Thiền định và quán tưởng luôn giúp bạn không còn nghĩ ngợi lung tung, sẽ giúp bạn bắt đầu một chuyến du hành trở về, sẽ chữa lành mọi vết thương. Bạn sẽ bắt đầu sử dụng tâm trí bị bỏ quên. Bạn sẽ nhìn thấy, sẽ thấu hiểu, và sẽ thông thái hơn. Lúc đó, bạn sẽ tìm thấy niềm thanh thản.
Trái tim chúng ta biết con đường đi đến hạnh phúc, và nội tâm thanh tịnh. Thực hành tâm linh như là thiền định, hay cầu nguyện sẽ nhắc nhở chúng ta về những điều chúng đã biết từ trước. Khi chúng ta quên lãng những lời nhắn trong tim và vấp ngã vào những vực thẳm của cuộc đời, chúng ta sẽ cảm thấy bất an, và đau khổ. Chúng ta thất vọng và lo lắng. Viễn cảnh của chúng ta mờ nhạt, những bức tranh vĩ đại mất hút, và chúng ta lạc lối.
Phương thuốc cứu chữa thật đơn giản. Hãy dành thời gian nhớ lại tính thánh thiện trong bạn, bản chất tâm linh trong con người bạn. Hãy nhớ lý do vì sao bạn có mặt trên thế gian này. Thiền định là một nghệ thuật hoặc phương pháp khiến tâm trí tĩnh lặng, để lắng yên mọi vọng tưởng. Trong tâm trí tĩnh lặng, người tham thiền bắt đầu trở thành người quan sát, đạt đến một mức độ buông bỏ tham chấp, và dần dần tỉnh thức sẽ đạt đến trạng thái cao hơn.
Bằng cách loại bỏ mọi vọng tưởng, thiền định nhắc nhở về những giá trị tâm linh cao hơn mà chúng ta đã học hỏi. Thiền định đều đặn để nhớ lại đều đặn. Chúng ta được nhắc nhở về bức tranh vĩ đại, về những điều quan trọng và không quan trọng đối với cuộc sống của chúng ta.
Cần rèn luyện và thực hành để loại bỏ khỏi tâm trí mọi vọng tưởng. Tôi phải thiền định mỗi ngày trong ba tháng ròng rã mới có khả năng đạt được tâm thức sâu lắng. Kiên nhẫn rất quan trọng, phải cố gắng tập trung khi bạn thực hành. Thành công trong thiền định không phải là chuyện trong chớp mắt.
Bạn không cần phải ngồi tòa sen mới thiền định được. Bạn có thể thiền bất kể lúc đi đứng nằm ngồi. Mục đích là để ngừng vọng tưởng, để quan sát và buông bỏ tham chấp, để có sức niệm và tỉnh thức.
Khi bạn tự tập tham thiền, bạn có thể khám phá ra sự hữu ích trong việc cố gắng quán tưởng cũng như thuật thôi miên. Trong cả hai phương pháp này, bạn đang lắng nghe giọng nói của người hướng dẫn, điều này giúp bạn dễ tập trung hơn.
Bất kể thiền định, quán tưởng hay bị thôi miên, bạn không bao giờ bị người nào khác điều khiển. Không có một sức mạnh nào thống trị được tâm trí hay cơ thể bạn. Bạn không phải bước vào cỗ máy thời gian. Bạn chỉ đơn thuần tập trung sâu lắng, và không hề có bất cứ nguy hiểm gì. Trong trạng thái này, bạn có thể chạm đến cấp độ cao hơn trong tỉnh thức, bạn có thể đánh thức bản chất thánh thiện trong con người bạn.
Đây là bản chất của thiền định. Mỗi bước bạn nhận được rất thiêng liêng, mỗi hơi thở bạn thở rất thánh thiện. Nếu bạn hiểu và thực hành những quy tắc này, bạn sẽ đạt được sức niệm, tỉnh thức của bạn sẽ thay đổi từ thấp đến viễn cảnh “khác” cao hơn. Bạn sẽ trở thành người biết quan sát, buông bỏ tham chấp, thoát khỏi sự phán xét.
