?”
Vũ Văn Thùy đáp:
“Tần Tương còn ở bên ngoài khen hay!”
Mã trưởng lão cười lạnh nói:
“Tần Tương mời Bang chủ chúng ta lên kinh, vốn đã không có hảo ý, ai mà không biết hắn với Uất Trì Bắc tình như huynh đệ, theo ta thấy, chuyện lần này chín phần là do bọn hắn dự mưu, Tần Tương động khẩu còn Uất Trì Bắc động thủ, ngươi vẫn còn xem Tần Tương là người tốt hay sao?”
Từ trưởng lão trong lòng vốn có chút hoài nghi nhưng lúc này lòng người đang sôi sục, đều chửi mắng Tần Tương và Uất Trì Bắc nên cũng không dám nhiều lời.
Mã trưởng lão nhảy lên thạch đài lớn tiếng hô:
“Bang chủ bất hạnh bị hại, thù này đương nhiên phải báo. Thế nhưng chúng ta trước tiên phải lập ra tân Bang chủ, sau đó mới thương lượng đại kế. Vũ Văn Thùy, người mang di mệnh của Bang chủ nói ra đi”.
Vũ Văn Thùy lúng túng nói:
“Người mang pháp trượng giao lại cho ta, điều này, điều này.... ta thật sự hoảng sợ không yên”.
Mã trưởng lão nói:
“Bang chủ lựa chọn ngươi giao phó, ngươi lại chối từ ư?”
Từ trưởng lão đột nhiên hỏi:
“Vũ Văn Thùy, Bang chủ giao pháp trượng cho ngươi có nói rõ ràng là muốn ngươi kế nhiệm chức Bang chủ không?”
Vũ Văn Thùy đáp:
“Người phân phó là như vậy, thế nhưng ta tuổi hãy còn trẻ, kiến thức nông cạn không dám đảm đương”.
Mã trưởng lão thần sắc không vui, lạnh lùng nói:
“Từ trưởng lão, ngươi hỏi câu này là có ý gì, pháp trượng của Bang chủ đã giao cho hắn chả lẽ lại là giả sao?”
Từ trưởng lão đáp:
“Việc lập Bang chủ không phải chuyện nhỏ, xin thứ lỗi cho lão hủ còn phải hỏi vài câu nữa. Bang chủ giao pháp trượng cho ngươi, muốn ngươi kế nhiệm, lúc đó ngoài ngươi ra bên cạnh còn có ai không?”
Những lời này hiển nhiên đã thổ lộ lão không tin tưởng lắm vào lời nói của Vũ Văn Thùy.
Vũ Văn Thùy gạt lệ đáp:
“Lúc ấy Bang chủ trọng thương, ta dìu người quay trở lại, hơi thở của người đã yếu ớt, người mang pháp trượng giao cho ta nói vài câu đó rồi đoạn khí”.
Từ trưởng lão hỏi:
“Nói như vậy là lúc đó không có người ngoài?”
Vũ Văn Thùy đáp:
“Có, nhưng đó chỉ là người đi đường, những huynh đệ mà Vi hương chủ phái đến vẫn chưa tới”.
Mã trưởng lão đột nhiên lớn tiếng quát:
“Từ trưởng lão, ngươi xét hỏi như vậy, không phải là quá thất lễ với tân Bang chủ sao, đối với lão Bang chủ đã qua đời cũng có lỗi. Người không may bị hại, ngươi không nhanh chóng báo thù cho người, ngược lại còn hoài nghi di mệnh của người, ngươi tính làm gì vậy?”
Từ trưởng lão nói:
“Nếu như Bang chủ xác thực có di mệnh này, ta đương nhiên sẽ tuân theo. Thế nhưng di mệnh này trước mắt còn chưa được chứng thực hoàn toàn, chúng ta sao có thể chỉ nghe lời một phía?”
Theo như ý lão, nếu Vũ Văn Thùy không tìm ra người thứ hai làm chứng, lão sẽ tuyệt không chịu thừa nhận.
