Giữa cơn rối loạn ghê gớm, Mary nhận thức được rằng Denis có lẽ đang ở cách mình sáu mươi dặm; còn nàng thì đang dấn thân trong một đêm bão tố chưa từng thấy. Nàng không có áo khoác, không nón, không quần áo đầy đủ, không tiền bạc, nhưng kể từ bây giờ, nàng có thừa nghị lực. Mím đôi môi ướt một cách quả quyết, Mary suy ngĩ, lựa chọn giữa hai con đường: Đi đến nhà ở Garshake hay đến Garroch tìm mẹ của Denis!
Garshake cách đây hai mươi dặm và nàng chỉ biết tên căn nhà là Vườn Hồng, chứ không hiểu nó nằm ở đâu. Hơn nữa, dầu có đến được ngôi nhà đó đi nữa, nàng cũng phải sống có một mình, không một đồng xu, không thức ăn với bụng mang dạ chửa. Thế là nàng chọn giải pháp thứ nhì. Ít nhất nàng cũng có thể tìm được nơi trú ẩn bên cạnh người mẹ chồng cho đến khi Denis trở về: Mẹ chàng sẽ không từ chối điều này. Một kỷ niệm chợt hiện về, khuyến khích nàng. Một hôm Denis có nói với nàng rằng: “Nếu gặp trường hợp xấu nhất, em có thể đến với mẹ anh” – Đó là điều nàng sẽ làm.
Muốn đến Darroch, nàng sẽ phải đi bộ. Nàng không biết có chuyến xe lửa nào đi từ Levenford đến Darroch vào buổi tối chủ nhật không? Mà nếu có, nàng cũng không biết giờ khởi hành và cũng không có tiền để mua vé! Thế là, Mary lại phải thêm một lần chọn lựa giữa hai đường đi: Đường đi thứ nhất là con đường chính nối liền hai thành phố, dài khoảng chin cây số; đường kia là một con đường nhỏ hẹp ít người đi, xuyên qua những cánh đồng, có đoạn thu hẹp lại thành đường mòn, nhưng ngắn hơn con đường thứ nhất gần bốn cây số. Mary cảm thấy sức mình quá yếu và trong người quá đau nhức nên quyết định đi theo con đường tắt, dài trên năm cây số.
Nằm dài trên mặt đất và được bức tường bao quanh sân che chở, nàng không cảm thấy sức mãnh liệt của cơn bão – dữ dội nhất từ một thế kỷ nay – đã tàn phá những vùng đất thấp của xứ Tô Cách Lan[i]. Cơn gió tây nam thổi với tốc độ chưa từng có: một trăm mười cây số một giờ! Trong thành phố, chỉ những người có việc cấp bách lắm mới ra đường và trong số họ những kẻ bạo dạn nhất cũng chỉ ngoài đường vài phút. Những miếng đá đen lợp nhà bị gió cuốn, hay với sức mạnh của một con dao máy chém, những ống khói lò sưởi bị nhổ đi nguyên vẹn và ném xuống mặt đường lát đá, vỡ tan. Tấm kính lớn rất dày ở mặt tiền của “Hội xây cất” bị gió đập tan ra từng mảnh. Trong tiếng ầm ầm của cơn bão, tiếng động của các vật rơi trên mặt đường vang lên như một trận ném bom liên tục.
Ở những phần thấp của thành phố, cơn mưa lớn dai dẳng làm nhiều khu phố bị ngập chìm. Nước lũ tràn qua vách tường theo lối cửa sổ và cửa lớn, làm ngập hoàn toàn tầng dưới.
Sét hoành hành trên vùng ngoại ô gây ra những thiệt hại nghiêm trọng hơn. Một người chăn cừu trên đỉnh núi Doran đã bị sét đánh chết ngay lập tức; hai người giúp việc nông trại trú mưa dưới một gốc cây bị cây ngã đè bẹp gí. Gia súc thiệt hại nặng nề, vô số cừu và bò cái bị chết giữa đồng hay trong khi đi tìm một nơi trú ẩn mong manh nào đó; và cả một đàn tụ tập lại bên hàng rào sắt đã bị điện giật chết.
Một chiếc tàu đậu trong bến vịnh Doran bị sét đánh chìm, những chiếc tàu khác bỏ neo ở cửa song, đứt dây neo và bị những con sóng dữ dội ném lên bờ.
Không hay biết gì về những chuyện đó, Mary chậm chạp đứng dậy. Gió liền chụp lấy nàng và toan xô nàng ngã xuống. Nàng cong người lại, cố chống chọi với cơn bão và lên đường giữa đêm tối mịt mù. Bộ quần áo ướt đẫm nổi phùng phình chung quanh nàng như những cánh buồm ướt, làm cản trở bước đi. Đúng lúc nàng rời nhà, một cái ống bằng chì bị bứt ra khỏi nóc, phóng xuống người nàng một cách nham hiểm, bay phớt qua đầu nàng – như cử chỉ độc ác cuối cùng của căn nhà – rơi cắm sâu xuống đất ướt.
