Lịch sử văn minh Thế giới

Chương 1: Văn Minh Bắc Phi Và Tây Á

I. Văn minh Ai Cập cổ đại

1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH NỀN VĂN MINH AI CẬP CỔ ĐẠI :

1.1.1. Địa lí và dân cư :

Ai Cập nằm ở Đông Bắc Châu Phi, hạ lưu sông Nin. Sông Nin là một con sông dài nhất thế giới, khoảng 6500 km chảy từ Trung Phi lên Bắc Phi. Hàng năm, tới mùa mưa nước sông Nin cuồn cuộn đỏ phù sa bồi đắp cho những cánh đồng ở hạ lưu sông Nin. Đất đai màu mỡ, cây cỏ tốt tươi, các loài động thực vật phong phú, nên ngay từ thời nguyên thuỷ con người đã tập trung sinh sống ở đây đông hơn các khu vực xung quanh.

Tới cách ngày nay khoảng 6000 năm, con người ở đây đã biết sử dụng những công cụ, vũ khí bằng đồng. Công cụ bằng đồng giúp con người ở đây chuyển sang sống chủ yếu nhờ nghề nông, thoát khỏi cuộc sống săn bắn, hái lượm và sớm bước vào xã hội văn minh. Chính vì vậy mà cách đây hơn 2000 năm trước, một nhà sử học Hy Lạp là Hêrôđôt tới thăm Ai Cập đã có một nhận xét rất hay là “ Ai Cập là tặng phẩm của sông Nin”.

Về mặt dân cư, những cư dân cổ nhất ở lưu vực sông Nin là những thổ dân Châu Phi hình thành trên cơ sở hỗn hợp nhiều bộ lạc. Sau này, một số bộ tộc Hamit (Hamites) từ Tây Á xâm nhập hạ lưu sông Nin. Trải qua một quá trình hỗn hợp lâu dài giữa người Hamit và thổ dân Châu Phi đã hình thành ra những tộc người Ai Cập cổ đại.

1.1.2. Các thời kì lịch sử chính của Ai Cập cổ đại :

Do giáo trình này mục đích chính là làm cho người đọc hình dung được sự phát triển của văn minh nhân loại, vì vậy lịch sử của các trung tâm văn minh chỉ trình bày sơ lược ở mức độ các thời kì lịch sử chính.

Lịch sử Ai Cập cổ đại có thể chia ra làm 5 thời kì chính sau :

• Thời kì TảoVương quốc ( khoảng 3200 - 3000 năm TCN )

• Thời kì Cổ Vương quốc ( khoảng 3000 - 2200 năm TCN )

• Thời kì Trung Vương quốc ( khoảng 2200 - 1570 năm TCN )

• Thời kì Tân Vương quốc ( khoảng 1570 - 1100 năm TCN  )

• Thời kì Hậu Vương quốc ( khoảng 1100 - 31 năm TCN )

1. 2 . NHỮNG THÀNH TỰU CHỦ YẾU CỦA VĂN MINH AI CẬP CỔ ĐẠI :

1.2.1. Chữ viết, văn học :

Khoảng hơn 3000 nămTCN, người Ai Cập cổ đại đã sáng tạo ra chữ tượng hình . Muốn chỉ một vật gì thì họ vẽ những nét tiêu biểu của sự vật đó. Để diễn tả những khái niệm trừu tượng thì họ mượn ý. Thí dụ để diễn tả trạng thái khát thì họ vẽ ba làn sóng nước và cái đầu bò đang cúi xuống; để nói lên sự công bằng thì họ vẽ lông chim đà điểu ( vì lông đà điểu hầu như dài bằng nhau ).

