Lịch Sử Văn Minh Trung Hoa

CHƯƠNG I (2)

4. Buổi đầu văn minh Trung Hoa

Thời phong kiến  – Một vị sư biểu  – Tục lệ và pháp luật chống đối nhau  – Văn hoá và sự hỗn loạn  – Các bài thơ tình trong Kinh Thi

 

Các tiểu quốc thời phong kiến ấy trong gần một ngàn năm tạo cho Trung Hoa được một tổ chức chính trị đặc biệt. Chúng không phải do nhà Chu nhất đán thành lập nên, mà lần lần thành hình từ lâu đời. Mới đầu trong những cộng đồng canh tác thời sơ khai, có kẻ yếu người mạnh, một mặt kẻ mạnh muốn nuốt lần kẻ yếu, mặt khác các bộ lạc phải họp nhau lại dưới sự chỉ huy của một thủ lãnh, để bảo vệ đồng ruộng, khỏi bị các rợ xung quanh xâm chiếm. Có thời người ta đếm được một ngàn bảy trăm “nước nhỏ” như vậy, mỗi nước gồm một vòng thành chung quanh có đất trồng trọt, phía ngoài là một vòng làng xóm có hào luỹ. Lần lần những nước nhỏ gom lại, còn năm mươi lăm nước chư hầu chiếm khu vực mà ngày nay là tỉnh Hà Nam và các miền lân cận thuộc các tỉnh Sơn Tây, Thiểm Tây, Sơn Đông. Hai nước chư hầu mạnh nhất là Tề tạo được một chính thể đặc biệt cho Trung Hoa – và Tần sau này chiếm tất cả các nước chư hầu khác, thống nhất Trung Hoa, do đó mà Trung Hoa được phương Tây biết và gọi là nước Tần (Chine, China)[1].

 

Nhà tổ chức đại tài của Tề là Quản Trọng, tướng quốc của Tề Hoàn Công. Mới đầu ông theo công tử Củ, anh hay em của Hoàn Công. Hai anh em tranh ngôi nhau, trong một trận đánh, Quản Trọng suýt giết chết Hoàn Công. Nhưng sau Hoàn Công thắng, bắt được Quản Trọng [tha tội cho], và phong làm Tướng quốc. Quản Trọng thay đổi cách chế tạo khí giới và dụng cụ, không dùng đồng đỏ mà dùng sắt[2] rồi ban lệnh chỉ quốc gia mới được khai thác các mỏ sắt và làm muối [Tề ở giáp biển, nên có muối], nhờ vậy mà nước Tề mạnh lên. Ông ta lại đánh thuế cá, muối, tiền bạc, “để có tiền giúp người nghèo và thưởng những người có tài, có công”. Trong thời gian cầm quyền khá dài của ông, Tề thành một nước thịnh trị, tiền tệ vững vàng, văn hóa phát triển. Khổng tử ít khi khen các chính trị gia[3], mà phải khen Quản Trọng: “Cho đến nay dân chúng còn được hưởng ân đức của ông ấy. Không có Quản Trọng thì chúng ta phải gióc tóc và cài áo bên tả [như người mọi rợ rồi][4].

 

Chính triều đình các nước đó đặt ra những thói lễ độ phong nhã đặc biệt của hạng trí thức Trung Hoa, lần lần thành một thứ điển chương, về tục lệ, lễ nghi, danh dự rất nghiêm nhặt có thể thay thế được tôn giáo trong giới thượng lưu. Đồng thời họ lại lập cơ sở cho luật pháp và từ đó tục lệ trong dân chúng và luật lệ của triều đình bắt đầu xung đột nhau.

 

Nước Trịnh và nước Tần (535 và 512 tr. T.L) ban bố những bộ luật [thời đó gọi là hình thư] làm cho dân chúng bất bình, trù rằng quỉ thần sẽ trừng trị chính sách tàn bạo đó; và sự thực kinh đô nước Trịnh bị một hoả hoạn thiêu huỷ gần hết. Những bộ luật ấy có lợi cho bọn quí tộc, không bắt họ phải chịu hình phạt, nếu họ biết tự xử lấy; chẳng hạn nếu họ giết người thì họ có quyền được tự sát[5], đại khái cũng như hạng Samourai (quí phái) của Nhật Bản sau này. Nhưng dân chúng bảo mình cũng có thể tự xử được, và ước ao được một vị bênh vực cho họ, để họ khỏi chịu sự bất công ấy. Sau cùng người ta tìm ra giải pháp dung hoà, chỉ áp dụng luật pháp trong những việc quan trọng, liên quan tới quốc gia, còn trong những việc nhỏ giữa cá nhân với nhau thì cứ theo tục lệ.

 

Quốc gia được tổ chức lần lần và người ta cũng lần lần tìm ra được những thể thức cho nó mà ghi lại trong bộ Chu Lễ, tương truyền là của Chu Công, chú và phụ chính của Thành Vương, ông vua thứ nhì đời Chu. Bộ ấy thấm nhuần tư tưởng Khổng tử, và Mạnh tử cho nên có lẽ được soạn vào cuối chứ không phải đầu đời Chu, nó chi phối chính thể của Trung Hoa suốt hai ngàn năm. Chính thể này gồm một vị “Thiên tử” thay Trời trị dân, uy quyền đối với dân do lòng đạo đức và lòng kính Trời mà có; một giới quí tộc giữ những chức vụ quan trọng trong nước, mà chỉ có một là thế tập, dưới nữa là dân chúng chỉ lo cày ruộng chia thành nhiều gia đình phụ quyền, có quyền công dân nhưng không được dự vào việc nước; sau cùng một nội các gồm sáu bộ[6] trông nom về: lo cho trai gái sớm có vợ chồng, về lễ, về chiến tranh, về tư pháp, về các công tác [tức bộ công chính ngày nay]. Thật là một bộ luật gần như lí tưởng, chắc chắn do một triết gia vô danh, không có một quyền hành nào đó tạo nên, chứ không do những suy tư của hạng người cầm quyền.

 

Nhưng hiến pháp hoàn toàn tới mấy cũng không bao giờ diệt được hết cái xấu, cái ác được, nên đọc lịch sử thời phong kiến Trung Hoa chúng ta thấy nhiều ác tập lộng quyền và cứ lâu lâu lại phải cải cách. Bọn quí tộc càng giàu có thì càng hoá ra truỵ lạc, xa xỉ, cuồng bạo; mới đầu là triều đình các vua chư hầu rồi sau tới cả kinh độ Lạc Dương của thiên tử nữa, đầy bọn nhạc sĩ, thích khách, kĩ nữ và triết gia. Không bao giờ dân chúng yên ổn liên tiếp được mười năm mà không bị các rợ xâm chiếm, đánh phá biên giới. Thế là phải chiến đấu để tự bảo vệ, lần lần người ta hoá ra thích đánh nhau, mà giới quí tộc càng ngày càng thích giết người; có khi chặt đầu cả chục ngàn người. Trong một thời gian chưa đầy hai thế kỉ, có tới ba mươi sáu vụ giết vua. Xã hội hỗn độn, loạn lạc, khiến cho các triết gia thất vọng.