Mary đi chưa được một trăm thước thì bắt buộc phải dừng lại. Nàng đã đến cây trụ đèn đường cuối cùng, tuy nhiên bóng tối vẫn dày dặc và nàng thoáng nghĩ người ta đã tắt đèn đường. Nhưng khi tiếp tục đi, nàng đụng vào trụ đèn đã bị ngã. Nàng loạng choạng tiếp tục, đầu cúi thấp, dò dẫm đường đi như một người mù và chỉ theo được con đường nhờ rất quen thuộc với nó và nhờ trực giác định hướng của mình. Tiếng động chung quanh đinh tai nhức óc đến độ nàng có thể la lớn mà không nghe được tiếng của chính mình. Gió như một dàn nhạc vĩ đại đánh lên tất cả các âm thanh của nó: âm thanh trầm sâu của đàn ống hòa lẫn với những nốt cao của kèn clarinette, tiếng kèn bugle inh ỏi lấn át tiếng kèn hautbois trầm hơn, những tiếng oán than của đàn vĩ cầm, tiếng đập chan chát của cái chập chõa và những hồi trống ầm ầm. Tất cả các âm thanh nghịch tai đó, đã tạo thành một bản nhạc ghê rợn.
Thỉnh thoảng có vài vật nào đó đập vào người Mary trong bóng tối. Những cành cây lớn nhỏ đủ loại quất vào mặt nàng. Có một lúc, một vật mềm dẻo quấn quanh cần cổ và hai cánh tay, khiến nàng thất thanh la lên, tưởng như có người ôm lấy mình; nhưng khi đưa hai tay lên, nàng nhận ra đó là cọng cỏ dài bị gió cuốn đi từ một đụn cỏ khô nào đó.
Trải qua những khó khăn ghê gớm, nàng đã đi được gần hai cây số và còn phải vượt nốt phần còn lại. Đây là đoạn đường đáng sợ nhất. Đó chỉ là con đường mòn xuyên qua một khu rừng dày đặc, lúc nào cũng âm u với những cây sầu thảm thì thầm với nhau những lời bi thương. Nhưng trong cái đêm kinh hoàng này, nó trở nên ghê rợn một cách khủng khiếp. Mary rùng mình với những ý nghĩ phải bước vào đó, nhưng bản năng sinh tồn cùng với một sự thôi thúc kỳ lạ trong lòng nàng, đã đem lại cho nàng sự dũng cảm cần thiết.
Gần như không thể nào nhận ra được con đường mòn. Nàng mò mẫm đi từng bước, hai tay đưa ra, lòng bàn tay mở rộng trước mặt. Tư thế này gây cho nàng một sự đau đớn ghê gớm ở bên sườn, nơi bị đá, nhưng nàng cần phải che chở khuôn mặt, chống lại sự va chạm của cây cối và bảo đảm cho những bước chân được đúng hướng hơn.
Lúc ở ngoài đồng, gió thổi theo một hướng nhất định, nhưng ở đây nó xoay tròn xung quanh các cây theo nhiều hướng khác nhau, khiến cho việc đi theo đường thẳng là rất khó khăn. Mary lại bị xô trượt từ bên này sang bên kia như một con tàu đang tìm con đường đi của mình giữa những cơn xoáy ác hiểm, trong một đêm tối không trăng sao. Nàng đã bị lạc khỏi con đường mòn khi thình lình một cơn gió lốc chụp lấy nàng, làm nàng mất thăng bằng và nó ném nàng về phía trái một cách dữ dội. Nàng té quỵ xuống, lòng bàn tay trái bị mũi nhọn của một cành đâm thủng. Trong một lúc, bàn tay bị mắc chặt vào cành cây gãy. Cố gắng hết sức, nàng gỡ nó ra, và chuệch choạng đứng lên.