Vũ Văn Thùy trợ giúp Tiêu Cố lo việc trong bang đã mấy năm, hắn lại là đại đệ tử tâm ái của Tiêu Cố, mặc dù lịch duyệt còn kém nhưng Tiêu Cố truyền ngôi cho hắn cũng là việc hợp tình hợp lý. Người trong bang phần lớn đều không hoài nghi nhưng vị Từ trưởng lão này lại là bậc lão thành luôn được ca tụng là cẩn trọng, trong bang lại có uy vọng. Lão vừa mới xuất đầu, quần cái đối với Vũ Văn Thùy liền nảy sinh nghi hoặc. Cũng may là lão nói thì Mã trưởng lão mới không dám mắng là vô lý làm loạn.
Trong bang, kẻ có tư cách kế nhiệm chức Bang chủ có mấy người, nhất thời nghị luận lại nổi lên. Có người nói pháp trượng của Bang chủ nếu đã giao cho Vũ Văn Thùy thì phải ủng hộ Vũ Văn Thùy, có người lại lấy lý do giông Từ trưởng lão, cho rằng di mệnh nếu không thể được chứng thực, Bang chủ phải do mọi người bầu chọn.
Mã trưởng lão vỗ tay ba cái rồi đứng trước đài nói:
“Khi Bang chủ lâm chung, ta mặc dù không có ở đấy nhưng Bang chủ sinh tiền sớm đã có an bài chọn người kế nhiệm. Trong mắt người đã chọn được ai, bất quá cũng không phải nói rõ ràng ra nữa”.
Hình đường chủ Thạnh Viên cũng nói:
“Không sai, ta nhớ Bang chủ đã đề bạt Vũ Văn huynh đệ. Khi người gọi y trợ giúp quản việc trong bang đã từng nói: ‘Sự vụ của bang rất phức tạp, chức Bang chủ này cần phải có người tuổi trẻ lực cường, tinh minh mới có thể đảm đương tốt được’. Khi đó người đã có ý thoái lui, chỉ là Vũ Văn huynh đệ chưa được chín chắn cho nên mới muốn y trợ giúp bang vụ để học hỏi kinh nghiệm. Từ những lời này của Bang chủ, có thể thấy rằng người xác thực có ý chọn Vũ Văn huynh đệ kế nhiệm chức Bang chủ không còn nghi ngờ gì”.
Từ trưởng lão cũng đứng lên nói:
“Không sai,chuyện này đúng là Bang chủ đã từng nói qua. Thế nhưng Bang chủ cũng từng nói một câu khác nữa. Có một lần người và chúng ta đàm luận về nhân tài trong bổn bang, cho rằng đứng đầu là Thạch sư đệ của người, đáng tiếc người sư đệ này tính khí quật cường, năm đó cùng với người nhất thời lời nói không hợp liền bỏ đi Giang Nam, đoạn tuyệt không thăm hỏi. Khi Bang chủ nói đến chuyện này đã rất hối hận, người từng có lời rằng, nếu như sư đệ của người quay trở lại, người nguyện ý lập tức nhường lại chức vị cho y. Khi Bang chủ nói lời này, Mã trưởng lão, Lưu trưởng lão, Cổ hương chủ, Thạch hương chủ, Hàn hương chủ các vị đều có mặt tại hiện trường”.
Nguyên lai sư đệ của Tiêu Cố tên gọi là Thạch Thanh Dương. Đồng môn huynh đệ của Tiêu Cố có bốn người, Tiêu Cố là lớn nhất, Thạch Thanh Dương là nhỏ nhất, so với Tiêu Cồ kém hơn hai mươi tuổi. Thế nhưng trong bốn người y lại là người có võ công cao nhất, xuất đạo chưa lâu đã được xưng là Thần Chưởng Cái Hiệp, đa mưu quyết đoán, không những Tiêu Cố tự than không bằng mà trong bang cũng không có người nào sánh kịp. Chỉ vì khi Bang chủ đời trước qua đời y vẫn chưa trưởng thành, hai vị nhị tam sư đệ của Tiêu Cố thì chết sớm, cho nên mới đến phiên Tiêu Cố lên kế nhiệm. Năm năm trước Thạch Thanh Dương đột nhiên biến mất, có người nói là do y và sư huynh bất hòa cho nên đã đến tận Giang Nam, thế nhưng rốt cuộc nguyên nhân tại sao mà bất hòa thì mọi người đều không rõ.