 

Mặc dầu loạn lạc, đời sống vẫn tiếp tục. Nông dân gieo gặt, hầu hết là để nộp cho lãnh chúa vì lãnh chúa làm chủ cả nông dân lẫn đất đai; mãi tới gần cuối đời Chu, người ta mới thấy nông dân được làm chủ những khoảnh đất nhỏ. Quốc gia – nghĩa là một nhóm quí tộc, đoàn kết với nhau nhiều hay ít, chung quanh một vị hầu hay vị bá – bắt đầu làm xâu, như để đào kinh dẫn nước vào ruộng, có những quan chức chuyên môn dạy dân làm ruộng, trồng cây, nuôi tằm. Trong nhiều nước chư hầu, triều đình giữ độc quyền đánh cá, khai thác các ruộng muối. Thương mại đã phát triển mạnh trong các thị trấn, nuôi sống một giới thị dân khá phong lưu, được hưởng nhiều tiện nghi của thời đại chúng ta, như giày da, áo len, áo lụa, đi xe ngựa hoặc xe bò, đi thuyền; ở trong những ngôi nhà xây cất đẹp đẽ, ngồi ghế, ngồi bàn, chén đĩa là đồ sành có hình, có màu đẹp đẽ; giới đó chắc chắn là sống sung sướng hơn những người đồng thời của họ ở thành Athène dưới thời Solon[7] hoặc thành Rome dưới thời Numa[8], sướng hơn nhiều.

 

Trong cái cảnh bề ngoài có vẻ loạn lạc, rối ren khắp nơi đó, đời sống tinh thần của Trung Hoa giữ được một sinh lực mạnh mẽ khiến cho sử gia nào quá vội vàng kết luận tất phải ngạc nhiên. Vì chính trong thời hỗn độn ấy, dân tộc Trung Hoa đã dựng được cơ sở cho ngôn ngữ, văn học, triết học và nghệ thuật; nhờ một chế độ kinh tế sáng suốt, đời sống được dễ chịu hơn; văn hóa chưa bị đúc khuôn vì một truyền thống nghiêm khắc và một chính quyền chuyên chế, cho nên tinh thần Trung Hoa gặp được những điều kiện rất có lợi cho tài năng sáng tác. Ở triều đình mỗi vua chư hầu, trong vô số thị trấn và làng mạc, người ta thấy thi sĩ ngâm thơ, thợ gốm nặn đồ, thợ đúc đúc những bình rất đẹp, thư lại nắn nót chữ cho thật tốt, các nhà nguỵ biện dạy cho thanh niên cả ngàn thuật biện thuyết, còn các triết gia thì than thở về nhược điểm của loài người, về sự suy đồi của dân tộc[9].

 

Trong những chương sau, chúng tôi sẽ nghiên cứu kĩ ngôn ngữ và nghệ thuật Trung Hoa. Còn thi ca và triết lí thì đặc biệt thuộc về thời đại Tiên Tần này, thời đại cổ điển của tư tưởng Trung Hoa. Phần lớn những bài thơ làm trước Khổng tử đã thất truyền, chỉ còn lại những bài chính ông đã lựa trong số những bài lưu hành ở thời ông. Những bài ấy gom lại trong bộ Kinh Thi, từ những bài cổ nhất của đời Thương tới những bài ở thế kỉ thứ VI trước T.L., nghĩa là bao quát một thời gian khoảng ngàn năm. Ba trăm lẻ năm bài trong Kinh Thi rất cô đọng, không thể dịch được, dùng những hình ảnh linh động, độc đáo để diễn lòng tôn sùng Thượng Đế và thần linh, tả những nỗi khổ thời chiến tranh và tình âu yếm giữa trai gái. Đây, chúng ta nghe lời than thở của một người lính phải xa gia đình đi tìm cái chết không hiểu để làm gì:

 

----Những con ngỗng trời đậu trên rừng Yu kia,[10]

----Được tự do bay lượn, sung sướng làm sao!

----Còn chúng tôi phải phục vụ nhà vua, không lúc nào được nghỉ,

----Ngay đến kê chúng tôi cũng không được gieo, lúa cũng không được cấy nữa.

----Cha mẹ chúng tôi rồi đây biết nương tựa vào ai,

----Hỡi trời xanh thăm thẳm!... [11]

 

----Lá cây đã chẳng đổi ra màu đỏ đấy ư?

----Chồng xa vợ đã chẳng từ lâu rồi ư?

----Xin người ta thương bọn lính khốn khổ chúng tôi với.

----Chúng tôi cũng là con người mà!

 

Chúng ta tưởng lầm rằng thời đó dân tộc Trung Hoa còn dã man nhưng trong Kinh Thi chúng ta thường gặp những bài xuân tình diễn những cảm xúc rất đậm đà, tế nhị. Trong một bài mà tiếng than phát từ những thế kỉ xa xôi, gần như không ai nhớ tới nữa, những thế kỉ Khổng tử khen là phong tục đôn hậu, thuần phác, chúng ta đã thấy đề tài vạn cổ bất dịch này: sự phản kháng của thanh niên và ta có cảm tưởng rằng sự phản kháng ấy là tình cảm cổ nhất của nhân loại:

 

----Hỡi chàng Trọng tử,

----Xin chàng đừng leo qua xóm em,

----Đừng bẻ cây kỉ liểu của em.

----Em đâu tiếc gì cây ấy,

----Chỉ vì em sợ cha mẹ.

----Chàng Trọng tử đáng cho em thương nhớ lắm chứ[12],

----Những lời rầy của cha mẹ,

----Cũng đáng sợ lắm.

 

----Hỡi chàng Trọng tử,

----Xin chàng đừng leo qua tường nhà em,

----Đừng bẻ cây dâu của em.

----Em đâu tiếc gì cây ấy,

----Chỉ vì em sợ các anh.

----Chàng Trọng tử đáng cho em thương nhớ lắm chứ,

----Những lời rầy của các anh,

----Cũng đáng sợ lắm.

 

----Hỡi chàng Trọng tử,

----Xin chàng đừng leo qua vườn nhà em,

----Đừng bẻ cây đàn[13] của em.

----Em đâu tiếc gì cây ấy,

----Chỉ vì em sợ thiên hạ lắm lời.

----Chàng Trọng tử đáng cho em thương nhớ lắm chứ,

----Những lời đồn của thiên hạ,

----Cũng đáng sợ lắm.

 

---- ---- [Bài Thương Trọng tử - trong Trịnh phong]

 

Một bài thơ nữa[14], nếu không phải là hoàn toàn nhất thì cũng là dịch [ra tiếng Anh] khéo nhất, cho chúng ta thấy rằng nhiều tình cảm đã có từ thời thượng cổ:

 

----Ánh sáng rực rỡ ban mai lên dần dần trên đầu tôi,

----Chiếu xuống những hoa trắng, đỏ, xanh, hồng.

----Lòng em bồn chồn.

 

----Trong cỏ khô có tiếng lào xào;

----Em tưởng là tiếng chân chàng bước tới.

----Nhưng chỉ là tiếng con cào cào.

 

----Trăng thượng huyền lấp ló, em leo lên ngọn đồi,

----Thấy chàng từ con đường phía Nam tiến lại.