Từ chữ tượng hình, sau này người Ai Cập cổ đại đã hình thành ra hệ thống 24 chữ cái. Vào thiên niên kỉ II TCN, người Híchxốt đã học cách viết của người Ai Cập để ghi lại các ngôn ngữ của mình. Về sau này, loại chữ viết ấy lại ít nhiều ảnh hưởng tới người Phênixi và người Phênixi đã sáng tạo ra vần chữ cái A , B ...Những chữ tượng hình của người Ai Cập được khắc trên đá, viết trên da, nhưng nhiều nhất là được viết trên vỏ cây sậy papyrus. Đây là một loại “giấy” cổ xưa nhất, do vậy ngôn ngữ nhiều nước trên thế giới, giấy được gọi là papes, papier ...Năm 1822, một nhà ngôn ngữ học người Pháp là Sampôliông ( Champollion ) đã tìm cách đọc được thứ chữ này.

Về văn học, những tác phẩm tiêu biểu còn lại như Truyện hai anh em, Nói Thật và Nói Láo, Đối thoại của một người thất vọng với linh hồn của mình , Người nông phu biết nói những điều hay ...

1.2.2. Tôn giáo :

Người Ai Cập cổ đại theo đa thần giáo, họ thờ rất nhiều thần. Ban đầu, mỗi vùng thờ mỗi vị thần riêng của mình, chủ yếu là những vị thần tự nhiên. Đến thời kì thống nhất quốc gia, bên cạnh những vị thần riêng của mỗi địa phương còn có các vị thần chung như thần Mặt trời ( Ra ), thần sông Nin (Osiris ).

Người Ai Cập cổ tin rằng con người có hai phần : hồn và xác. Khi con người chết đi, linh hồn thoát ra ngoài nhưng có thể một lúc nào đó lại tìm về nơi xác ( Họ tin rằng như khi bị ngất , hồn thoát ra ngoài tạm thời ). Vì vậy những người giàu có tìm mọi cách để giữ gìn thể xác. Kĩ thuật ướp xác vì vậy cũng rất phát triển.

1.2.3. Kiến trúc điêu khắc :

Người Ai Cập cổ đại đã xây dựng rất nhiều đền đài, cung điện, nhưng nổi bật nhất phải kể đến là các kim tự tháp hùng vĩ, vĩnh cửu. Người thiết kế ra Kim tự tháp đầu tiên để làm nơi yên nghỉ cho các pharaon là Imhotép. Người ta đã phát hiện ra khoảng 70 Kim tự tháp lớn nhỏ khác nhau trong đó có 3 Kim tự tháp nổi tiếng nằm ở gần thủ đô Cairo. Lớn nhất là Kim tự tháp Kêôp ( Kheops ) cao tới 146m, đáy hinh vuông , mỗi cạnh tới 230m. Đã mấy ngàn năm qua các Kim tự tháp vẫn sừng sững với thời gian. Vì vậy người Ai Cập có câu “ Tất cả mọi vật đều sợ thời gian, nhưng riêng thời gian phải nghiêng mình trước Kim tự tháp”.

Ngoài việc xây dựng các lăng mộ, người Ai Cập cổ còn để lại ấn tượng cho đời sau qua các công trình điêu khắc. Đặc biệt nhất là tượng Nhân Sư (Sphinx ) hùng vĩ ở gần Kim tự tháp Khephren. Bức tượng mình sư tử với gương mặt Khephren cao hơn 20m này có lẽ muốn thể hiện Khephren là chúa tể với trí khôn của con người và sức mạnh của sư tử.

1.2.4. Khoa học tự nhiên :

Về thiên văn, người Ai Cập cổ đã vẽ được bản đồ sao, họ đã xác định 12 cung hoàng đạo và sao Thuỷ,Kim, Hoả, Mộc, Thổ. Người Ai Cập cổ làm ra lịch dựa vào sự quan sát sao Lang ( Sirius ). Một năm của họ có 365 ngày, đó là khoảng cách giữa hai lần họ thấy sao Lang xuất hiện đúng đường chân trời. Họ chia một năm làm 3 mùa, mỗi mùa có 4 tháng, mỗi tháng có 30 ngày. Năm ngày còn lại được xếp vào cuối năm làm ngày lễ. Để chia thời gian trong ngày, họ đã chế ra đồng hồ mặt trời và đồng hồ nước.