Mã trưởng lão nhíu mày nói:
“Từ trưởng lão, ngươi không phải đang nói nhảm sao? Thạch Thanh Dương sớm đã không biết đi đâu, chức vị Bang chủ sao có thể để không mãi?”
Từ trưởng lão đáp:
“Không hẳn vậy, Thạch Thanh Dương năm đó mặc dù bất hòa với Bang chủ nhưng hôm nay sư huynh của y bị ngộ hại, y nếu biết được tin tức nhất định sẽ quay về. Huống chi đệ tử Cái bang chúng ta rải rác khắp thiên hạ, vị tất không nghe được tin tức của y”.
Mã trưởng lão phật ý không vui, lão lớn tiếng nói:
“Báo cừu cho Bang chủ, không thể trì hoãn một khắc nào! Nếu không lập tức lập Bang chủ, quần long vô thủ, thù này làm sao có thể báo được?”
Phó hương chủ Trường An là Dương Chấn Hùng cũng nói:
“Lời của Mã trưởng lão rất hữu lý, việc báo cừu thật sự không nên trì hoãn quá lâu. Hơn nữa theo như ta được biết, Vũ Văn huynh đệ cũng đã có kế sách báo cừu”.
Lời này vừa nói ra, quần cái tất thảy đều rúng động, có người kêu lên:
“Có diệu sách gì, mau nói ra!”
Vũ Văn Thùy ở trên đài vẫn im lặng không lên tiếng. Mã trưởng lão nói:
“Nơi đây mặc dù tất cả đều là đệ tử Cái bang, nhưng nhiều người lắm miệng, nếu có kế sách mà nói ra thì khó mà bảo toàn không tiết lộ ra ngoài. Theo ý ta, vẫn là định chức Bang chủ, rồi sau đó do Bang chủ triệu tập các trưởng lão, các Hương chủ bố trí chuyện phục cừu là hay hơn cả!”
Quần cái đều chí thiết phục cừu, mặc dù còn có một số người không thuận theo Vũ Văn Thùy nhưng đại địch trước mắt cũng không dám tranh cãi. Tức thì, một lời của Mã trưởng lão đã quyết, định Vũ Văn Thùy lên nhận chức vị Bang chủ.
Tứ đại trưởng lão, bát vị Hương chủ đều tiến lên tham kiến. Vũ Văn Thùy nói:
“Tiểu điệt tài hèn đức mỏng, tuy có di mệnh của Tiêu bang chủ, vốn cũng không dám tiếp nhận chức vị này. Thế nhưng các vị đã ký thác trách nhiệm đại nghĩa báo cừu, tiểu điệt không làm gì khác hơn được đành cố sức gánh vác công việc khó khăn, tạm thời tiếp nhận chức Bang chủ. Chỉ chờ khi Thạch sư thúc trở về, tiểu điệt sẽ lập tức nhường ngôi vị lại cho người hiền”.
Mã trưởng lão nói:
“Bang chủ muôn người trông cậy há có thể tùy tiện nhường lại sao? Đừng nói là Thạch Thanh Dương không biết đi đâu, cho dù hôm nay hắn quay lại cũng chỉ có thể nghe theo sự phân phó của Bang chủ, Bang chủ không cần phải khiêm tốn, cấp tốc thương lượng đại kế phục cừu là chuyện hệ trọng hơn”.
Các nhân vật đầu não của Cái bang, bao gồm các vị trưởng lão, các vị Hương chủ và hơn mười đệ tử túi vàng đều tiến lên thạch đài vây quanh ép Vũ Văn Thùy ngồi xuống. Các đệ tử túi màu lam vốn là các khiếu hóa phẩm cấp thấp đều tự tản ra. Mã đà chủ Phân đà Phách Huyền (cháu của Mã trưởng lão) lấy thân phận chủ nhân chiêu đãi cơm rượu.
