Sau khi Tịnh Huyền và A Loan rời khỏi núi, Tịnh Huyền bèn thuê cho nàng một chiếc xe lừa, còn tặng thêm A Loan hai mươi mấy ngân lượng làm lộ phí. Rồi tiểu hòa thượng dặn dò xa phu một hồi, mới cất bước ra đi.
A Loan thầm cảm kích ân tình của sư đồ Thiết Trượng Tăng, nhưng nàng lại nghĩ :
“Hai người họ sư phụ thì sử dụng một thiết côn nặng nề, đồ đệ lại tinh thông thuật điểm huyệt. Nếu cùng nhau hợp lực giao đấu với Tiểu Nhạn, dù Tiểu Nhạn có võ nghệ cao cường, e rằng cũng không thể là đối thủ của bọn họ”.
Vì thế, lòng nàng lại lo lắng thương tâm. Bao nhiêu tình cảm yêu thương, hận ghét mâu thuẫn nhau giằng xé trái tim nàng không yên.
Xe đi một ngày, khi trời tối cũng vừa đến một khách điếm.
A Loan đưa tiền cho thê tử của khách điếm mua giùm nàng một bộ y phục và một đôi hài mới. Y phục tuy không vừa vặn, nhưng nàng nghĩ đến Vân Thê lãnh thì bộ y phục này đã được thay bằng y phục đạo cô. Thế nên nàng mặc cũng chẳng bao lâu, vì vậy không quan tâm lắm.
Ngày hôm sau, đi xuôi về phía dưới. Lộ trình dài dằng dặc, nàng chẳng biết chút đường đi, chỉ dựa vào xa phu dẫn dắt.
Lại đi liên tiếp hai ngày nữa, đến đại đạo thì thấy Thiết Trượng Tăng và Tịnh Huyền đang đón ở đó. Họ chỉ đường cho xe đi vào trong núi. Đến dưới sơn lãnh có một rừng tùng âm u, thì xe đứng lại, vì sơn lộ hiểm trở, cực kỳ khó đi.
Những thương thế của A Loan trải qua mấy ngày đường gian khổ, càng thêm trầm trọng, ngay cả xuống xe nàng cũng chẳng còn đủ hơi sức.
Thiết Trượng Tăng bảo Tịnh Huyền cõng nàng lên núi. Lát sau đã vào đến Cửu Tiên quan u tịnh như cõi thiên đàng.
Lúc nàng đến thì đạo cô Đạo Đăng không có trong quan, Thiết Trượng Tăng bèn giao A Loan cho mấy đạo cô trong am chăm sóc, bảo họ dọn cho nàng một căn phòng để dưỡng thương.
Thiết Trượng Tăng và Tịnh Huyền đến một khách điếm của tăng nhân trên trấn mà cư trú.
Qua hai ngày, đạo cô Đạo Đăng mới trở về Cửu Tiên quan.
A Loan vừa thấy tướng mạo của lão đạo cô, cảm thấy bà ta là người hung ác. Mỏ nhọn, mắt tròn, nhưng đạo cô lại đối với A Loan rất tốt, dặn nàng an tâm ở đây dưỡng thương, sau khi lành lặn, sẽ thu nhận A Loan làm đồ đệ.
Đạo Đăng còn nói :
- Giang Tiểu Nhạn thù nhân của nhà thí chủ hiện đã ở Tử Dương huyện, giết chết Long Chí Đằng rồi đào thoát, có lẽ là đi Xuyên Bắc. Thí chủ an tâm, sớm tối bọn ta sẽ thay Côn Lôn phái mà báo thù cho các người.
A Loan đáp “vâng”, nhưng tự trong thâm tâm nàng lại thực lòng lo lắng thay cho Tiểu Nhạn.
Thiết Trượng Tăng lại đến am này mấy lần, nhưng không thấy có Tịnh Huyền.
Mỗi lần Thiết Trượng Tăng đến, đều dùng thổ ngữ nói chuyện với đạo cô về Tiểu Nhạn.