Về toán học, do yêu cầu làm thuỷ lợi và xây dựng nên kiến thức toán học của người Ai Cập cổ cũng sớm được chú ý phát triển. Họ dùng hệ đếm cơ số 10. Họ rất thành thạo các phép tính cộng trừ, còn khi cần nhân và chia thì thực hiện bằng cách cộng trừ nhiều lần. Về hình học, họ đã tính được diện tích của các hình hình học đơn giản; đã biết trong một tam giác vuông thì bình phương cạnh huyền bằng tổng bình phương hai cạnh góc vuông. Pi của họ tính = 3,14 .

Về Y học, người Ai Cập cổ đã chia ra các chuyên khoa như khoa nội, ngoại , mắt, răng, dạ dày ... Họ đã biết giải phẫu và chữa bệnh bằng thảo mộc.

 

II. Văn minh Lưỡng Hà cổ đại

2.1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH NỀN VĂN MINH LƯỠNG HÀ CỔ ĐẠI:

2.1.1. Điều kiện tự nhiên, dân cư:

Lưỡng Hà là một vùng bình nguyên nằm giữa hai con sông Tigrơ và Ơphrát thuộc Tây Á. Người Hy Lạp cổ đại gọi đây là Mésopotamie, có nghĩa là vùng đất giữa hai sông. Tây Á phần lớn là núi và sa mạc, vì vậy vùng đất phì nhiêu năm giữa hai con sông này là nơi thường xảy ra các cuộc tranh chấp giữa các tộc người để tìm mảnh đất thuận lợi cho cuộc sống.

Về cư dân, người Sumer từ thiên niên kỉ IV TCN đã tới định cư ở Lưỡng Hà và xây dựng nên nền văn minh đầu tiên ở đây. Đầu thiên niên kỉ III TCN người Accat thuộc tộc Sêmit từ thảo nguyên Xyri cũng tràn vào xâm nhập và lập nên quốc gia Accát nổi tiếng. Cuối thiên niên kỉ III TCN, người Amôrit từ phía tây Lưỡng Hà lại tràn vào xâm nhập, chính họ đã tạo nên quốc gia cổ Babilon nổi tiếng trong lịch sử Lưỡng Hà. Ngoài ra còn có một số bộ lạc thuộc nhiều ngữ hệ khác nhau cũng tràn vào xâm nhập trong quá trình lịch sử. Qua hàng ngàn năm lịch sử, các tộc người này hoà nhập lẫn nhau, tạo ra một cộng đồng dân cư ổn định, cùng đóng góp xây dựng nên nền văn minh rực rỡ ở khu vực Tây Á.

2.1.2. Sơ lược quá trình lịch sử:

Lịch sử vùng Lưỡng Hà có thể chia ra làm các thời kì chính sau:

• Thời kì hình thành những thành bang đầu tiên của người Sumer: từ đầu thiên niên kỉ III TCN đến giữa thiên niên kỉ III TCN.

• Hình thành thành bang Accat: cuối thế kỉ XXIV đến cuối thế kỉ XXIII TCN

• Vương triều III của Ua: 2132 - 2024 TCN.

• Vương quốc cổ Babilon: đầu thế kỉ XIX TCN đến năm 729 TCN.

• Vương quốc tân Babilon và Ba Tư: năm 626 TCN đến 328 TCN.