Đó là những con đường đi đến giác ngộ.
Tôi thường thực hành bài tập gọi là “Đối mặt” trong các buổi hội thảo. Trong một gian phòng mờ tối, chỉ vừa đủ sáng, tôi cho mọi người ngồi từng cặp. Tôi đưa họ đi vào trạng thái thiền định thư giãn, rồi họ nhẹ nhàng nhìn vào mặt và cử chỉ của người đồng hành. Việc này mất khoảng năm, mười phút. Người thực hành bài tập này thường nhận được thông tin theo trực giác hoặc siêu linh về người khác. Những chuyện khác lạ xuất hiện.
Kết quả được nhiều hơn sự vặn vẹo của tri giác. Thông tin chính xác luôn được thu nhận.
Nếu bạn thử làm bạn sẽ thấy điều gì xảy ra.
Một buổi thực hành tại Boston, có hai phụ nữ ngồi thành đôi với nhau, một người ở Boston và người kia ở Milwaukee. Trước đây họ chưa từng gặp nhau, có vẻ họ ngẫu nhiên bắt đôi với nhau từ bảy trăm người tham dự.
Họ ngồi gần phía trước, cho nên tôi có thể nhìn thấy khuôn mặt họ vì mắt tôi quen nhìn dưới ánh sáng mờ tối. Vài giọt lệ chạy quanh đôi mắt người phụ nữ Boston.
Sau khi bài tập kết thúc, và sau khi từng nhóm nhỏ hai ba người rảnh rỗi xử lý cuộc trải nghiệm, chia sẻ cảm giác và sự quan sát của họ, tôi liền hỏi người phụ nữ đó liệu cô có thể kể cho chúng tôi nghe về cuộc trải nghiệm của cô không. Cô đồng ý.
– Tôi khóc vì vui mừng. Tôi nhìn thấy khuôn mặt anh trai tôi. Lâu lắm rồi tôi không còn gặp anh ấy.
Anh trai cô là lính, bị giết tại Pháp trong Thế Chiến thứ hai, lúc mới mười chín tuổi rưỡi. Người phụ nữ Milwaukee ngồi cặp với cô giành lấy micro:
– Hôm qua trong lúc ông đưa mọi người cùng du hành đi về quá khứ, tôi đã nhìn thấy mình là người lính mười chín tuổi rưỡi, bị chết tại Pháp trong Thế Chiến thứ hai.
Rồi cô miêu tả chính xác về cái chết, và về người anh trai của người ngồi cặp với mình. Nhiều người nổi da gà ngay lúc đó.
Sau này tôi biết rằng người phụ nữ Milwaukee được sinh ra cùng ngày với người lính chết tại Pháp.
Không hề có sự trùng hợp ngẫu nhiên thật sự.
Trong một buổi thực hành bài tập Đối Mặt tại New York, một người đàn ông Ấn Độ lớn tuổi bỗng dưng khóc vì hạnh phúc. Ông chợt nhìn thấy khuôn mặt Phật Bà trong khuôn mặt của người ngồi cặp, một thiếu nữ New England, người mà ông chưa từng gặp cho đến cách mười phút vừa rồi. Ông giải thích:
– Phật Bà cực kỳ hiếm có!
Rồi cô gái kể với chúng tôi rằng nhiều năm nay cô là thành viên trong một nhóm Phật tử thờ cúng Phật Bà.
Ý nghĩa của từ “trùng hợp ngẫu nhiên” có thể giúp chúng ta định hướng lại con đường của cuộc đời, một con đường mà ta đã chọn trước khi được sinh ra.
Tôi không biết lý do gì mà những buổi hội thảo tại Puerto Rico lúc nào cũng có sức lôi cuốn lạ lùng và rất nhiều những trải nghiệm huyền bí. Có lẽ, con người ở đó rất nhiệt tình, có tư tưởng phóng khoáng và sống thiên về tâm linh. Trong khán phòng chật cứng tại khách sạn Condado Plaza ở San Juan vào tháng Ba năm 1998, những điều huyền bí lại xảy ra.