Mary tiếp tục đi tới, hoàn toàn lạc lối. Nàng muốn đi khỏi khu rừng, nhưng không được. Đầu óc choáng váng, nàng lần mò tìm đường từ cây này sang cây khác, máu chảy từ bàn tay bị thương, sự kinh hãi, những đau đớn bên trong cơ thể làm nàng cuống cuồng hoảng hốt. Rét cóng đến tận xương tủy, tóc ướt sũng rũ xuống từng mớ rối nùi, toàn thân đầy nước mưa, nàng đi lang thang trong đêm tối giữa rừng. Nàng vấp ngã, loạng choạng, gượng đứng dậy, thụt lùi, rồi tiến tới, thân hình nghiêng ngã theo đủ nhịp độ điên cuồng và những âm thanh cuồng nộ trong rừng cây; gần như muốn điên lên, nàng đi loay hoay giữa một gốc cây bị bật rễ, không còn cảm giác gì hết, trừ sự đau đớn và sự ước muốn thoát khỏi nơi khủng khiếp đầy ám ảnh này. Đầu óc choáng váng, trống rỗng, nàng có cảm giác bóng tối chứa đầy những sinh vật hoang dại đang xoay tròn chung quanh nàng, bám sát hay chạm phớt nhẹ vào người nàng trong cuộc chạy trốn cuống cuồng. Mary cảm thấy lạnh, hơi thở dồn dập của những sinh vật ướt át đó đang lướt nhẹ và tự vạch lối đi qua rừng, chúng thì thầm bên tai nàng những câu chuyện kỳ lạ về Denis và đứa con của nàng, chúng gầm lên dữ dội như cha nàng hay rên rỉ như mẹ nàng. Tất cả những tiếng động chung quanh nàng, trở thành những lời ghê rợn và rời rạc của những hình ảnh ma quái đó. Nhiều lúc nàng hiểu rằng nàng đã điên, rằng nàng đơn độc, bị bỏ quên trong khu rừng này, nhưng nàng vẫn đi tới và trí óc lại tối sầm, bị che phủ bởi những hình ảnh khủng khiếp.
Thình lình, giữa lúc như sắp sửa hoàn toàn mất trí, bị rơi vào tình trạng đờ đẫn kỳ lạ, Mary ngước đôi mắt đau đớn nhìn lên trời, và trông thấy mặt trăng, một lưỡi liềm mỏng nằm trên những tầng mây chồng chất nhau lên như thể cơn giông đã ném nó lên đó. Nàng chỉ trông thấy nó thoáng qua, rồi những đám mây lại che khuất, nhưng cũng đủ để nhận ra gió chỉ thổi đến một cách đều đặn từ một phía, nàng không còn va vào các cây nữa. Nàng đã rời khỏi khu rừng.
Mary khóc òa lên vì vui mừng và liền ù té chạy, cố thoát xa khỏi rừng, thoát xa những sinh vật thì thầm trong đó. Nàng đã lạc đường, không một ý niệm nào về vị trí của mình, duy chỉ bản năng trốn chạy đã thúc đẩy nàng chạy bất cứ nơi đâu, người loạng choạng nghiêng về phía trước. Gió bây giờ giúp đỡ nàng, nhấc nhẹ nàng lên, thúc đẩy bước đi lảo đảo của nàng. Nàng đang ở trong cánh đồng với những cọng cỏ dài ẩm ướt quét vào hai chân, khi nàng lướt đi trên mặt đất sũng nước. Đây không phải là đất trồng trọt, bởi vì nàng đã băng qua những cụm dương xỉ, vấp vào một hòn đá bị chôn vùi phân nữa và phủ đầy rêu, nàng bị những bụi gai làm rách da; nhưng Mary không còn nghĩ đến việc suy luận mà cứ chạy tới, chạy tới nữa…
Đột nhiên trong tiếng ầm ầm, nàng nhận ra một tiếng động âm vang, nhịp nhàng, mỗi lúc một lớn hơn, nghe như tiếng réo dữ tợn của một thác nước – Nước sông đang dâng tràn lên bờ… Càng lúc, tiếng gầm réo càng vang dội, khiến nàng có cảm giác con sông mang đầy những mảnh vụn từ trên thượng nguồn đang lao về phía người nàng với một vẻ đầy đe dọa, cuốn theo trong dòng nước xoáy cuồn cuộn của nó những cây cọc và những hàng rào, những chiếc cầu gãy những thân cây nguyên vẹn và cả những xác chết gia súc.
Mary đã đi đến bờ sông trước khi hiểu nó là sông Lauren; con sông với điệu nước réo rắt êm đềm, một tối hôm nào, đã làm cho nàng và Denis say mê khi hai người lắng nghe khúc tình ca vang lên từ những dòng nước uốn khúc quanh co. Giờ đây cũng như nàng, nó hoàn toàn biến đổi. Mặt trăng hãy còn bị che khuất, nàng không phân biệt được gì hết, nhưng đứng trên bờ cao lắng nghe tiếng nước chảy ầm ầm trong niềm tuyệt vọng ghê gớm, nàng đã toan buông mình xuống dòng nước xoáy, để quên hết tất cả và để không còn ai nhớ đến nàng nữa. Cơ thể kiệt sức của nàng run lên trong khi nàng xua đuổi ý tưởng này, nàng suy nghĩ, và đây là mệnh lệnh; phải sống! Dầu có xảy ra điều gì, nàng cũng vẫn còn Denis, nàng đang cảm thấy chàng đang ra lệnh cho nàng phải sống, Mary quay lưng lại một cách mạnh mẽ để thoát khỏi tiếng gọi của dòng nước, nhưng trong khi vội vã bước lùi lại, chiếc giày ướt đạp nhầm một cục đất trơn và nàng rơi xuống bờ dốc thẳng đứng. Nàng bấu víu tuyệt vọng vào những cọng cỏ ngắn và những cây bấc trên sườn dốc, nhưng chúng bị gãy, bật rễ cây. Nàng cố bấu hai chân vào lớp đất sét: vô ích!