2.2 NHỮNG THÀNH TỰU CHỦ YẾU CỦA VĂN MINH LƯỠNG HÀ CỔ ĐẠI:

2.2.1. Chữ viết , văn học:

Từ cuối thiên niên kỉ IV đầu thiên niên kỉ III TCN, người Lưỡng Hà đã sáng tạo ra chữ tượng hình. Đầu tiên chữ viết của họ là những hình vẽ, về sau họ đơn giản thành những nét vạch có ý nghĩa tượng trưng cho một hình vẽ nào đó. Họ thường dùng đầu cây sậy vót nhọn vạch lên những tấm đất sét còn mềm để lại dấu vết như hình những chiếc đinh. Vì vậy người ta hay gọi là chữ hình đinh, chữ hình góc, hay chữ tiết hình. Ngày nay, người ta còn lưu giữ được khoảng 2200 tấm sách bằng đất sét ở nhà bảo tàng của thành phố Ninivơ ( kinh đô của đế quốc Atxiri xưa kia ).

Chữ tiết hình do người Sumer phát minh ra đầu tiên, về sau nhiều dân tộc ở Lưỡng Hà đều sử dụng và có biến đổi. Chữ tiết hình trở thành thứ chữ để giao tiếp giữa các dân tộc ở Tây Á thời cổ đại. Về sau, người Phênixi, một dân tộc chuyên buôn bán quanh Địa Trung Hải thời đó đã dựa vào chữ hình góc của người Lưỡng Hà, một phần chữ tượng hình của người Ai Cập cổ đã đặt ra hệ thống chữ cái A, B... Từ chữ Phênixi đã hình thành ra chữ Hy Lạp cổ. Từ chữ Hy Lạp cổ đã hình thành ra chữ Latinh và chữ Slavơ và từ đó hình thành nên chữ viết của nhiều dân tộc trên thế giới ngày nay.

Các thể loại văn học chính ở Lưỡng Hà thời cổ thường là các thần thoại, anh hùng ca. Tiêu biểu là các truyện Khai thiên lập địa, Nạn hồng thuỷ, Gingamet .

2.2.2. Tôn giáo:

Thời kì đầu người Lưỡng Hà theo đa thần giáo, mỗi nơi có một vị thần riêng. Có nơi cùng một lúc thời nhiều thần. Họ thời các lực lượng tự nhiên như thần Trời ( Anu ), thần Mặt Trời ( Samat ), thần Đất ( Enlin ), thần Biển ( Ea ), thần Ái Tình (Istaro )...Về sau, cùng với sự xác lập quyền lực tối cao của hoàng đế, thần Macđúc ( Mardouk ) đã trở thành vị thần chung cho toàn đế quốc. Thần Samat được coi là con của thần Mặt Trăng (vì người Sumer cho rằng ngày là do đêm sinh ra ), Samat chuyên chịu trách nhiệm về tư pháp ( Trên cột đá ghi bộ luật của Hammurabi có khắc hình thần Samat đang trao bộ luật cho Hamurabi để vua thay thần trị dân ).

2.2.3. Nhà nước và pháp luật:

Nhà nước ban đầu của người Sumer được tổ chức theo chế độ quân chủ chuyên chế, đứng đầu là nhà vua được gọi là Patêsi nắm tất cả các quyền lực tối cao, lời nói của vua là luật pháp. Đến thời vương quốc Hammurabi thì tổ chức bộ máy nhà nước tương đối hoàn thiện.

Thế kỉ XVIII TCN, dưới thời Hammrabi ông cũng cho ra đời một bộ luật, bộ luật này gồm 282 điều khoản, được khắc trên một tấm đá cao 2m25, rộng 2m. Đây là bộ luật cổ nhất thế giới mà con người ngày nay biết được.

2.2.4. Nghệ thuật, kiến trúc:

Ở Lưỡng Hà ít gỗ đã, các công trình kiến trúc ở đây phần lớn được xây dựng bằng gạch nhưng cũng rất nguy nga, hùng vĩ. Nổi bật nhất trong nghệ thuật kiến trúc Lưỡng Hà là thành cổ Babilon và vườn treo Babilon được xây dựng vào khoảng thế kỉ VII TCN.