Hai ngày trước buổi hội thảo, một phụ nữ trung niên, mà tôi không quen biết, đeo sợi dây chuyền có mặt hình con bướm rất đẹp, và luôn cầu nguyện cho đứa con trai đã chết cách đây mấy tháng.
Người mẹ đau khổ lẩm bẩm:
– Hãy cho mẹ một dấu hiệu, một lời nhắn. Mẹ sẽ biết đó là con nếu con cho mẹ dấu hiệu của con bướm.
Chỉ một thoáng trước khi chúng tôi bắt đầu buổi thực hành bài tập Đối Mặt, tôi kể cho khán giả nghe vài câu chuyện cảm động về con bướm, như một biểu hiện của linh hồn, biểu tượng mà trẻ em sắp chết, hoặc chúng biết mình sắp chết vẽ ra (chẳng hạn như vô số bức ảnh con bướm trong Trại Tập Trung ở Holocaust được các trẻ em đã chết vẽ ra), và những câu chuyện về bướm bay lượn lờ tại các đám tang. Tôi không hề có ý định kể những câu chuyện này trước đó. Ý tưởng nói chuyện về con bướm chợt nảy lên trong trí tôi và tôi bắt đầu nói về chúng.
Người mẹ đau khổ mỉm cười. Con trai bà đã gởi đến bà một lời nhắn. Tuy nhiên, điều hay nhất vẫn chưa xuất hiện.
Trong gian phòng hơi tối, chúng tôi bắt đầu bài tập. Tôi hướng dẫn từng nhóm chọn đối tác cho mình, người mà họ chưa từng gặp trước đây. Người ngồi cặp với bà mẹ đau khổ cũng là một phụ nữ trung niên, bà không hề tin rằng mình sở hữu khả năng siêu linh, bắt đầu nhận ra một linh hồn người thanh niên đứng phía sau mẹ anh ta. Bà miêu tả cho bà mẹ nghe về người thanh niên, đặc biệt những chi tiết về cuộc sống của anh ta, về cá nhân và những mối quan hệ.
Bà mẹ sững sờ, kích động, và thích thú. Bà tuyên bố:
– Tất cả những điều cô ấy nói đều đúng hoàn toàn! Cô ấy miêu tả thằng bé rất chính xác!
Gương mặt bà lúc này trông rất hớn hở. Tôi có thể nhìn thấy hơi thở của bà đã thay đổi, và đôi vai nhẹ tênh, như thể gánh nặng buồn đau đã nhẹ nhàng nhấc ra khỏi lưng.
Khi tôi hướng dẫn nhóm này theo nhiều cách để mở ra cho họ con đường đi đến khả năng trực giác và siêu linh, thì có rất nhiều cuộc trải nghiệm lạ thường xuất hiện khắp phòng. Người trong từng nhóm nhỏ bên phía khán đài bắt đầu rút tỉa và chia sẻ những kinh nghiệm của nhóm xa hơn ở phía bên kia căn phòng. “Sự trùng hợp ngẫu nhiên” rất khó tin và những sự kiện đồng bộ cùng lúc xuất hiện giữa những nhóm riêng rẽ theo từng khu vực trong phòng. Nhiều người trước đây chưa hề biết gì về quá trình siêu linh lại miêu tả chính xác bệnh sử của những người hoàn toàn xa lạ. Nhiều người chưa từng gặp nhau trước giây phút đó lại biết về nhau quá rõ còn hơn là họ đang trong trạng thái ý thức bình thường.
Khi quan sát những mối tương tác lạ thường này, tôi lặng lẽ tự hỏi làm sao mà tâm trí chúng ta mạnh mẽ đến vậy, tinh tế đến vậy, và ý thức cao hơn những gì chúng ta biết hoặc suy nghĩ. Chúng ta thật lạ thường.