Lâu nay A Loan cũng hiểu được một ít thổ ngữ mà Thiết Trượng Tăng nói, nên biết Tịnh Huyền đã được sư phụ sai đi Xuyên Bắc thám thính tin tức Tiểu Nhạn. Hồi khứ đã hai lần đem tin về cho hay Giang Tiểu Nhạn ở Loa Sư lãnh đã giết chết quan nhân, cướp quan quyến.
Đạo Đăng và Thiết Trượng Tăng rất tin tưởng vào tin tức này. Họ bày tỏ sự căm hận tiếc là không ngay lập tức bắt ngay Tiểu Nhạn mà hành hình. Dường như trong đó còn có lý do khác, đó là họ không muốn để cho một Giang Tiểu Nhạn nổi danh hơn họ hoành hành trên giang hồ.
Riêng A Loan nghe chuyện này nhất quyết không tin vì nhân phẩm của Tiểu Nhạn, nàng biết rõ. Chàng quyết không phải là người cuồng bạo, dâm ô. Nghe họ nói hung thủ mập mạp, ngực to, tay cầm cương đao cơ hồ có đôi phần giống sư thúc Long Chí Khởi. Việc này khiến nàng vướng bận suy nghĩ cả ngày.
Trong am rất thanh tịnh, nhưng lòng nàng luôn luôn dậy sóng bất an.
Đột nhiên, mấy hôm nay không thấy Đạo Đăng và Thiết Trượng Tăng. Lúc này, vì A Loan ngày ngày nằm dài trên giường dưỡng thương. Thời gian lặng lẽ qua cũng đã gần một tháng, thương thế của nàng dần dần bình phục.
Tối hôm nay, thình lình Thiết Trượng Tăng và đồ đệ Tịnh Huyền lại đến đưa thêm một lão nhân tóc bạc như cước, thì ra là Bào Chấn Phi tổ phụ của nàng. A Loan gặp lại lão gia mừng tủi nghẹn lời, nàng cứ nhìn nội tổ mà khóc ngất.
Nàng cùng Bào lão sư kể lể những gian nan nguy hiểm mà mình đã trải qua. Đối với việc thế gian, nàng cũng đã nhạt nhẽo rồi, nên tình nguyện ở lại đây làm đạo cô, không muốn về nhà, cũng không muốn gặp Kỷ Quảng Kiệt. Nàng nói :
- Lão gia gia, hãy ở núi này ẩn nấp mấy ngày, rồi tìm một nơi niệm Phật đốt hương. Tôn nữ ở nơi này người cứ an tâm, mấy ngày sau Đạo Đăng sư phụ trở về, tôn nữ sẽ đổi đạo y. Từ đây, lão gia gia đừng đến tìm nữa, cũng đừng lộ ra với người khác.
Nàng vừa khóc vừa kể, nhưng tổ phụ nàng như kẻ si ngốc, một tiếng cũng không nói. Y phục của người rách nát, râu tóc rối tung, trên người vết máu loang lổ dọc ngang, sắc mặt đỏ tía giờ đã trắng bệch. A Loan cảm thương, nắm tay tổ phụ khóc nói :
- Lão gia gia làm sao vậy? Ở bên ngoài gặp phải việc gì? Từ đâu mà đến đây?
Bào lão sư như sức cùng lực tận, chỉ thở dài lắc đầu, một câu cũng không nói. Lúc này Thiết Trượng Tăng bước ra khỏi phòng. Tịnh Huyền đỡ Bào lão sư, họ cùng đi ra.
Họ ra đến ngoài, A Loan nghiêng tai lắng nghe. Thấy thanh âm rổn rảng của Thiết Trượng Tăng :
- Giang Tiểu Nhạn tại sao bắt lão rồi mà không giết?
Bào lão sư thở dài, nói :
- Xem ý đồ hắn dường như mang ta đến Trấn Ba, nơi mà năm đó ta sát tử phụ thân hắn mới giết ta để tiêu hận thù của hắn.
Lại nghe Thiết Trượng Tăng hỏi :
- Trọng án ở Loa Sư lãnh là ai làm?