Mặt đất mềm của sườn dốc cũng ác hiểm như một băng hà. Và thay vì làm chậm bớt sự rơi xuống, những cử động cuống cuồng của nàng chỉ làm cho thêm nhanh hơn. Nàng rơi với một tốc độ không gì cản nổi xuống dòng sông, bị chìm ngỉm giữa những đám cỏ dại mọc dưới đáy và nước tràn vào phổi, khi nàng há miệng ra vì kinh hãi. Sức mạnh của dòng nước nhanh chóng cuốn nàng đi khoảng ba mươi thước về phía hạ lưu, trước khi nàng tìm cách cưỡng lại. Mary không biết lội, nhưng bản năng sinh tồn khiến nàng có vài cử động yếu ớt và tuyệt vọng để đưa cái đầu ra khỏi mặt nước. Không thể được: dòng nước chảy xiết làm nổi thành những đợt sóng cao không ngừng nhận chìm nàng xuống, và sau cùng, một cơn nước xoáy nắm lấy hai chân nàng kéo chìm xuống. Lần này nàng ở dưới nước lâu đến độ suýt bất tỉnh. Mary nghe như có tiếng chuông vang bên tai, phổi phồng lên, hai tròng mắt như sẵn sàng vỡ ra, nàng thấy những đốm đỏ nhảy múa trước mắt và nghẹt thở. Tuy nhiên nàng lại trồi lên mặt nước một lần nữa, và đúng lúc nàng nổi lên, bất động và hầu như bất tỉnh, một đợt sóng luồn vào dưới nách phải của nàng một khúc cột nhà, đang trôi trên mặt nước, Mary nắm lấy nó một cách máy móc và yếu ớt siết nó vào người. Thân hình bị chìm, tóc trôi bền bồng ờ đằng sau trong dòng nước, nhưng gương mặt Mary bây giờ đã ở trên mặt nước và nàng hít không khí vào đầy phổi, không còn cảm thấy gì nữa, ngoại trừ sự cần thiết phải thở. Nàng bám chặt vào khúc cây giữa những vật trôi dạt kỳ lạ thỉnh thoảng chạm vào người. Dòng nước lôi nàng đi thật nhanh, nhanh đến độ, khi hoàn toàn tỉnh lại, nàng hiểu nếu không trở vào bờ sớm thì sẽ bị va vào những tản đá nhọn rải rác dọc theo các ghềnh ngay ở phía trên của Levenford. Với tất cả những sức mạnh còn lại và luôn luôn bám vào khúc cột, nàng đạp chân liên hồi. Nước sông lạnh hơn nước mưa nhiều, bởi vì nó bắt nguồn từ một dòng suối trên núi phủ đầy băng. Cái lạnh xuyên đến tận xương tủy, hai chân đã mất hết cảm giác và nếu chúng cử động yếu ớt do tuân theo ý chí của nàng, thì nàng lại không hề cảm thấy chúng cử động. Không khí cũng trở nên lạnh, những hạt mưa bắt đầu rơi xuống, cứng như đá và sắc bén như những tảng băng, đập mạnh xuống mặt nước hay trên khúc cột như những viên đạn. Không một chút xót thương, chúng rơi lên mặt và đầu Mary làm bầm tím hai mắt của nàng. Hai tay phải ôm thật chắc khúc cột, nàng không thể che chở cho đầu và mặt nên đành hứng trọn cơn mưa tàn nhẫn này. Răng khua lập cập, bàn tay bị thương tê cóng lại, lưng bị chuột rút cứng đơ, Mary cảm thấy mình đang chết.
Trong khi chiến đấu quyết liệt để trở vô bờ, nàng không nghĩ đến mình hay Denis nữa và chỉ một ý nghĩ duy nhất ám ảnh: đứa bé trong bụng. Một bản năng cấp bách bỗng phát sinh như thể đã có một sự cảm thông đặc biệt giữa nàng và đứa bé, giúp nàng thấy rõ nếu nàng không ra nhanh khỏi nước, đứa bé sẽ chết. Nhưng chưa bao giờ nàng nghĩ đến nó với nhiều yêu thương như hiện giờ. Có những lúc nàng thù ghét nó như là một phần của cái cơ thể khốn khó của mình, nhưng giờ đây, nó gợi cho nàng một ước muốn thiết tha. Nếu nàng chết, dĩ nhiên nó cũng chết. Nàng nghĩ đến đứa con đang còn động đậy, mỗi lúc một yếu dần trong ngục tù của cái cơ thể không còn sự sống của nàng.