Thành Babilon (ở phía nam Batđa ngày nay )được xây bằng gạch có chu vi 16 km, cao 30 m, dày từ 6m đến 8,5m và có 7 cửa. Cổng thành Isơta được bọc đồng và trang trí bằng những bức phù điêu rất sinh động.

Vườn treo Babilon được người Hy Lạp cổ đại xếp vào một trong bảy kì quan thế giới. Đây là một khu vườn được xây vươn lên trời xanh, cao 77m và gồm có 4 tầng. Trên mỗi tầng có trồng những loại hoa thơm cỏ lạ sưu tầm từ Ai Cập tới Ấn Độ. Nước chảy róc rách, cây xanh mát mắt, chim hót véo von. Tây Á cảnh quan phần lớn là núi và sa mạc, những đoàn lái buôn trên “ con đường tơ lụa” khi đi đến đây thì thật là gặp cảnh thiên đường dưới hạ giới.

2.2.5. Khoa học tự nhiên:

Về toán học 

Ban đầu người Sumer sử dụng hệ đếm cơ số 5, về sau nhiều tộc người ở Lưỡng Hà sử dụng đồng thời cả cơ số 10 và cơ số 60. Ngày nay, chúng ta còn chịu ảnh hưởng của họ qua việc chia độ trên vòng tròn và chia thời gian.

Về hình học

Người Lưỡng Hà cổ đã biết tính diện tích các hình hình học đơn giản, đã biết về quan hệ giữa 3 cạnh trong một tam giác vuông. Họ đã biết tính phân số , luỹ thừa, khai căn bậc 2 và căn bậc 3; đặc biệt là họ đã giải được phương trình 3 ẩn số.

Về thiên văn học

Người Lưỡng Hà cổ lập ra khá nhiều đài để quan sát thiên văn, các nhà thiên văn hồi đó còn là các nhà chiêm tinh học. Họ cũng chia bầu trời làm 12 cung hoàng đạo, đã tính trước được nhật thực và nguyệt thực. Họ làm ra lịch dựa vào Mặt Trăng, một năm của họ cứ một tháng 29 ngày lại một tháng 30 ngày. Như vậy sau 12 tháng chỉ có 354 ngày, còn thiếu so với năm dương lịch. Để khắc phục hạn chế này , người ta đã biết thêm vào tháng nhuận.

Về Y học

Người Lưỡng Hà đã biết cách chữa trị các bệnh khác nhau về tiêu hoá, thần kinh, hô hấp và đặc biệt là bệnh về mắt. Y học đã chia thành nội khoa, ngoại khoa, họ cũng đã biết giải phẫu. Thần bảo trợ cho Y học là thần Ninghizita với hình tượng con rắn quấn quanh cây gậy mà ngày nay ngành y ở một số nước vẫn lấy làm biểu tượng.

 

III. Văn minh Arập

3.1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH NỀN VĂN MINH ARẬP:

3.1.1. Điều kiện tự nhiên, dân cư:

Bán đảo Arập phần lớn là núi và sa mạc, chỉ có một ít đồng cỏ thưa thớt. Tại bán đảo này chỉ có vùng Yêmen ở tây nam bán đảo là có nguồn nước. Chính vì vậy, thời cổ đại, khi hai vùng lân cận là Ai Cập, Lưỡng Hà đã bước vào xã hội văn minh thì ở bán đảo Arập, với dân cư thưa thớt vẫn sống theo chế độ bộ lạc quanh các ốc đảo.

Dân cư ở đây là các bộ lạc có nguồn gốc người Sêmít, một tộc người chuyên sống bằng nghề săn bắn, du mục cuối thời nguyên thuỷ, đầu thời cổ đại.