Vũ Văn Thùy nói:
“Tần Tương, Uất Trì Bắc hai người này làm Đô úy của triều đình, tay nắm binh quyền, chỉ với lực lượng của Cái bang thì việc báo cừu đích thực không dễ. Cũng may bổn bang nhận được nhiều sự trợ giúp, các bằng hữu nguyện ý vì bổn bang ra sức cũng có rất nhiều ở....”
Từ trưởng lão ngẩn người hỏi:
“Bang chủ, ý của người là muốn thỉnh ngoại nhân tương trợ sao?”
Lời nói còn chưa dứt, đã chợt nghe tiếng Mã đà chủ cao giọng thông báo:
“Có khách nhân đến!”
Chỉ thấy có một đoàn người, khoảng sáu bảy người dưới sự dẫn lĩnh của Mã đà chủ nối đuôi nhau đi vào. Người đi đầu tướng mạo cổ quái, miệng nhọn mặt dài, trông hoạt kê như một con khỉ.
Đoàn Khắc Tà lấy làm kinh ngạc, nguyên lai người này không phải ai xa lạ mà chính là nhị sư huynh Tinh Tinh Nhi. Năm đó Tinh Tinh Nhi phản bội sư môn, trở mặt đầu nhập làm môn hạ của Chuyển Luân Pháp Vương. Không Không Nhi vâng lệnh sư mẫu, trong vòng ba năm phải bắt sống Tinh Tinh Nhi quay về. Thế nhưng Không Không Nhi quá trọng tình, đối với chi mệnh của sư mẫu cũng chỉ làm qua loa, hoàn toàn chưa tận tâm, ba năm trôi qua vẫn nói là chưa tìm được nên sư mẫu cũng vô phương. Bất quá mấy năm nay Tinh Tinh Nhi cũng không dám xuất đầu lộ diện. Thật không ngờ đến hôm nay hắn lại dám nghêng ngang đến làm thượng khách của Cái bang.
Đoàn Khắc Tà thầm nghĩ:
“Chẳng lẽ sư mẫu ta đã qua đời rồi sao? Uy, mà hắn và Cái bang không có giao tình gì, sao hôm nay đột nhiên lại tới đây”.
Chàng sợ Tinh Tinh Nhi nhận ra mình, đôi bên đều ngại ngùng, vì vậy mà lặng lẽ trốn sang một bên, trà trộn trong đám quần cái ăn uống.
Vũ Văn Thùy tự thân ra nghênh tiếp, Tinh Tinh Nhi ha hả cười nói:
“Cung hỉ, cung hỉ, Vũ Văn huynh tuổi trẻ tài cao, Bang chủ Cái bang thật khiến người muốn đến chúc mừng. Ta đặc biệt mời vài vị bằng hữu cùng đến đây chúc mừng. Vị này là Kỳ Sơn Bộc Dương Hầu, vị này là Vân Mộng Liễu Văn Tương, vị này là U Châu Hề Bỉnh Đạt...”
Hắn nhất nhất giới thiệu một loạt, mỗi tên đều là ma đầu trên giang hồ tiếng xấu truyền xa.
Từ trưởng lão mất hứng nghĩ thầm:
“Nguyên lai là Vũ Văn Thùy chưa tiếp nhận chức Bang chủ đã mời trước Tinh Tinh Nhi đến làm thượng khách. Hừ, hừ, còn mời mọc một đám tà ma thổ phỉ đến đây!”
Đúng là:
Vẫn còn nghi án chưa xem rõ
Đã kéo quần ma tới đảo điên.
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Khiếu hóa kê: món “gà ăn mày”,dùng nguyên một con gà được làm sạch rồi nhồi nấm, rau và thịt heo, phết lên trên da một lớp hỗn hợp tương và giấm rồi bọc lại bằng lá sen, sau đó trát kín bùn và đem nướng. Đây là món ăn đặc biệt được người Trung Quốc ưa thích và đã xuất hiện trong rất nhiều tác phẩm kiếm hiệp.