Bây giờ nàng đã trôi đến một nơi mà con sông dâng nước lên hai bên bờ làm ngập cả cánh đồng. Nàng cảm thấy dòng nước ở phía trái phẳng lặng hơn, và với chút sực lực yếu ớt, nàng cố gắng hướng về phía đó, nhiều lúc phải cố sức chống chỏi để thoát khỏi dòng nước chính. Nàng đã hầu như tuyệt vọng, khi đến một khuỷu sông, một cơn nước xoáy mạnh đã đẩy khúc cột đổi hướng. Nhưng may thay, nó vượt được đến vùng nước yên tĩnh hơn, không còn những đợt sóng, cũng không còn nước xoáy nữa.
Nàng để mặc khúc cột trôi cho đến lúc nó dừng lại, và lúc đó nàng run rẩy thòng hai chân xuống: chúng chạm đáy. Nàng đứng lên, nước ngập đến nữa bắp đùi, sức đẩy của con nước và cái lạnh cóng ngăn cản nàng cử động, nàng cố gắng tiến từng bước một, dần dần rời xa dòng sông và sau cùng ra khỏi vùng nước ngập.
Đưa mắt nhìn xung quanh với một nỗi vui mừng mãnh liệt, Mary nhận thấy giữa bóng tối dày đặc có một ánh đèn, như một niềm an ủi thiên liêng, xoa dịu ngay tất cả những đau khổ của nàng. Nàng đã đi trong một thế giới đầy những bóng đêm đen tối, và mỗi bước chân e sợ, rụt rè của nàng đều bị đe dọa bởi những nguy hiểm vô hình. Ánh đèn leo lét đó chiếu sáng một cách bình thản, nhưng đối với nàng, nó tượng trưng cho sự an toàn. Nàng nhớ lại, trong vùng này có một mái nhà tranh nhỏ bé. Nhưng dầu chủ của nó là ai, người ấy cũng không thể từ chối trước một cô gái với một thân thể như vầy giữa một đêm đen khủng khiếp như vầy. Nàng loạng choạng đi về phía ánh đèn.
Một sức nặng dữ dội ở phần dưới cơ thể buộc nàng phải cong người lại và mỗi cử động gây cho nàng những đau đớn xé người. Nhưng nàng vẫn kiên trì tiến tới. Ánh đèn như đã gần hết, nhưng dường như nàng càng tiến tới nó càng lùi lại. Hai chân bị lún sâu trong đất ngập nước, nàng phải cố gắng rút lên và mỗi bước đi càng làm nó lún sâu hơn. Tuy nhiên Mary vẫn tiếp tục đi, băng qua một vùng ghê rợn chỉ có nước với bùn. Một chiếc giày bị dính lại trong một vũng bùn nhão và không thể nào rút ra được. Da nàng trắng nhợt vì bị ngâm nước khá lâu, bây giờ lem luốc những bùn và y phục rách nát của nàng kéo lết bết ở đằng sau. Nàng đã đến rất gần ánh đèn, nhưng thình lình bị hụt chân, rơi vào một hũng đất lún thụt, chất bùn ẩm và mềm bám siết vào hai chân, từ từ kéo nàng xuống.
Nàng không thể nào rút bàn chân ra được, những bọt khí nỗi lên từ những vũng bùn làm nàng nghẹt thở. Nàng cảm thấy hình như nàng được đem ra khỏi cái chết lạnh và sạch ở dưới dòng sông để lên đây hưởng một cái chết xứng đáng với nàng hơn, vì tấm vải liệm là một vũng bùn nhơ. Số phận của tấm thân ô uế của nàng lại phải tan rữa trong vũng bùn hôi thối này và biến thành một phần của nó. Đã thoát được biết bao nguy hiểm để rồi phải chết ở đây, một cách tức tưởi, giữa lúc ở trước mắt – rất gần – là sự sống cho cả hai mẹ con! Nàng phẫn nộ. Một sức mạnh bỗng bừng dậy trong nàng và với một tiếng thét lớn, nàng lao người về phía trước, bấu víu kích liệt vào đám rêu ướt trên mặt đầm lầy. Loại cỏ nhợt nhợt này rất khó nắm, nhưng những ngón tay co quắp bấu vào chúng với một sức cuồng nhiệt dữ dội, đã đưa nàng ra khỏi cạm bẫy của tử thần.