Do nằm ở trên con đường buôn bán Á - Phi - Âu, những người dân ở bán đảo Arập thời cổ đại, với khả năng chịu khổ cực trên sa mạc, thuộc đường đi nên họ đã trở thành những người chuyên chở hàng thuê trên những con đường sa mạc. Tới thế kỉ VII, nhờ kết hợp chăn nuôi với buôn bán nên ở bán đảo Arập kinh tế đã khá phát triển. Một số thành phố đã xuất hiện như Mecca, Yatơrip. Nhưng nhìn chung, cả bán đảo Arập còn đang bị chia xẻ bởi hàng trăm bộ lạc với những phong tục, tôn giáo khác nhau. Vấn đề đặt ra lúc này là cần phải thống nhất toàn bộ bán đảo để tạo điều kiện cho kinh tế phát triển, điều đó đã được thực hiện bởi một người có tên là Môhamét.

3.1.2. Sự hình thành và tan rã của đế chế Arập:

Môhamét suy nghĩ, muốn thống nhất toàn bộ bán đảo Arập thì phải có một hệ tư tưởng thống nhất, từ đó ông đã đề xướng ra đạo Hồi (Islam).

Xuất thân từ một cậu bé chăn cừu cực khổ, chuyên đi theo những đoàn lái buôn xuyên qua các sa mạc khắp vùng Tây Á, Môhamét đã học được nhiều điều.

Năm 610 ông bắt đầu truyền đạo ở Mecca. Số tín đồ theo ông ngày càng đông nên ông đã bị các tăng lữ, quí tộc ở Mecca truy nã gắt gao.

Năm 622 ông bỏ chạy từ Mecca lên phía bắc tới Yathrib, cách Mecca 400km. Thành phố Yathrib sau này được đổi tên là Medina, có nghĩa là thành phố của nhà Tiên tri.

Từ năm 622 đến năm 630 Môhamét xây dựng lực lượng. Đến năm 630 ông kéo 10 000 tay gươm về vây thành Mecca. Liệu sức chống không nổi, giới quí tộc Mecca mở cửa xin hàng và chấp thuận tin theo đạo Hồi. Môhamet phế bỏ tất cả các biểu tượng của tôn giáo đa thần trước kia, chỉ giữ lại tảng đá đen trong ngôi đền Kaaba và ông giải thích đó là biểu tượng của thánh Ala.

Đầu năm 632, đại hội Hồi giáo đầu tiên đã diễn ra ở Mecca. Tháng 6/632 Môhamet qua đời và được an táng tại Medina.

Sau khi Môhamet qua đời, những người kế tục Môhamet ( gọi là Khalif ) tìm mọi cách mở rộng lãnh thổ chịu ảnh hưởng của đạo Hồi. Từ thế kỉ VII tới cuối thế kỉ VIII, Arập từ một quốc gia đã phát triển thành một đế quốc bao trùm toàn bộ vùng đất từ lưu vực sông Ấn qua Tây Á, Bắc Phi, tới bờ Đại Tây Dương.

Nhưng từ giữa thế kỉ VIII, đế chế Arập đã bị chia rẽ thành nhiều dòng quí tộc, sự thống nhất không còn như trước. Năm 1258, quân Mông Cổ đánh chiếm Batđa (Bagdad), kinh đô của đế quốc Arập lúc đó. Đế quốc Arập bị diệt vong.

3.2. NHỮNG THÀNH TỰU CHỦ YẾU CỦA VĂN MINH ARÂP:

3.2.1. Tôn giáo:

Điểm đáng chú ý nhất của văn hoá Arập là đạo Islam. Đạo Islam ta thường hay gọi là đạo Hồi vì hầu hết dân tộc Hồi ở Trung Quốc theo đạo này.

Islam theo ngôn ngữ Arập có nghĩa là “phục tùng”, “tuân theo”. Giáo lí của đạo Islam nằm trong bộ kinh Koran, gồm tất cả 30 quyển, 114 chương.

Trong kinh Koran, luân lí và luật pháp, hoà trộn làm một . Theo Môhamet, kinh Koran là ghi lại những lời truyền dạy của thánh Ala.