Siêu linh, đồng cốt hay thượng sư có thể đối với chúng ta đều có tầm quan trọng, nhưng chỉ trong nhất thời. Họ có thể giúp ta nhìn thấy và hiểu ra rằng cuộc sống của chúng ta có rất nhiều thứ mà thông thường chúng ta chưa nhận thức được hết. Giống như tôi đã chứng kiến tại Puerto Rico, tất cả chúng ta đều là những nhà tâm linh, nhà đồng cốt, hoặc bậc thượng sư. Khi chúng ta học hỏi, chúng ta sẽ mở ra và làm mạnh thêm khả năng trực giác của mình, và chúng ta sẽ đạt được trí tuệ cao hơn.
Bất kể ấn tượng hay cảm giác bật lên trong ý thức của bạn đều có giá trị. Trong bài tập quét hình này, bạn hãy để trí tưởng tượng tự do bay nhảy. Điều này dành cho cả học hỏi và phát triển.
Trước khi cùng làm việc trong nhóm hai người, những người tham dự trở nên có ý thức về lĩnh vực năng lực riêng của họ. Với những đôi mắt khép hờ và trong trạng thái thư giãn, họ nắm lấy tay nhau, đôi lòng bàn tay đối nhau, cánh tay tách rời khoảng vài tấc. Khi cánh tay họ kéo lại, họ thường nhận ra cảm giác nhoi nhói nhẹ trong lòng bàn tay, cảm thấy sức nóng tăng dần hoặc luồng không khí nóng thay đổi, một chút đối kháng tinh tế, giống như người ta cảm thấy có một chướng ngại nhỏ trước khi đôi tay thật sự nắm chặt. Bài tập bắt đầu được lặp đi lặp lại nhiều lần.
“Người nhận” từ từ quét hình thân thể đối tác. Việc quét hình này được thực hiện bằng tay, ngay khoảng cách vài tấc từ thân hình của đối tác. Việc quét hình không thật sự chạm vào đối tác.
Toàn bộ cơ thể được quét từ nhiều phía, người quét hình nên nhận ra nhiệt độ thay đổi, như vùng nào nóng, vùng nào lạnh. Bất cứ ý nghĩ nào, cảm giác nào, hoặc ấn tượng nào đều được ghi nhớ. Bất cứ sự biến đổi nào trong lĩnh vực năng lượng cũng nên được nhận biết.
Sau vài phút, vai trò sẽ đảo ngược. Người quét hình trở thành “đối tượng” yên lặng và người yên lặng trước trở thành người quét hình hoặc người nhận. Sau khi lặp lại quá trình, từng cặp đối tác dành vài phút chia sẻ toàn bộ cuộc trải nghiệm với tất cả những người quan sát.
Sự chẩn đoán y học cực kỳ chính xác thường xuất hiện trong bài tập thực hành này.
Thông tin tuyệt mật, theo cách nào đó, có thể được chuyển giao đến người quét hình.
Trực giác của chúng ta có thể hoạt động lại trong khoảng thời gian thực hành bài tập trải nghiệm ngắn này.
Hơn hai trăm năm qua với sự nổi bật lên và lan rộng của thời đại ánh sáng, con người đã nhấn mạnh thái quá vai trò của khoa học và lý lẽ vào các mối quan hệ giữa loài người, văn hóa, sức khỏe, và triết lý. Chúng ta cho rằng khoa học có khả năng chữa trị tất cả mọi bệnh tật và những rắc rối.
Thật ra, chúng ta bị mất thăng bằng bởi những suy nghĩ này. Chúng ta bỏ lơ trí tuệ trực giác, trái tim nhân ái, sự thôi thúc đầy cảm hứng và sáng tạo. Chúng ta có kỹ thuật đáng ca ngợi, nhưng phẩm chất đạo đức của chúng ta, và cả sự phát triển về tâm linh không tiến bộ theo cùng nhịp bước. Giờ đây, chúng ta tìm lại chính mình trong vị trí, nơi mà kỹ thuật đủ tiến bộ để phá hủy cà hành tinh này, và con người, những ai không đủ khôn ngoan, sáng suốt sẵn sàng đặt ngón tay lên nhấn nút.