Thở hổn hển, Mary cố lê chân đến một miếng đất vững chắc, chỉ cách ánh đèn không đầy năm mươi thước, tuy vậy nàng cảm thấy mình sẽ không bao giờ đến đó được. Nàng từ bỏ ý định đến đó và tuyệt vọng nằm khóc thổn thức giữa lúc một cơn mưa lại đổ xuống. Những tiếng rống yếu ớt của bầy gia súc vang đến tai nàng trong cơn bão. Một lát sau, nàng lại nghe tiếng rống đó và nhận thấy lờ mờ trong bóng tối, ở bên phải nàng, hình bóng mơ hồ của một cái nhà. Mặc dầu trí óc đang rối loạn, nàng nhận thấy đó có thể là nơi trú ẩn. Bằng một cố gắng cuối cùng, Mary loạng choạng vùng đứng dậy, lảo đảo tiến đến nhà kho rồi ngã xuống bất tỉnh.
Đó chỉ là một cái chuồng bò. Được xây cất bằng những viên đá lớn mà những kẽ hở được phủ đầy rêu, nó rất ấm cúng, mái nhà rất thấp nên tránh được sự tàn phá của cuồng phong. Không khí trong chuồng bò đượm mùi hỗn hợp của rơm, phân và nước tiểu của súc vật. Ba con bò cái đứng trong các ngăn của chúng, động đậy một cách dịu dàng. Trong bóng tối, những cái vú trắng gần như sáng lên. Đôi mắt lớn u buồn của chúng – đã quen với bóng tối – rụt rè nhìn con người kỳ lạ đang nằm thoi thóp trên mặt đất. Rồi, sau khi nhận thấy con người đó vô hại, chúng không thèm chú ý đến nữa, thản nhiên quay đầu đi chỗ khác, nhai nhai một cách bình thản.
Mary chỉ ngất đi một lúc: nàng tỉnh lại trong những cơn đau nhói ghê gớm. Bắt đầu từ trong lưng, chúng lan ra khắp người nàng, rồi bên trong hai bắp đùi với một sức ép chậm nhưng mãnh liệt, dần dần biến thành một cơn đau toàn diện, không thể chiu nổi. Rồi, thình lình cơn đau dứt và nàng nằm bất động.
Trong chuồng bò hôi hám, hai mắt nhắm nghiền hai tay và hai chân rũ liệt, thân hình nằm trên một đống phân bò nóng, hai hàm răng nghiến chặt, nàng rên rỉ đau đớn. Những giọt mồ hôi lóng lánh trên trán từ từ lăn xuống đôi mi khép kín.
Những cơn đau bây giờ xảy ra gần nhau hơn và giai đoạn dữ dội kéo dài hơn. Khi nó dịu xuống, chờ đợi giai đoạn tới là một cực hình, ra khỏi bao trùm cả người, chạy luồn trong tất cả những dây thần kinh. Những tiếng la của nàng hòa lẫn với những tiếng gào thét không ngừng của gió. Tất cả những đớn đau mà nàng đã phải chịu đựng trước đây không còn ăn thua gì so với cơn hấp hối hiện tại!
Thân thể nàng vặn vẹo một cách yếu ớt trên nền đá và máu đổ ra chung quanh nàng hòa lẫn với mồ hôi và chất bẩn. Nàng cầu khẩn cái chết và trong cơn hoảng hốt, nàng gọi Denis, gọi mẹ với những tiếng rên rỉ thoát ra từng chặp với hai hàm răng nghiến chặt. Chỉ có gió trả lời cho tiếng kêu đó. Cất cao giọng, gió thét lên lời chế nhạo và đổ xô đến gào thét chung quanh chuồng bò.
Mary nằm trơ trọi đó cho đến phút cơn bão đạt đến độ mãnh liệt của nó: nàng sinh một đứa con trai, rồi thiếp đi trong hố thẳm của cơn mê.
Ra đời non tháng, đứa bé choắt choeo nhăn nhúm. Hãy còn dính với mẹ nó, những ngón tay đỏ hỏn của nó bấu víu một cách yếu ớt vào người nàng, tìm kiếm không khí, đầu lắc lư trên cái cổ nhỏ xíu. Nó thở thoi thóp, trong khi mẹ nó bị mất máu và tái nhợt dần dần. Rồi nó buông ra một tiếng khóc “oe oe” đầu đời.
Như để trả lời cho tiếng kêu này, cánh cửa chuồng bò từ từ mở ra và ánh sáng của chiếc đèn lồng mơ hồ rọi vào bóng tối. Một bà già bước vào, đầu và tay trùm một chiếc khăn dày, đôi guốc của bà kêu lớn theo từng bước đi. Bà đến xem chừng những con bò cái. Bà vuốt cổ, sờ hông chúng, vỗ về chúng.