Giáo lí của đạo Hồi gồm có 6 tín ngưỡng lớn ( Lục tín ), đó là:

Tin chân thánh: Chỉ tin duy nhất một thánh Ala. Ngoài thánh Ala, không công nhận một đấng thiêng liêng nào khác.

Tin thiên sứ: Theo kinh Koran thì thiên sứ do thánh Ala tạo ra từ ánh sáng . Có nhiều thiên sứ, mỗi thiên sứ cai quản về một công việc, và ghi chép về tất cả những hành vi tốt, xấu của con người.

Tin kinh điển: Bộ kinh điển duy nhất đáng tin, lấy đó làm thước đo mọi sự việc, đó là kinh Koran.

Tin sứ giả: Mohamet là sứ giả của thánh Ala phái xuống để truyền giảng những điều dạy của thánh Ala. Mọi điều truyền giảng của Môhamet đều là chân lí.

Tin tiền định: Các tín đồ của đạo Hồi tin rằng số phận của mỗi con người đều do thánh Ala an bài, con người không thể cưỡng lại được, đó là định mệnh.

Tin kiếp sau: Các tín đồ Hồi giáo tin rằng, sau khi chết đi con người sẽ sống ở một thế giới khác và chịu sự phán xét của thánh Ala vào ngày tận thế.

Về nghĩa vụ, đạo Hồi còn qui định:

Chỉ thừa nhận có thánh Ala và tuyệt đối tin tưởng vào thánh Ala. Môhamet là sứ giả của thánh Ala và là vị tiên tri cuối cùng.

Hàng ngày phải cầu nguyện 5 lần vào sáng, trưa, chiều, tối, và nửa đêm.

Hàng năm tới tháng Ramadan phải trai giới một tháng. Trong tháng này, từ lúc mặt trời mọc tới lúc mặt trời lặn, tuyệt đối không được ăn, uống. Nhưng những người già, người bệnh, phụ nữ có thai, trẻ em dưới 10 tuổi thì được miễn.

Phải làm việc thiện, bố thí cho người nghèo và trẻ mồ côi. Khalifa thứ hai là Omar có nói “Nhờ cầu nguyện chúng ta đi đến được nửa đường tới Thánh, nhờ trai giới, chúng ta tới được cửa Thiên cung của Ngài, nhờ bố thí, chúng ta sẽ vào được Thiên cung.”

Nếu ai có điều kiện, ít nhất trong đời phải hành hương về Thánh địa Mecca một lần. Người nào hoàn thành công cuộc hành hương này được coi là đã đắc đạo và được trao danh hiệu “Hadia” . Những Hadia được cộng đồng Hồi giáo ở quê hương rất kính nể. ( Có lẽ xưa kia đi bộ qua sa mạc để hành hương về Thánh địa Mecca không dễ dàng như đi ôtô, máy bay như bây giờ ).

Ngoài ra đạo Hồi còn có một số qui định như: cấm ăn thịt heo, cấm uống rượư, không thờ các tranh, tượng Thánh. Đàn ông ai cũng phải lấy vợ, ít nhất một lần, nhiều là bốn lần.

3.2.2. Văn học nghệ thuật:

Bộ kinh Koran không chỉ là một bộ kinh thánh mà còn là một tác phẩm văn hoá đồ sộ. Trong kinh Koran chứa đựng những truyền thuyết, những câu chuyện lịch sử, những lời truyền giảng của Môhamet, cả một số cách chữa bệnh... Chính nhờ bộ kinh Koran mà chữ viết của các quốc gia theo đạo Hồi ở Tây Á và Bắc Phi được thống nhất.