----Lòng em thấy nhẹ nhàng.[15]

 

5. Các triết gia trước Khổng tử 

Kinh Dịch  – Âm và Dương – Thời đại rực rỡ của Trung Hoa – Đặng Tích, Socrate của Trung Hoa

 

Nhưng triết lí mới chính là sự cống hiến quan quan trọng nhất của thời ấy. Chúng ta có thể nói rằng cái vinh dự của nhân loại là thời nào óc tò mò tìm hiểu vẫn vượt sự sáng suốt và luôn luôn con người hoài bão những lí tưởng cao hơn khả năng của mình. Ngay từ 1250 trước T.L, Yu Tseu[16] diễn một tư tưởng thời đó đã cũ, sáo rồi, nhưng thời này vẫn còn là mới mẻ, một tư tưởng mà bọn ham danh vọng nên suy nghĩ: “Người nào không màng tới danh thì vui vẻ tâm hồn”. Sung sướng thay, con người không có truyện kí[17]. Và từ thời đó, Trung Hoa sản xuất hoài các triết gia.

 

Ấn Độ là xứ của siêu hình học và tôn giáo. Trung Hoa là xứ của triết lí nhân bản, không quan tâm tới thần học. Trong văn học Trung Hoa chỉ có mỗi tác phẩm khá quan trọng về siêu hình học, một tác phẩm kì dị mở đầu cho lịch sử tư tưởng Trung Hoa, tức bộ Kinh Dịch. Theo truyền thuyết thì cuốn ấy do một ông vua sáng lập nhà Chu, tức Văn vương viết trong khi bị giam ở ngục [Diễu Lí], mà nguồn gốc kinh Dịch thì có từ đời Phục Hi, ông vua đặt ra bát quái (tám quẻ)[18] để biểu thị các nguyên lí và nguyên tố thiên nhiên. Mỗi “quái” (quẻ) gồm ba đường[19], có đường liền biểu thị nguyên lí dương và đường đứt biểu thị nguyên lí âm. Dương và âm trái ngược nhau: dương thì tích cực, hoạt động, sáng tác, sáng sủa, nóng, sống động, còm âm thì tiêu cực, thụ động, tối tăm, lạnh, chết; dương là trời, âm là đất. Văn vương lưu danh thiên cổ - mà cũng làm nát óc hằng tỉ người Trung Hoa – nhờ lấy mỗi quẻ trong tám quẻ đó lần lượt đặt chồng lên nhau theo đủ mọi cách, thành ra 64 quẻ[20]. Mỗi một quẻ này biểu thị một luật thiên nhiên. Tất cả khoa học, tất cả lịch sử, tất cả sự minh triết gồm trong 64 quẻ đó; rốt cuộc tất cả vũ trụ chỉ còn là sự tương phản, hoặc sự hoà hợp của hai yếu tố căn bản là dương và âm. Người Trung Hoa dùng kinh Dịch làm sách bói và coi nó là một bộ kinh quan trọng nhất của họ - họ tin rằng ai hiểu được ý nghĩa mỗi quẻ, mỗi hào là hiểu được tất cả những luật thiên nhiên. Khổng tử giải nghĩa thêm kinh Dịch, đặt nó trên tất cả các sách khác và ước ao bỏ ra năm chục năm để nghiên cứu nó[21].

 

Tác phẩm kì dị ấy mặc dầu rất hợp với tâm hồn yêu huyền bí của người Trung Hoa, nhưng lại trái với tinh thần thực tế của triết học Trung Hoa. Đi ngược dòng lịch sử Trung Hoa, xa thật xa, thời nào chúng ta cũng gặp các triết gia, nhưng về những nhà sinh trước Lão tử[22]  thì chúng ta chỉ còn giữ được vài đoạn rải rác đó đây, có khi chỉ còn nhớ được cái tên. Ở Trung Hoa cũng như ở Ấn Độ, Ba Tư, Hi Lạp, thế kỉ thứ VI và thứ V trước T.L, là thời trăm hoa đua nở về triết học và văn học, và cũng như ở Hi Lạp, mở đầu phong trào là một thuyết “duy lí sáng suốt”. Một thời chiến tranh liên miên, cực kì hỗn độn, đã phát sinh ra những tài năng mới và dân các thị trấn ước ao có người mở mang trí óc cho họ. Các bậc “tôn sư” của dân đó thấy ngay rằng môn thần học mơ hồ, luân lí có tính cách tương đối, mà chính quyền thì tàn bạo, thối nát, bèn dựng nên nhiều thuyết không tưởng, vì vậy mà một số người bị giết: chính quyền cho rằng trả lời họ vô ích. Theo truyền thuyết, chính Khổng tử hồi làm Đại Tư Khấu nước Lỗ giết một viên quan phản loạn, lấy lẽ rằng “hắn có thể tụ tập được nhiều người, lí luận của hắn làm mê hoặc người nghe, khiến cho điều ác hoá ra đáng quí, mà những nguỵ biện của hắn khá vững đủ chống được lẽ phải và sự công bằng” [Có lẽ Will Durant muốn trỏ quan đại phu Thiếu Chính Mão, mà sử chép là người gian hiểm, xảo quyệt]. Tư Mã Thiên cho rằng truyện đó có thực, nhưng nhiều sử gia khác không tin. Chúng ta mong rằng nó không đúng.

 

Trong số các học giả nổi loạn ấy, người có danh nhất là Đặng Tích bị vua nước Trịnh ra lệnh giết lúc Khổng tử còn nhỏ. Cuốn Liệt tử bảo Đặng Tích “dạy rằng thiện và ác là vấn đề tương đối và đưa ra rất nhiều lí lẽ”. Kẻ thù của ông bảo ông sẵn sàng bênh vực những thuyết trái ngược hẳn nhau miễn là người ta chịu trả tiền ông, những kẻ kiện tụng bất kể phải trái ông đều cãi cho hết, thật là vô sở bất vi. Một sử gia không ưa ông, kể chuyện lí thú dưới đây về ông:

 

Một người giàu có ở cùng một xứ với Đặng Tích chết đuối ở sông Vị; một người vớt được xác lên, bắt gia đình kẻ bất hạnh phải nộp một số tiền lớn, rồi mới giao xác cho đem về chôn. Họ hỏi ý kiến Đặng Tích, Đặng khuyên: “Mặc hắn, cứ thủng thẳng, còn có nhà nào khác lại chuộc thây đó đâu”. Họ làm theo. Kẻ vớt được xác đợi hoài đâm lo, lại nhờ Đặng chỉ bảo. Đặng cũng khuyên: “Mặc họ, cứ thủng thẳng, họ còn có thể chuộc xác ở nơi nào nữa đâu”[23].

 

Đặng Tích soạn một bộ hình luật mà chính quyền nước Trịnh cho là lí tưởng quá, không thực hành được. Viên tướng quốc nước Trịnh cấm Đặng treo những bài Đặng Tích phúng thích mình, Đặng bèn đích thân đi phân phát những bài ấy. Lại bị cấm nữa. Đặng giấu những bài ấy dưới những vật khác rồi gởi cho từng nhà. Chính quyền chặt đầu Đặng Tích cho yên chuyện[24].