-“Nào, Pansy đẹp đẽ của tao”, bà lẩm bẩm “và mày, Daisy, còn con La Ronge nữa, lại đây, lại đây nào, nào… Đúng là một đêm kinh khủng: cơn bão ghê gớm quá! Nhưng tụi bây vẫn bình tĩnh, tụi bây không hoảng hốt, tốt lắm các con của ta! Các con có một mái nhà vững chắc, và ta sẽ luôn ở gần bên các con. Các con đừng sợ! Các con sẽ…”. Nói đến đây bà bỗng dừng lại và ngẩng đầu lên. Dường như có một tiếng kêu nhỏ, nhưng do tai không còn thính và tiếng ầm ầm của cơn bão che lấp, bà cho mình đã nghe lầm, toan quay trở ra. Nhưng rồi lại nghe rõ hơn, cũng tiếng oe oe và tiếng rên rỉ đó.
-“Cái gì… Cái gì vậy?” Bà lo ngại nhìn quanh. “Tôi chắc chắn đã nghe một cái gì… một cái gì như một tiếng rên nho nhỏ”. Bàn tay run run của bà hạ cái đèn lồng xuống thấp, tìm tòi trong bóng tối, rồi thình lình dừng lại, vẻ mặt hoảng hốt, bà kêu lên. “Ơ, ơ! – một đứa bé trai và… và mẹ nó… Cô ấy đã chết rồi? Ôi! Cái đêm kinh khủng này, thật kinh khủng. Một điều mà đôi mắt già nua của tôi mới thấy lần đầu”.
Chỉ trong một giây, bà đặt chiếc đèn lồng xuống đất và quì gối xuống. Không một chút ghê tởm, hai bàn tay thô kệch của bà bắt đầu làm việc, với những cử động khéo léo của một người đàn bà nông dân đầy kinh nghiệm. Nhanh chóng, nhưng không hấp tấp, bà đem đứa bé ra và bọc nó vào cái khăn choàng của bà. Sau đó, bà chăm sóc người mẹ một cách thành thạo và đã chận đứng được cơn băng huyết. Trong khi lăng xăng làm việc, bà không ngừng tự nói với mình. “Chưa bao giờ thấy!... cô bé đáng thương gần như sắp chết, cô quá trẻ và quá dễ thương. Tôi phải giúp cô ấy hết sức tôi. Bây giờ cô ấy đã đỡ hơn… Nhưng, mà, tại sao cô ấy không vào nhà? Tôi luôn luôn sẵn sàng cho cô ấy vào. Chà may mắn là tôi đã đến đây thăm chừng mấy đứa này…”. Bà vò hai bàn tay vào Mary, chà xát đôi má nàng, đắp khăn lên người nàng và vội vã đi ra. Bà gọi cậu con trai đang ngồi trước ngọn lửa.
- Nhanh lên, con trai! Hãy phi ngựa đến Levenford tìm một bác sỹ bằng mọi giá… Có một cô gái trong chuồng bò. Đi ngay lập tức, đừng hỏi một tiếng. Đây là chuyện sống chết.
- Cái gì? – Cậu ta kêu lên một cách sửng sốt với ánh mắt lờ đờ - Trong chuồng bò của chúng ta?
- Cơn bão đã đưa cô ấy đến. Nếu con không đi nhanh thì cô ấy sẽ chết. Nhanh lên, đi tìm bác sỹ nhanh lên!
Cậu đứng dậy, hãy còn ngơ ngác, vừa khoác chiếc áo măng-tô vào người vừa nói lẩm thầm:
- Chưa bao giờ thấy chuyện đó… trong chuồng bò. Cô ấy bị bệnh gì?
- Đừng hỏi gì hết, hãy đi liền, và kệ cha con ngựa, cứ phi nhanh chừng nào tốt chừng ấy.
Bà đẩy cậu ra ngoài đợi cậu nhảy lên ngựa xong xuôi mới trở vô chọn một chiếc soong, đổ sữa và bắc lên bếp hâm nóng. Rồi, một tay cầm chăn giường, một tay bưng ly sữa, bà chạy ra chuồng bò, cẩn thận nhấc nhẹ đầu Mary lên. Sữa được đổ một cách khó khăn vào giữa đôi môi đã tái xanh của nàng. Bà lắc đầu với một vẻ nghi ngờ, lẩm bẩm:
- Tôi không dám lắc mạnh cô ấy, cô ấy yếu quá!
Bà ẵm đứa bé vào phòng bếp ấm cúng, rồi quay trở lại đem cho Mary một cái khăn sạch và một cái chăn khác.
- Nào, cô bé của tôi, như thế này, cô sẽ được ấm – Bà nói thì thầm vừa bọc cơ thể mảnh khảnh của Mary trong chiếc chăn thứ hai. Sau đó một cách nhẹ nhàng khéo léo, bà dùng chiếc khăn sạch thấm nước lau hết bùn dính trên gương mặt nhợt nhạt và lạnh giá của nàng.
Sau khi đã làm hết khả năng của mình, bà ngồi chồm hổm trên mặt đất, kiên nhẫn chờ đợi, mắt không rời Mary một giây, thỉnh thoảng chà hai bàn tay bất động và vuốt ve vầng trán lạnh buốt của nàng. Bà ngồi như thế gần một tiếng đồng hồ.