Một nghìn lẻ một đêm là một tác phẩm văn học vĩ đại của thế giới Arập. Tác phẩm này còn là một tác phẩm văn học vĩ đại của văn học thế giới. Chính vì vậy, dù là nước theo Hồi giáo hay không, tác phẩm Một nghìn lẻ một đêm vẫn được người dân ưa thích. ( 1001 còn chứa đựng một tính chất toán học dí dỏm, nó chia hết cho cả 7, 11, và 13 ; đó là những số nguyên tố )

Về nghệ thuật, do đạo Hồi cấm vẽ tranh, tạc tượng nên những tài hoa của nghệ thuật Hồi giáo chỉ còn đất thể hiện qua các công trình kiến trúc và các tấm thảm.

Nghệ thuật kiến trúc Hồi giáo cũng tạo ra nhiều công trình kiến trúc độc đáo, có giá trị cao trong kho tàng những công trình kiến trúc nhân loại. Nhiều cung điện, thánh đường với những mái vòm, tháp nhọn, những hàng cột mảnh, ở trong được trang trí bằng những đường hình học ( vì không được vẽ tranh, tạc tượng. )

3.2.3. Khoa học tự nhiên:

Trong quá trình mở rộng lãnh thổ đế quốc của mình, những người cầm đầu đế quốc Arập cũng rất có ý thức lưu giữ, thu thập và phát triển những giá trị tinh thần. Nhờ đó mà rất nhiều tác phẩm có giá trị của nhân loại có từ thời cổ đại lại được lưu giữ dưới những dòng chữ Arập. Kinh Cựu ước, nhiều tác phẩm của Arixtôt, Platôn... cũng được các nhà thông thái Arập dịch ra. Khi còn sống, Môhamet cũng đánh giá rất cao những giá trị tinh thần, Ông đã từng nói “Mực của nhà thông thái còn quí hơn máu của kẻ tử vì đạo”. Các tác phẩm dịch thuật hồi đó được trả bằng vàng theo trọng lượng cuốn sách.

Về Toán học, người Arập tiếp tục phát triển môn đại số, hình học, lượng giác và hoàn thiện hệ thống chữ số thập phân mà họ đã tiếp thu được từ người Ấn Độ. Các khái niệm sin, cosin, tang , cotang, là do chính các nhà toán học Arập đặt ra.

Về Vật lí, nhà thông thái Al Haitham của Arập đã viết ra cuốn “Sách quang học” được coi là cuốn sách có tính chất khoa học nhất thời trung đại.

Về Hoá học, người Arập đã biết chế tạo ra nồi nước cất để tạo ra nước tinh khiết sử dụng trong các thí nghiệm hoá học. Họ cũng biết nấu rượư Rum từ đường mía.

Về Sinh học, họ đã biết ghép cây để tạo ra những giống cây trồng mới.

Về Y học, họ đã biết chữa nhiều loại bệnh nội, ngoại khoa nhưng đặc biệt họ chú ý về nhãn khoa.

3.2.4. Giáo dục:

Người Arập cũng rất chú trọng đến giáo dục. Môhamet đã từng nói “ Tìm hiểu và mở mang tri thức là đang đi trên con đường tới với ThángAla.”

Trong thời kì hùng mạnh của mình, những người cầm đầu đế quốc Arập đã xây dựng 3 trường đại học lớn ở Cairo (Ai Cập), Baghdad (Irăc), và Cordou (Tây Ban Nha).

Họ tập trung những thanh niên ưu tú trên toàn đế quốc về đây học tập. Trường học không phải chỉ dạy kinh Koran mà còn dạy cả lịch sử, đạo đức, pháp luật, văn học, toán học và thiên văn...

Ngoài ra còn phải kể đến vai trò trung gian của họ. Chính nhờ người Arập mà những kĩ thuật làm giấy, thuốc súng, la bàn, nghề in của Trung Hoa mới được truyền sang Châu Âu; nhiều tác phẩm triết học của Hy Lạp, La Mã đã được truyền sang phương Đông; chữ số Ấn Độ, kĩ thuật dệt thảm, thuộc da của Siria thông qua các lái buôn Arập mà truyền bá khắp Á - Âu.