 

6. Lão tử

Lão tử  – “Đạo” – Các nhà trí thức lên cầm quyền – Sự phi lí của luật pháp – Không tưởng theo kiểu Rousseau, luân lí Ki Tô giáo – Chân dung một vị hiền triết – Lão tử và Khổng tử gặp nhau

 

Lão tử là triết gia lớn nhất sinh trước Khổng tử, ông khôn hơn Đặng Tích, ông biết rằng làm thinh là khôn hơn cả, và người Trung Hoa tin rằng ông sống rất lâu, nhưng chúng ta không chắc ông đã có sống thực không. Sử gia Tư Mã Thiên chép rằng Lão tử chán ngán về tư cách đê tiện của các chính khách, về chức thủ tạng thất [cũng như quản thủ thư viện ngày nay] của nhà Chu, quyết tâm rời Trung Quốc, đi tìm một nơi hẻo lánh, xa xôi để ẩn dật. “Khi ông tới cửa ải [Hàm Cốc], Doãn Hỉ, viên quan giữ ải, bảo ông: “Ông sắp đi ẩn, vậy xin ông vì tôi mà để lại một bộ sách”. Thế là Lão tử viết một cuốn trên năm ngàn chữ, gồm hai phần Đạo và Đức. Viết xong ông ra đi, và không ai biết đi đâu và chết ở đâu”. Nhưng truyền thuyết thì biết được hết và bảo ta rằng ông sống tới tám mươi bảy tuổi[25]. Ông chỉ còn lưu lại tên ông và bộ sách của ông, nhưng có lẽ cả hai đều không phải của ông. Lão tử chỉ là một tiếng để tả ông, chứ không phải tên, và có nghĩa là “ông thầy già”; tên họ ông là Lí, tức “trái nho”[26] còn sự xác thực của cuốn Đạo đức kinh thì khả nghi lắm, các học giả bây giờ vẫn còn tranh biện nhau về nguồn gốc của nó[27].

 

Nhưng mọi người đều nhận rằng Đạo đức kinh là tác phẩm quan trọng nhất của cái triết lí mà người ta gọi là đạo Lão, và theo các học giả nghiên cứu về Trung Hoa nổi danh nhất thì triết lí ấy đã có từ lâu trước Lão tử, rồi sau Lão tử cũng có nhiều nhà theo, và từ đó thành một tôn giáo của một thiểu số quan trọng người Trung Hoa. Tìm ra tác giả đích thực của Đạo đức kinh là vấn đề thứ yếu, có điều này không ai chối cãi được, là những tư tưởng trong cuốn ấy thuộc vào hạng lí thú, hấp dẫn nhất trong lịch sử tư tưởng nhân loại.

 

Đạo chính nghĩa là đường đi, ở đây có nghĩa là Đường thiên nhiên, Đạo thiên nhiên, mà đôi khi cũng có nghĩa là đạo minh triết theo Lão tử nữa. Theo nguyên tắc, nó là một cách suy tư hoặc đừng suy tư, vì đối với người theo đạo Lão, suy tư là việc không quan trọng, chỉ dùng khi biện luận. Còn trong đời sống thì có hại hơn có lợi, muốn đạt tới Đạo thì phải bỏ cái “trí” và thôi nói nhảm nhí đi, mà sống khiêm tốn, ẩn dật một cách quê mùa, và ngắm thiên nhiên. Không nên lẫn lộn sự hiểu biết và đạo đức, trái lại càng truyền bá giáo dục, số trộm cướp càng tăng. Hiểu biết cũng không phải là minh triết vì không gì khác nhau xa bằng một hiền triết với với một người “trí” [một trí giả hay thức giả]. Để cho các triết gia trị nước thì không gì tai hại bằng, họ trộn lộn lí thuyết với những cái giản dị, tầm thường nhất; họ khéo nói, khéo đưa ra thuyết này, thuyết nọ, điều đó chứng tỏ rằng họ bất lực trong hành động.

 

Người thực có kinh nghiệm thì không biện bác; kẻ biện bác thì không thực là có kinh nghiệm[28].

 

Khi bỏ cái trí đi rồi, nước sẽ yên ổn. Bậc hiền minh giữ dân cho ngu dốt, không ham muốn gì cả, và nơi nào thấy có kẻ học thức (kẻ trí) thì rán đừng để cho họ hành động.

 

Cổ nhân hiểu rõ Đạo thì không dạy dân, mà trái lại để họ chất phác, ngu dốt… Dân mà biết nhiều quá thì khó trị nước. Kẻ nào rán trị nước bằng trí thì thành cái hoạ cho nước; còn kẻ nào không trị nước bằng trí thì là cái phúc cho nước[29].

 

Kẻ trí là cái hoạ cho nước vì họ nghĩ cách chế định pháp qui, rán xây dựng một xã hội như một hình hình học, không hiểu rằng chế định thì chỉ diệt sự tự do linh động và năng lực hành động thôi. Còn người giản dị, chất phác, do kinh nghiện bản thân mà thấy cái vui được thực hiện một công trình tự mình nghĩ ra và làm một cách tự do, con người ấy mà cầm quyền thì ít nguy hại hơn và hiểu rằng luật pháp là con dao hai lưỡi, có thể hại hơn là lợi. Một nhà chỉ huy như vậy đặt ra rất ít luật lệ, cố tìm cách hướng dẫn quốc dân thì chỉ để cho dân tránh sự giảo hoạt, rắc rối, mà quay về một đời sống giản dị, hợp với luật thiên nhiên trong đời sống ấy, ngay chữ viết cũng phải bỏ đi vì nó là một dụng cụ đầu độc dân. Không bị gò bó vì các qui chế của chính quyền nữa, những bản năng cố hữu của dân chúng – ăn uống và tình ái – sẽ làm cho bánh xe sinh hoạt quay đều, không trục trặc. Các phát minh không ích lợi gì mấy, chỉ làm cho kẻ giàu giàu thêm, kẻ mạnh mạnh thêm thôi; không cần tới sách vở, các nhà làm luật, không cần tới kĩ nghệ nữa; còn buôn bán thì ở chợ trong làng xóm thì đủ rồi.

 

Trong nước càng cấm kị thì dân càng nghèo. Dân càng có nhiều phượng tiện kiếm lợi thì quốc gia càng hỗn loạn[30]. Người ta càng kỉ xảo thì các vật lạ càng phát sinh. Pháp lệnh càng nhiều thì trộm cướp càng tăng. Cho nên bậc thánh nhân bảo: Ta “vô vi” mà dân tự cải hoá, ta ưa tĩnh mà dân tự sửa đổi, ta không làm gì cả mà dân tự giàu, ta không ham muốn gì cả mà dân tự hoá ra chất phác[31].

 

Nước nhỏ dân ít, thì ta sẽ làm cho có một số người khéo mà không có gì để làm[32], làm cho dân sợ chết mà không đi xa (để khỏi chết), tuy có thuyền, có xe mà không dùng đến, có áo giáp, binh khí mà không trưng ra, khiến dân chúng dùng lại cách gút dây[33]. Họ thấy món ăn [đạm bạc] của họ là ngon, y phục [giản dị] của họ là đẹp, họ thoả mãn về nhà cửa, vui vẻ về phương tiện nhỏ nhoi của họ[34]. Những nước láng giềng trông thấy nhau được, nghe tiếng gà chó của nhau được mà đến già, đến chết cũng không qua lại[35] thăm nhau[36].