Cuối cùng, cánh cửa mở ra và một người đàn ông bước vào cùng với một luồng gió và mưa lạnh buốt.
- À, bác sỹ, ông đã đến rồi. Tôi sợ ông không đến kịp. – Bà kêu lên.
- Có chuyện gì thế? – Bác sỹ hỏi nhanh, vừa tiến đến gần.
Bà giải thích bằng vài tiếng. Ông bình thản gật đầu và cúi xuống nhìn cái thân hình đang nằm sóng sượt trên mặt đất.
Đó là bác sỹ Renwick, một bác sỹ trẻ tuổi và có tài, nhưng mới hành nghề ở Levenford và muốn tạo cho mình một số thân chủ đông đảo. Đó là lý do đã khiến ông vội vàng đến vào một đêm như thế này trong khi hai đồng nghiệp của ông được mời trước nhưng từ chối. Ông quan sát gương mặt xanh xao của Mary, thấy yếu và không đều. Trong khi bác sỹ đưa mắt mình theo cây kim chỉ giây trên đồng hồ mình bà cụ nhìn ông với vẻ lo lắng.
- Cô ấy có sao không, bác sỹ?
- Cô ấy là ai vậy?
- Tôi hoàn toàn không biết cô ấy là ai. Nhưng cô ấy là một cô bé xinh đẹp, đáng thương – Bà có vẻ như muốn khuyến khích bác sỹ làm hết sức mình.
- Đứa bé?
Ở trong phòng bếp, còn sống, nhưng nó nhỏ xíu.
Ông thầy thuốc lạnh lùng nhìn bằng con mắt nhận xét cái hình dáng đang nằm bất động trước mắt ông, nhưng lòng ông đã xúc động. Bằng một ánh mắt đầy kinh nghiệm, ông có vẻ như gợi lại tất cả những nỗi đau đớn mà cô gái đã chịu đựng, như thể lịch sử của chúng đã được in một cách không thể xóa nhòa được trên gương mặt của cô. Ông nhìn cái mũi thẳng, thanh tú, những quần thâm dưới đôi mắt đen, đôi môi dịu dàng nhợt nhạt trễ xuống một cách thảm hại; và một tình cảm thương hại nỗi lên trong ông, pha lẫn một thoáng âu yếm kỳ lạ.
Ông cầm bàn tay yếu ớt buông thỏng và giữ nó trong bàn tay ông, như để truyền cho nó một sinh lực. Rồi, lật bàn tay lại, ông khám phá ra lổ thủng ở lòng bàn tay và buột miệng kêu lớn:
- Cô bé đáng thương, còn quá trẻ mà phải ở trong hoàn cảnh khốn khổ như vậy! – Và như chợt hổ thẹn vì sự yếu đuối của mình, ông nói tiếp bằng một giọng rắn rỏi hơn:
- Cô ấy ở trong tình trạng rất nguy kịch, băng huyết nặng và sốc, cần phải đưa đến bệnh viện.
Nghe những lời này, cậu nông dân trẻ tuổi, nãy giờ vẫn đứng im lặng ở ngoài cửa, nói vào:
- Nếu bác sỹ muốn, tôi sẽ lắp con ngựa vào xe trong ba phút!
Renwick đưa mắt nhìn bà cụ hỏi ý kiến
Bà vồn vã đồng ý:
- Vậy thì tốt lắm!
Bác sỹ đã quyết định trường hợp này không hứa hẹn có tiền thù lao, và có thể có hại cho danh tiếng của ông, nhưng nỗi xúc động đã khiến ông quyết định nhận lãnh trách nhiệm. Ông tự cảm thấy có bổn phận đó. Ước muốn cứu được Mary sáng rực trong đôi mắt ông, ông nói lớn.
- Không phải chỉ có cơn sốc thôi. Sự hô hấp của cô ấy làm tôi lo ngại… có thể đã bị viêm phổi, và lúc đó,…
Renwich lắc đầu một cách đầy ý nghĩa, rồi lấy ra một viên thuốc hồi sức cho Mary uống.
Chiếc xe ngựa đã sẵn sàng ở trước cửa. Người ta đặt đứa bé vào trong một góc xe rồi ẵm Mary lên, đặt nằm bên cạnh nó. Renwick bước lên, đỡ người bệnh trong hai cánh tay ông. Lập tức cậu nông dân nhảy lên ghế và ra roi.
Thế là chiếc xe cứu thương kỳ lạ, lắc lư và chồng chềnh, ra đi trong một đêm tối bão bùng.
Chú thích:
[i] Tô Cách Lan : Phiên âm tên xứ Sotland, phía Bắc nước Anh. Nơi đây thường có sương mù dày đặc. Nói “sương mù Tô Cách Lan” là nói đến một thứ sương mù dày đặc.