Kỹ thuật khoa học là vô tính, do chính con người thực hiện, chúng được áp dụng như thế nào, tình huống nào được sử dụng, và giá trị nào được xác định. Chúng ta biết rằng khoa học không thể chữa trị mọi bệnh tật của loài người. Chỉ những nhà lãnh đạo có trí tuệ, có lòng nhân ái, biết thương cảm và có trách nhiệm mới có thể hoàn thành mục đích này.
Vì vậy, quả lắc phải lắc ngược lại. Không phải mọi con đường đều quay về với sự mê tín và nỗi sợ hãi, mà quay về với trung điểm, một điểm hài hòa và cân bằng. Hãy quay về vị trí, nơi đó, khoa học và trực giác được pha trộn một cách hoàn hảo, nơi đó, trái tim và trí tuệ là một, thực hiện theo cách cân đối để mang lại hạnh phúc và sức khỏe cho con người.
Rất quan trọng để biết trực giác làm việc làm thế nào.
Ngay trước khi tôi chứng kiến James đưa ra lời nhắn chữa lành cho người phụ nữ đeo chiếc nhẫn của chồng bà ta, tôi có dịp quan sát James tại buổi hội thảo ở New Orleans. Ông cung cấp nhiều chi tiết chính xác về những người thân yêu đã mất cho các gia đình và bạn bè còn sống. Bốn trăm con người chật ních gian phòng. James đã nhận được một hình ảnh hoặc lời nhắn, chuyển tải lời nhắn đó đến cả một nhóm lớn, và nhiều chi tiết khác, ai đó sẽ đứng lên, xác nhận chính xác lời nhắn đó.
Tôi ngồi phía sau, lặng lẽ cố làm những điều James đang làm. Tôi cố gắng đoán trước câu hỏi của ông, lời dẫn giải, và lời nhắn gởi, nhưng sự chính xác của tôi rất hạn chế. Phải chăng bằng cách nào đó ông đang dẫn dắt mọi người? Phải chăng ông đang phổ biến vừa đủ để một người nào đó trong nhóm chắc chắn thích hợp với lời dẫn giải của ông? Phải chăng ông quá sức thông thạo đọc được ngôn ngữ cử chỉ?
Ông đang nhận thông tin, kiến thức từ nơi khác chứ không phải từ hàng khán giả, và ông đang giúp họ chữa lành những vết đau. Ồ! Tôi nghĩ rằng có rất ít người tài giỏi trên thế gian này, người mà có thể sử dụng cái dạng này theo một cách nào đó. Tôi không phải là một trong số người đó.
Hai tuần sau tôi đang hướng dẫn buổi hội thảo dựa trên kinh nghiệm về tâm linh và liệu pháp chữa trị bằng cách du hành về quá khứ cho một nhóm bảy trăm người tại West Palm Beach, Florida. Để trả lời cho một người trong hàng khán giả, tôi cố gắng giải thích cách mà nhà đồng cốt thực hiện, bằng một ví dụ được trình bày rõ ràng chính xác.
Nghĩ ra một cảnh tượng, tôi nói:
– Công việc giống như thế này. Ông đồng có thể nói rằng “Tôi nhận ra một người thanh niên tên Robert. Anh ấy chừng mười chín, hai mươi tuổi, bị chết trong một tai nạn xe hơi. Anh ấy muốn cho bạn biết rằng anh ấy rất khỏe, rằng anh ấy yêu quý bạn rất nhiều, rằng bạn đừng quá đau buồn vì anh ấy nữa. Anh ấy vẫn luôn ở bên bạn. Anh ấy cũng muốn bạn tặng cái áo khoác da màu đen treo trong buồng anh ấy cho Gary.”
Tôi đã tạo ra toàn bộ cảnh tượng này.
Rồi tôi chuyển qua nói về đề tài khác.
Tôi không biết Carole, vợ tôi đang ngồi phía sau căn phòng. Cô ấy nghĩ rằng “Tôi hy vọng chồng tôi nghe được James Van Praagh kể câu chuyện đó, bởi vì nó có ý nghĩa nào đó với một người trong phòng.”
Sau khi hội thảo kết thúc, tôi đang ngồi ký tặng vài cuốn sách, thì có hai phụ nữ, một người có đôi mắt nhòa lệ, tiến đến.