 

Nhưng cái thiên nhiên mà Lão tử muốn thuận theo đó là cái gì? Ông phân biệt thiên nhiên với văn minh cũng rõ ràng như Rousseau [triết gia Pháp thế kỉ XVIII] sau này. Thiên nhiên và hoạt động tự nhiên, sự âm thầm diễn tiến của các biến cố đời đời, kiếp kiếp, sự tuần hoàn của bốn mùa, sự vận chuyển uy nghi của tinh tú, đó là cái Đạo mà ta thấy trong mỗi dòng suối, mỗi phiến đá, mỗi vì sao, đó là cái luật của vũ trụ, vô tư, vô ngã mà lại hợp lí, và loài người phải hành động theo luật ấy nếu muốn sống một cách khôn ngoan và yên ổn. Cái luật chi phối vạn vật ấy là Thiên đạo, cũng như luật cư xử, hành động là Nhân đạo; thực sự Lão tử cho hai cái ấy chỉ là một, mà tiết điệu của đời người chỉ là một phần cái tiết điệu của vũ trụ. Trong cái Đạo của vũ trụ ấy, tất cả các luật thiên nhiên tập hợp lại thành bản thể - theo kiểu Spinoza – của mọi thực thể, ở trong đó mọi thể thức tự nhiên đều có một vị trí thích hợp và tất cả các dị biệt, mâu thuẫn ở bề ngoài đều hoà lẫn nhau; đó là cái tuyệt đối trong đó tất cả các cá thể tan hoà thành một đại thể.

 

Theo Lão tử, loài người thời sơ khai chất phác, hiếu hoà, và đời sống đâu đâu cũng sung sướng. Rồi loài người đạt tới cái “trí”, chế tạo thứ này thứ khác làm cho đời sống hoá phức tạp, họ sinh ra có “cơ tâm”, rời đồng ruộng mà ra ở thành thị, và bắt đầu viết sách, do đó mà họ hoá khốn khổ, khiến cho các triết gia phát lên lời than thở. Bậc hiền triết trốn đời sống phiền phức ở thành thị, trốn sự hỗn độn bực mình của luật pháp, văn minh sa đoạ, mà ẩn giữa thiên nhiên, xa thành thị, xa sách vở, lánh bọn quan lại tham nhũng và bọn cải cách mơ mộng hảo huyền. Chỉ có sự minh triết, an mệnh mới tạo được hạnh phúc lâu bền, mà muốn vậy phải kiên nhẫn theo thiên nhiên, cương quyết bỏ cái “trí”, cứ tuân mệnh lệnh của thiên nhiên, tức bản năng, và bắt chước những đường lối lặng lẽ của thiên nhiên. Trong tất cả văn chương của nhân loại, có lẽ tôi không thấy đoạn nào minh triết như đoạn này:

 

Vạn vật trong thiên nhiên đều lặng lẽ làm việc. Chúng sinh ra mà chẳng có gì cả, làm tròn nhiệm vụ mà chẳng đòi hỏi gì cả. Mọi vật làm công việc của chúng trong sự thoả mãn. Khi phát triển cùng cực rồi, chúng trở về cội gốc. Trở về cội gốc là yên tĩnh, là trở lại mệnh. Trở lại mệnh là luật “thường” (bất biến). Biết luật thường tức là sáng suốt[37].

 

Tâm trạng tĩnh ấy, triết lí vô vi, không can thiệp vào dòng biến chuyển tự nhiên của vạn vật ấy, là dấu hiệu minh triết về mọi khu vực. Quốc gia mà hỗn loạn thì đừng tìm lập lại trật tự bằng các cải cách, cứ mỗi người làm tròn bổn phận mình là đủ rồi; nếu gặp sự chống đối, thì khôn hơn hết là đừng gây lộn, đừng tấn công, đừng gây chiến mà cứ lặng lẽ rút lui, rồi sẽ nhờ sự kiên nhẫn, sự an phận mà thắng được; thụ động cũng thắng lợi nhiều bằng hoạt động. Có chỗ lời của Lão tử không khác lời của Ki Tô:

 

Chỉ vì mình không tranh với ai mà không ai tranh nổi với mình[38] … Dĩ đức báo oán … Kẻ tốt thì mình tốt với họ, mà kẻ không tốt thì mình cũng vẫn tốt với họ, như vậy mọi người sẽ tốt[39]Cái rất mềm trong thiên hạ thắng được cái rất cứng trong thiên hạ[40]Trong thiên hạ không có gì mềm yếu hơn nước, mà thắng được cái cứng cái mạnh thì không gì hơn nó, không gì thay nó được[41].

 

Tất cả những thuyết ấy đều thuộc về quan niện “bậc hiền minh” của Lão tử. Có điểm đặc biệt này là các tư tưởng gia Trung Hoa không nói tới “thánh” (saint) mà chỉ nói tới hiền, ít nói đến “đức” (vertu) hơn là nói đến sự thận trọng[42], đối với người Trung Hoa, lí tưởng không phải là hạng người mộ đạo, mà là hạng người đầu óc già giặn, bình tĩnh, mặc dầu biết rằng mình có thể giữ một địa vị quan trọng trong xã hội, mà vẫn rút về sống giản dị trong sự im lặng. Im lặng là bắt đầu minh triết. Bậc hiền triết không nói, mặc dầu là nói về Đạo, về Đức, vì Đạo và Đức không truyền được cho người khác bằng lời nói mà bằng sự nêu gương và bằng kinh nghiệm. “Người biết [Đạo] thì không nói, người nói thì không biết [Đạo]. [Người biết thì] ngậm miệng, bịt mũi”[43]. Người hiền giả thì nhũn nhặn vì khoảng năm chục tuổi tất phải biết rằng hiểu biết chỉ là tương đối, sự sáng suốt rất mong manh; nếu thấy mình may mắn mà biết hơn người, thì “rán giấu, đừng để lộ ra, đừng để cho cá tính mình toả ra mà cho nó hoà với sự tối tăm của người khác”, hoà đồng với hạng người chất phác chứ không phải với hạng người thông thái, tránh cái thói hay phản đối của bọn non nớt, chưa có kinh nghiệm. Bậc hiền giả không màng phú quí, quyền thế, tiết dục tối đa, gần như đạo Phật:

 

Tôi không có gì mà tôi coi trọng cả; tôi ước ao lòng tôi được yên ổn, hư tĩnh… Trạng thái hư tĩnh ấy phải đạt tới mức tuyệt cao và phải cương quyết giữ hoài… Người nào đạt được tới mức đó thì không ai dám coi thường, không còn cho cái gì là lợi hay hại, quí hay tiện nữa; người đó cao thượng nhất thiên hạ[44].

 

Khỏi phải nhấn mạnh rằng những ý đó rất hợp với ý của Jean Jacques Rousseau, như cùng một khuôn ra, mặc dù hai nhà đó sống cách nhau hơn hai ngàn năm.

 

Thứ triết lí vị nhân sinh ấy cứ sau một thời gian lại xuất hiện trong lịch sử nhân loại vì mỗi thế hệ có một số người chán phấn đấu, chán sự tàn bạo, sự phiền toái, náo nhiệt của đời sống thành thị, tả cảnh nên thơ của đời sống thôn quê mà họ tưởng tượng nhiều hơn là biết. “Thiên nhiên” là một danh từ mơ hồ có thể đưa ta tới bất kì thứ luân lí nào, thần học nào; nó thích hợp với khoa học của Darwin với thuyết phi đạo đức của Nietzsche còn chặt chẽ hơn với đạo của Lão tử, của Ki Tô. Nếu con người cứ theo thiên nhiên, hành động theo luật thiên nhiên thì có nhiều phần chắc chắn rằng người ta sẽ ăn sống nuốt tươi kẻ thù hơn là thản nhiên “làm” triết lí, người ta sẽ hung dữ chứ chắc gì đã khiêm tốn, nhất là làm thinh? Nai lưng ra cày ruộng, việc đó trái hẳn với bản năng của loài người vốn ham săn bắn và chém giết, canh nông không phải là cái gì “hợp thiên nhiên” hơn kĩ nghệ.

 

Vậy mà trong triết lí ấy có một yếu tố trị bệnh chứ; chúng tôi phải thú thực rằng có lẽ chính chúng tôi nữa, ngày nào thấy nhiệt tâm giảm đi rồi, thì sẽ tìm thấy trong triết lí ấy sự minh triết, và sẽ tìm kiếm sự tĩnh mịch của núi sâu, đồng ruộng để cho tâm hồn được nhẹ nhàng. Đời sống đong đưa như quả lắc, từ Voltaire qua Rousseau, từ Khổng tử qua Lão tử, từ Socrate qua Ki Tô. Mỗi ý nghĩ xâm chiếm tâm hồn ta trong một quãng dài hay ngắn của đời ta, chúng ta bênh vực nó nhiều hay ít, thành công nhiều hay ít, rồi chúng ta chán chiến đấu, giao lại cho thế hệ trẻ hơn mớ tin tưởng của ta lúc đó chẳng còn được bao nhiêu, để vô rừng sống với Jean Jacques và Lão tử; làm bạn với hươu nai, sung sướng không kém gì Machiavel[45] khi nói chuyện với nông dân chất phác; chúng ta để mặc cho thế giới muốn làm trò ma mãnh gì thì làm, không nghĩ tới việc cải thiện nó nữa. Lúc đó trước khi vô núi có lẽ chúng ta đốt hết sách vở đi, chỉ trừ một cuốn và vui vẻ tìm sự minh triết trong Đạo đức kinh.

 

Chúng ta có thể đoán được triết lí ấy làm chướng tai Khổng tử ra sao khi ông mới ba mươi bốn tuổi lại Lạc Dương[46], kinh đô nhà Chu, để hỏi Lão tử về sử[47]. Tương truyền Lão tử trả lời một cách chua chát bằng những lời cộc lốc và tối nghĩa:

 

Người quân tử gặp thời thì đi xe, không gặp thời thì đội nón lá mà đi chân. Ta nghe nói người buôn bán giỏi khéo chứa của, coi như chẳng có gì cả; người quân tử có đức tốt, coi bề ngoài như ngu đần. Thầy nên bỏ cái khí kiêu căng lòng ham muốn cùng sắc dục và dâm chí đi. Những cái đó không lợi gì cho thầy.

 

Tư Mã Thiên chép rằng Khổng tử hiểu ngay sự minh triết của lời khuyên đó, đã không bất bình mà trái lại về còn bảo các đệ tử: “Chim thì ta biết nó bay được, cá thì biết nó lội được, thú thì biết nó chạy được. Chạy, bay, lội thì ta có thể bủa lưới mà bắt được. Còn con rồng thì ta không biết nó cưỡi gió, cưỡi mây bay lên trời lúc nào. Hôm nay ta thấy Lão tử như con rồng vậy”[48]. Rồi Khổng tử từ đó rán thực hiện cái đạo của mình, sau thành triết gia có ảnh hưởng lớn nhất trong lịch sử.

 


[1] Tần, người phương Tây phiên âm là Chin hay Tsin.

[2] Các học giả ngày nay cho rằng cuối đời Xuân Thu Trung Hoa mới biết dùng sắt. (ND).

[3] Chính ra, Durant viết: “Khổng tử chỉ khen các chính trị gia trên mộ bia thôi”. (ND).

[4] Luận ngữ - chương Hiến vấn. (ND).

[5] Có hồi họ được chuộc tội bằng một số tiền.

[6] Tức lục bộ: lại, hộ, lễ, binh, hình, công. (ND).

[7] Chính trị gia, thi sĩ, triết gia Hi Lạp: 604-548. (ND).

[8] Vua thứ nhì của Rome: 714-671. (ND).

[9] Thời đó văn minh Trung Hoa phát triển rất mạnh, không thời nào bằng, theo tôi do bốn nguyên nhân: - Vì là thời loạn, kĩ nghệ chiến tranh tiến bộ, do đó kĩ thuật cũng tiến bộ; - các triết gia muốn tái lập trật tự, nên đưa ra mọi lí thuyết (trăm hoa đua nở); - ngôn luận rất tự do, vua chư hầu nào cũng muốn chiêu hiền đãi sĩ, dù không theo thuyết của họ thì cũng trọng họ, cho nên triết gia nào không được trọng dụng ở nước này thì qua nước khác; - sau cùng là tinh thần ganh đua của các vua chư hầu muốn thắng các nước khác để làm chủ thiên hạ. (ND).

[10] Bài này chúng tôi chưa tìm được nguyên văn. (ND).

[11] Theo bác Vvn thì đoạn này trích trong bài Bảo Vũ 鴇羽. Xem phụ lục. (Goldfish).

[12] Bản tiếng Pháp dịch khác hẳn: L’amour réponse, désempare: Ái tình chán nản trả lời.

[13] Một thứ cây gỗ cứng dùng để đóng xe. (ND).

[14] Bài này tôi cũng không tra được nguyên văn. (ND).

[15] Chúng ta chỉ mới có một bản dịch trong Kinh Thi của Tạ Quang Phát, bộ Quốc gia Giáo dục in năm 1969. (ND).

[16] Những tên nhân danh hay địa danh như tên này chúng tôi không tra được tiếng Hán nên phải giữ lối phiên âm của Pháp. (ND).

[Yu Tseu: trong bản tiếng Anh phiên âm là Yu Tze. (Goldfish)]

[17] Nghĩa là đời bình thản, không đau khổ, không danh vọng, không ai biết tới. (ND).

[18] Có thể gọi là 8 quẻ đơn để phân biệt với 64 quẻ kép – coi ở sau. (ND).

[19] Mỗi đường là một hào, vậy mỗi quẻ gồm ba hào. (ND).

[20] Có thể gọi là quẻ kép, mỗi quẻ kép gồm hai quẻ đơn, tức gồm sáu hào. Sáu mươi bốn quẻ gồm 64 x 6 = 384 hào. (ND).

[21] Luận ngữ chương Thuật Nhi có câu của Khổng tử: Gia ngã sổ niên ngũ thập dĩ học Dịch, khả dĩ vô đại quá hĩ: “Giá cho ta sống thêm ít năm nữa, tới năm chục để học Dịch thì may ra ta tránh được những điều lầm lớn”. Nhưng các học giả cho rằng chữ “ngũ thập” (năm chục) ở đây vô nghĩa, chắc là chữ “tốt” chép lầm. Vậy câu đó phải hiểu là: “Giá cho ta sống thêm ít năm nữa để học Dịch…”. Chúng ta đã có bốn bản kinh dịch kinh Dịch nhưng chỉ đọc bản dịch của Phan Bội Châu (Khai Trí xuất bản năm 1969) cũng đủ. (ND).