– Ông lấy đâu ra câu chuyện về Robert và cái chết vì tai nạn xe hơi. Người đang khóc nói.
Tôi nói với cô ta rằng tôi đã bịa ra toàn bộ câu chuyện. Cô khẳng định:
– Không, ông không hề bịa. Anh trai tôi, Robert bị chết trong tai nạn xe hơi khi mới hai mươi tuổi. Chúng tôi đều rất nhớ anh ấy. Tôi vừa tặng cái áo khoác da màu đen treo trong buồng anh ấy cho Gary, đứa em trai của chúng tôi. Tôi có cảm giác anh ấy muốn tôi làm điều này.
Chúng ta đều là những sinh vật tâm linh nằm trong hình thái con người. Phần tâm linh của chúng ta không bao giờ chết đi. Chúng ta không bao giờ thật sự bị mất người thân yêu. Vì vậy mọi người đều có thể thực hiện việc tôi đang thực hiện, bởi vì chúng ta đều gắn kết với nhau.
Trong trạng thái thiền định và trong những giấc mơ, tôi vẫn thường trải nghiệm hình ảnh ẩn dụ đầy sống động và trực cảm những suy nghĩ sáng suốt sâu sắc nảy sinh. Tôi thường nhận được những câu trả lời cho những vấn đề rắc rối hoặc trường hợp nan giải, những điều giống như viên ngọc trai nằm trong hình thái con sò, làm dấy lên phần sâu thẳm trong tâm trí tôi.
Trong một hình ảnh mãnh liệt như vậy nhưng có vẻ thật đơn giản, tôi nhìn thấy cách thức con người quan sát bản thân họ như những thực thể riêng rẽ, còn trong thực tế, chúng ta đều mãi mãi gắn kết với nhau. Tôi thoáng thấy biển rộng mênh mông, ngập đầy những viên đá lạnh. Mỗi viên đá đều riêng biệt, đông cứng và có ranh giới, nhưng tất cả đều lướt trên cùng mặt nước lạnh ngắt. Ngay sau đó, nước ấm dần lên, và những viên đá này tan chảy. Tất cả đều thành nước. Từng viên đá nối kết lại với nhau tan trong biển rộng. Rồi sức nóng tăng lên, nước bắt đầu đun sôi, chuyển thành hơi nước. Tức thì, tất cả đều thành hơi nước, lặng lẽ và vô hình. Nhưng hơi nước vẫn còn chứa những gì đã từng là nước và đá viên. Sự khác biệt duy nhất giữa tình trạng đá lạnh, nước, và hơi nước là năng lực rung động của phân tử.
Loài người tự nghĩ mình khác nhau theo quy luật tự nhiên, giống như những viên đá lạnh. Tuy nhiên trong thực tế, chúng ta đều là một thực thể có mối liên hệ với nhau.
Có thể bạn đã từng trở về kiếp quá khứ bằng những phương pháp khác hơn là bằng thuật thôi miên. Hai chuyến du hành quay về quá khứ đầu tiên của tôi xảy ra thông qua cách điều trị bằng phương pháp xoa bóp, và trong giấc mơ.
Chuyến du hành đầu tiên cùng xảy ra trong lúc đang được ấn huyệt. Trong hoạt cảnh rõ ràng sống động này, tôi nhìn thấy chính mình là một thầy tu thời cổ xưa, cao hơn, ốm hơn con người hiện tại của tôi. Tôi đang đứng trong một tòa nhà có dạng hình học lạ lùng, tầng trên cao có các cạnh nghiêng. Trong tâm trí, tôi cứ nghe liên tục từ “ziggurant” nhưng lúc đó tôi không hiểu đó là nghĩa gì.
Vị thầy tu này có rất nhiều quyền lực, nhưng thay vì sử dụng vị trí của mình dạy dỗ sự thật về tâm linh, ông ta tập trung vào việc chiếm hữu nhiều quyền lực hơn, giàu có hơn. Khi tôi đăm chiêu nhìn về tương lai của ông, tôi có thể thấy rằng nguyên tắc của ông không bao giờ chuyển sang tâm linh, thậm chí nhiều người tu hành được tự do dạy dỗ sự thật về tâm linh miễn là nhu cầu của những người trong hoàng gia cũng được đáp ứng.
Tôi tỉnh dậy, dần dần quay về với tỉnh thức. Vào buổi chiều tối ngày hôm đó, ở nhà tôi nhìn thấy chữ “ziggurat”, nằm ngay trong bộ sách giáo khoa. Theo lịch sử, trong thời đại Babylonian, cách cả thiên niên kỷ trước khi Chúa Giê-su được sinh ra, những ngôi đền thờ đều mang dáng hình học giống như tôi đã nhìn thấy, trong cảnh tượng mờ ảo tôi nghe thấy từ “ziggurat”.
Vài năm sau, tôi có cuộc trải nghiệm lần thứ hai, lần này là trong giấc mơ. Nó xuất hiện vào đêm thứ hai trong năm ngày huấn luyện cho các chuyên gia mà tôi đang hướng dẫn. Tất cả những người tham dự đều ở cùng một khách sạn. Cường độ của những buổi này làm kiệt sức.
Trong giấc mơ, đó là một trong những giấc mơ sống động mà tôi nhớ từng chi tiết, tôi cũng là một thầy tu, lần này là thầy dòng đạo Cơ Đốc, tại một nơi nào đó của Châu Âu cách đây vài thế kỷ. Tôi đang ở trong ngục tối. Một cánh tay bị xích trong tường sau lưng. Tôi bị tra tấn và bị giết vì đã giảng dạy những điều dị giáo, cấm kỵ.
Tôi thức dậy, những vẫn trong trạng thái bị mơ màng, và giấc mơ vẫn tiếp diễn một lúc nữa. Tôi vẫn có thể nhìn và cảm nhận hình ảnh khi tôi nằm trong phòng tối om. Rồi tôi bắt đầu nhận ra giọng nói từ bên trong hoặc lời nhắn gởi.
– Khi anh có cơ hội để giảng dạy về chân lý thì anh không làm.
Tôi biết điều này nói đến vị thầy tu của thời Babylonian, người không hề giảng dạy về sự thật của tâm linh.
– Khi không có cơ hội, anh lại làm… anh… thúc đẩy hậu quả.
Tôi biết ông thầy dòng Cơ Đốc có thể đã an toàn hơn nếu giảng dạy về tình yêu và lòng thương cảm.
Ông ta không nhất thiết để bị giết bằng cách thách thức chính quyền tàn ác trong thời đại đó.
Giọng nói nhẹ nhàng kết luận:
– Lần này phải làm cho đúng.
Tôi không thể ngủ lại được nữa. Rồi sau đó tôi xuống ăn sáng. Một trong những sinh viên tham gia khóa học là một giáo sư tâm thần học nổi tiếng tại một trường đại học danh giá. Cô quan sát khi đứng kế bên tôi.
– Thầy có vẻ mệt mỏi quá.
– Tôi biết, đêm qua tôi không ngủ được.
– Em biết điều đó, em nhìn thấy giấc mơ của thầy!
Tôi không tin điều này, và cảm nhận được sự nghi hoặc của tôi, cô giải thích:
– Gia đình em có khả năng về đồng cốt theo họ bên mẹ em, và truyền sang từ nhiều thế hệ. Em cũng có khả năng này.
Cô làm tôi ngạc nhiên, vì vậy tôi hỏi cô đã thấy những gì.
– Em nhìn thấy thầy là thầy dòng đạo Cơ Đốc tại Scotland cách đây nhiều thế kỷ. Thầy ở trong tù. Tay phải bị xích trong tường sau lưng thầy, thầy bị tra tấn và giết chết vì giảng dạy về chuyện đầu thai.
Quả thật, cô còn đặc biệt hơn tôi nhiều. Còn nữa.
– Thầy nên cẩn thận. Nhiều người đó bây giờ đã quay lại. Cô nói thêm như vậy, cho nên tôi luôn cố cảnh giác.