[Sách in sai vài chữ, dựa theo cuốn Kinh Dịch – Đạo của người quân tử, tôi đã sửa lại. Cũng theo cuốn Kinh Dịch đó, chữ “ngũ thập”: 五十; chữ “tốt”: 捽. (Goldfish)].

[22] Tác giả cho rằng Lão tử sinh trước Khổng tử, nhưng cụ Nguyễn Hiến Lê, trong một chú thích ở bản Niên biểu lịch sử Trung Hoa, bảo: “Ngày nay nhiều học giả Trung Hoa cho rằng Lão tử sinh sau Khổng tử…”. (Goldfish).

[23] Trong Cổ học tinh hoa có chép truyện này, từ Lã thị Xuân Thu, nhan đề là Hai phải. (Goldfish).

[24] Có lẽ tất cả những chuyện đó chỉ là truyền thuyết. Theo Từ Hải thì Đặng Tích thuộc phái pháp gia làm đại phu nước Trịnh đặt ra nhiều luật pháp, khắc lên miếng tre (nên gọi là trúc hình), treo ở chỗ công cho dân biết. Đặng bị triều đình giết, nhưng dùng trúc hình của ông. Trong cuốn Liệt tử (Là Bối xuất bản 1973) có một bài nói về Đặng Tích (trang 205) nhưng không cho biết tư tưởng cùng bộ luật của Đặng. (ND).

[25] Có thuyết còn nói 160 tuổi hoặc trên 200 tuổi. (ND).

[26] Lí chính là trái mận, thứ mận Đà Lạt (prune). (ND).

[Nguyên văn tiếng Anh là plum: trái mận, tiếng Pháp là prune; một nghĩa nữa là nho khô, tiếng Pháp là raisin. (Goldfish)].

[27] Giáo sư Giles [người Anh khảo cứu về Trung Hoa] cho rằng cuốn ấy được sáng tác sau năm 200 tr. T.L, bằng nhiều đoạn lấy trong cuốn Hàn Phi tử, học giả Legge trái lại bảo nó trong bộ Trang tử và bộ Sử kí của Tư Mã Thiên có nhiều đoạn nhắc tới Lão Đam, vậy có thể tin rằng Đạo đức kinh có thực. [Nên coi thêm Lão tử của Ngô Tất Tố- Khai Trí xuất bản – 1959 – Đam là tên tự của Lão tử, tên tục là Nhĩ].

[Lúc dịch cuốn Lịch sử văn minh Trung Hoa này, cụ Nguyễn Hiến Lê chưa viết cuốn Lão tử - Đạo đức kinh (về sau tôi sẽ gọi tắt là cuốn Lão tử. (Goldfish)].

[28] Nguyên văn: Tri giả bấc bác, bác giả bất tri (Chương 81), có lẽ nên hiểu là: Người minh trí thì không học rộng, mà học rộng không phải minh trí. (ND).

[Trong cuốn Lão tử, cụ Nguyễn Hiến Lê dịch là: Người sáng suốt hiểu đạo thì tri thức không cần rộng (vì nắm được chân lí là đủ rồi), người nào tri thức rộng thì không sáng suốt, hiểu đạo (vì tìm ngọn thì quên gốc).(Goldfish)].

[29] Nguyên văn: Cổ chi thiện vi Đạo giả, phi dĩ minh dân, tương dữ ngu chi. Dân chi nan trị dĩ kì trí đa. Cố dĩ tri trị quốc, quốc chi tặc, bất dĩ trí trị quốc, quốc chi phúc (Chương 65): Cổ nhân khéo thi hành Đạo thì không dạy cho dân sáng suốt (khôn lanh) mà để cho dân ngu (chất phác). Dân mà khó trị là vì đa trí (khôn lanh quá). Cho nên lấy trí mà trị nước thì là cái hoạ cho nước, không lấy trí trị nước thì là cái phúc cho nước. (ND).

[Trong cuốn Lão tử, cụ Nguyễn Hiến Lê dịch là: Thời xưa, người khéo dùng đạo trị nước thì không làm cho dân khôn lanh cơ xảo, mà làm cho dân đôn hậu chất phác. Dân sở dĩ khó trị là vì nhiều trí mưu. Cho nên dùng trí mưu trị nước là cái hoạ cho nước, không dùng trí mưu trị nước là cái phúc cho nước. (Goldfish)].

[30] Nguyên văn: Dân đa lợi khí, quốc gia tư hôn, có sách dịch là: dân có nhiều khí giới lợi hại thì quốc gia càng mau hỗn loạn. (ND).

[Trong cuốn Lão tử, cụ Nguyễn Hiến Lê chép là: Triều đa lợi khí, quốc gia tư hôn; và dịch là: Triều đình càng nhiều “lợi khí” [tức quyền mưu?] thì quốc gia càng hỗn loạn. (Goldfish)].

[31] Chương 57. (ND).

[32] Nguyên văn: Tiểu quốc quả dân, sở hữu thập bách chi khí nhi bất dụng. Có sách dịch là: “Nước nhỏ dân ít, dù có mười hoặc trăm thứ binh khí cũng không dùng đến”, như vậy tôi e trùng với hai hàng sau: “có áo giáp và binh khí mà không trưng ra”; lại có sách dịch là: “có một số dụng cụ nào đấy mà không được dùng”. Tôi nghĩ có thể dịch là: “…có những khí cụ gấp mười, gấp trăm sức người, mà không được dùng”. (ND).

[33] Trước khi có chữ viết, người ta thắt gút một sợi dây để ghi một việc cần nhớ. (ND).

[34] Nguyên văn: “An kì cư, lạc kì tục”, có lẽ nên dịch là: thoả mãn về nhà cửa, vui vẻ về phong tục, tức lối sống của họ. (ND).

[35] Sách in là “không quen lại”, tôi sửa lại thành “không qua lại”. (Goldfish).

[36] Trong cuốn Lão tử, cụ Nguyễn Hiến Lê dịch cả chương 80 như sau: Nước nhỏ, dân ít, dù có khí cụ gấp chục gấp trăm sức người cũng không dùng đến. Ai nấy đều coi sự chết là hệ trọng nên không đi đâu xa. Có thuyền, xe mà không ngồi, có binh khí mà không bày. [Bỏ hết văn tự] bắt dân dùng lại lối thắt dây thời thượng cổ. Thức ăn đạm bạc mà thấy ngon, quần áo tầm thường mà cho là đẹp, nhà ở thô sơ mà thích, phong tục giản phác mà lấy làm vui (nghĩa là chỉ lo ăn no, mặc ấm, ở yên, sống vui, ghét xa xỉ). Các nước láng giềng gần gũi có thể trông thấy nhau, nước này nghe được tiếng gà tiếng chó ở nước kia, mà nhân dân các nước ấy đến già chết cũng không qua lại với nhau.

[37] Nguyên văn: Vạn vật tịnh tác, ngô dĩ quan phục. Phù vật vân vân, các phục qui, kì căn. Qui căn viết tĩnh, thị vị phục mệnh. Phục mệnh viết thường, tri thường viết minh (Chương 16). Đoạn này có lẽ nên hiểu như vầy: Vạn vật đều sinh ra, hoạt động, ta nhân đó mà xem xét sự quay trở về. Ôi, mọi vật bời bời đều trở về cội rễ. Trở về cội rễ gọi là tĩnh (trái với động). Như vậy, bảo là trở lại mệnh. Trở lại mệnh tức là “thường” (bất biến). Biết đạo “thường” thì là sáng suốt. (ND).

[Trong cuốn Lão tử, cụ Nguyễn Hiến Lê dịch như sau: “(Xem) vạn vật sinh trưởng ta thấy được qui luật phản phục (vạn vật từ vô mà sinh ra rồi trở về vô). Vạn vật phồn thịnh đều trở về căn nguyên của chúng (tức đạo). Trở về căn nguyên thì tĩnh, (tĩnh là bản tính của mọi vật, cho nên) trở về căn nguyên gọi là “trở về mệnh”. Trở về mệnh là luật bất biến (thường) của vật. Biết luật bất biến thì sáng suốt”. (Goldfish)].

[38] Chương 22. (ND).

[39] Nguyên văn: đắc thiện hĩ, đức tín hĩ (chương 49), cũng có thể hiểu là: như vậy là có lòng tốt… như vậy là có lòng thành tín. (ND).

[Trong Lão tử, chương 49 có câu: “Thiện giả ngô thiện chi, bất thiện giả ngô diệc thiện chi, đức thiện. Tín giả ngô tín chi, bất tín giả ngô diệc tín chi, đức tín”. Cụ Nguyễn Hiến Lê dịch như sau: “Thánh nhân tốt với người tốt, tốt cả với những người không tốt, nhờ vậy mà mọi người đều hoá ra tốt; tin người đáng tin mà tin cả người không đáng tin, nhờ vậy mà mọi người đều hoá ra đáng tin”. (Goldfish)].

[40] Chương 43. (ND).

[41] Chương 78. (ND).

[42] Người Trung Hoa nói nhiều về thánh (như gọi vua Nghiêu, vua Thuấn, Văn vương, Võ vương, Chu công, Khổng tử… là thánh – ngay như Quan công đời Tam Quốc cũng hiển thánh nữa); về “đức” còn nói nhiều hơn nữa, đầy trong các kinh, thư. Nhưng quan niệm về “thánh” và “đức” của Trung Hoa khác quan niệm “Saint” và “Vertu” của phương Tây. Người phương Tây coi trọng đức piété (kính tín), đức dexotion (tín ngưỡng, sùng bái Chúa), những ông Saint của họ ngoài những đức khác ra, có hai đức đó tới một mức rất cao; còn những ông thánh Trung Hoa thường là những vị tài đức giúp được nhiều cho xã hội. Đọc hai ba hàng sau chúng ta sẽ thấy Will Durant hiểu điều đó. Lỗi tại tiếng Saint và Vertu không thật đúng với tiếng thánh và tiếng đức của Trung Hoa. (ND).

[43] Hai câu này ở chung trong đoạn đầu chương 56, tác giả đã tách ra dùng trong cách trình bày của ông. Đoạn đó như sau: Tắc kì đoài, bế kì môn (1), toả kì nhuệ, giải kì phân, hoà kì quang, đồng kì trần, thị vị huyền đồng (2): Bịt cái lỗ, đóng cái cửa (ý nói đừng nói, đừng nghe) (1), làm nhụt sự bén nhọn đi, bỏ chia rẽ đi (hoặc cởi sự rối loạn đi) hoà đồng các ánh sáng các bui bặm (ý nói hoà đồng với mọi người), như vậy là hoà đồng tới cùng cực. (ND).

[Ba chữ “Hai câu này” nghĩa là gồm câu trong ngoặc kép được chú thích này và câu trong ngoặc kép ở sau. Trong cuốn Lão tử, cụ Nguyễn Hiến Lê dịch đoạn đầu chương 56 như sau: “Ngăn hết các lối, đóng hết các cửa, không để lộ sự tinh nhuệ ra, gỡ những rối loạn, che bớt ánh sáng, hoà với trần tục, như vậy gọi là “huyền đồng” (hoà đồng với vạn vật một cách hoàn toàn)”. (Goldfish)].

[44] Chúng tôi không thể tìm ra được những câu, đoạn có nghĩa đó trong Đạo đức kinh. Chương XVI chỉ có câu “trí hư cực, thủ tĩng đốc”: Đến chỗ cùng cực của hư không, giữ vũng được cái “tĩnh”, là phảng phất có nghĩa của câu: “tôi ước ao lòng tôi được yên ổn hư tĩnh… trạng thái hư tĩnh ấy phải đạt tới mức tuyệt cao và phải cương quyết giữ hoài”.

Chúng ta chỉ mới có một bản dịch trọn Đạo đức kinh của Nguyễn Duy Cần (Khai Trí – 1961). Nghiêm Toản chỉ mới dịch 37 chương đầu (Bộ Quốc gia giáo dục xuất bản – 1959). Ngô Tất Tố chỉ mới dịch từng đoạn để giới thiệu tư tưởng Lão tử thôi (Khai Trí in lần thứ nhì – 1959). Đạo đức kinh rất tối nghĩa, mỗi nhà hiểu mỗi khác, nên các bản dịch có khi khác nhau rất xa. Coi Ngô Tất Tố, chúng ta thấy ngay chương đầu của Đạo đức kinh cũng đã có sáu bảy cách hiểu rồi!). (ND).

[45] Chính trị gia Ý (1469-1527), viết cuốn Le prince (thuật làm vua) tư tưởng như Hàn Phi ở Trung Hoa, chỉ trọng mưu mô xảo quyệt, coi thường đạo đức, về già không được nhà cầm quyền dùng nữa, vui sống với nông dân. (ND).

[46] Thời đó gọi là Lạc Ấp. (ND).

[47] Theo Tư Mã Thiên thì hỏi về lễ. (ND).

[48] Truyện này chép trong Sử kí của Tư Mã Thiên, nhưng có lẽ không có thực. Như tôi đã nói, nhiều học giả ngày nay cho rằng Lão tử sinh sau Khổng tử. (ND).

[Đoạn trên, trong cuốn Lão tử, cụ Nguyễn Hiến Lê dịch theo Sử kí của Tư Mã Thiên như sau:

“(…) người quân tử nếu gặp thời thì ngồi xe ngựa, không gặp thời thì đội nón lá mà đi chân. Tôi nghe nói người buôn giỏi thì giấu kĩ vật quí, coi ngoài như không có gì; người quân tử đức cao thì dong mạo như ngu độn. Ông nên bỏ cái khí kiêu căng, cái lòng đa dục, cái vẻ hăm hở cùng cái chí quá hăng của ông đi, những cái đó không có ích gì cho ông đâu. Tôi chỉ khuyên ông có bấy nhiêu thôi”.

Khổng tử về, bảo môn sinh: “Loài chim, ta biết nó bay được; loài cá ta biết nó lội được; loài thú ta biết nó chạy được. Chạy thì ta dùng lưới để bẫy, lội thì ta dùng câu để bắt, bay thì ta dùng tên để bắn. Đến loài rồng cưỡi gió mây mà lên trời thì ta không sao biết được. Hôm nay ta gặp ông Lão tử, ông ta là con rồng chăng?”. (Goldfish)].