Bào lão sư đáp :
- Lão không biết, nhưng lão dám đem tính mạng già này ra bảo đảm, quyết không phải do Long Chí Khởi gây ra.
Tiếp theo là thanh âm của Tịnh Huyền hỏi :
- Hài tử Thái Tiểu Hùng phải do lão giết không?
Bào lão sư thở dài không đáp. Thiết Trượng Tăng đã nổi giận hỏi :
- Ta nghe đồ đệ nói lão ở Xuyên Bắc giết một hài tử mười mấy tuổi, thực ta thấy lão không đáng mặt anh hùng hảo hán. Hôm nay, nếu ta không thấy lão bị Tiểu Nhạn trói đi, thực quá đáng thương ta đã không ra tay cứu giúp. Lão phải mau nói cho ta biết, võ nghệ Tiểu Nhạn so với ta như thế nào?
Bào lão trầm trọng thở dài nói :
- Tài nghệ Tiểu Nhạn quả thực phi phàm. Bào Chấn Phi ta cả đời ngang dọc, nhưng ta không thể không nhận thua hắn. Uy danh quái hiệp của ngươi, ba mươi năm ta từng cửu ngưỡng. Nhưng nếu hòa thượng gặp hắn cũng là...
Thiết Trượng Tăng giận dữ giậm chân một cái chấn động khiến mấy cánh cửa rung lên.
Nghe Thiết Trượng Tăng lớn tiếng dặn dò :
- Tịnh Huyền. Mau đi Trấn Ba bảo đồ đệ của lão đến đây đón lão đi.
Rồi lại nói với Bào lão sư :
- Ta cứu tính mệnh của lão cùng tôn nữ của lão để sau này các người báo đáp thế nào cho ta. Hiện giờ, ta phải đi tìm Giang Tiểu Nhạn. Ngày mai, lão xuống núi sẽ nhìn thấy thi thể của Tiểu Nhạn do lão nạp này kết liễu.
Nói xong, chân giậm đùng đùng, Thiết Trượng Tăng cùng Tịnh Huyền đi khỏi.
A Loan nghe lòng thêm đau xót. Chợt nghe ngoài cửa sổ có tiếng thở dài não nuột đúng là thanh âm của tổ phụ. Nàng bất giác bi thương nói :
- Lão gia gia, sao người ác quá! Ở Xuyên Bắc đã gây ra việc gì rồi? Còn án ở Loa Sư lãnh nhất định là do Long Chí Khởi sư thúc làm. Lão gia vẫn còn che chở cho người sao? Tiểu Nhạn không nhẫn tâm giết lão gia, vậy mà lão gia lại chọc giận khiến cho Thiết Trượng Tăng phải đi tìm giết bằng được Tiểu Nhạn. Lão gia ác quá! Điệt nhi...
Nàng định nói “một đời này của điệt nhi không phải bị lão gia hại rồi sao! Tại sao lão gia lại ép gả điệt nhi cho Kỷ Quảng Kiệt”. Nhưng lời này chưa kịp thốt ra, đã nghe tiếng chân đi mạnh có vẻ giận dữ của Bào lão đã xa.
A Loan ngạc nhiên nghĩ thầm :
“Tính khí gia gia ta tại sao lại thay đổi như vậy? Người lúc trẻ ra sao ta không rõ, nhưng sau này tính lão gia thật tốt. Hiện nay, tại sao chỉ đi một chuyến trên giang hồ chịu mấy lần nguy hiểm đã đổi thành hung bạo như vậy?”.
Lão sư đi rồi, A Loan cảm thấy không yên tâm, sợ gia gia nhất thời nóng nảy mà sinh ra ý tự sát. Lại sợ gia gia trong lúc nóng giận mà xuống núi giúp Thiết Trượng Tăng đánh với Tiểu Nhạn.
Thế là nàng ra ngoài tìm kiếm khắp nơi, ngay cả chuồng hươu, nàng cũng chui vào tìm kiếm, nhưng chẳng thấy bóng dáng lão đâu.
Lúc này, trời tối mịt mù, ngay cả ánh sao khuya cũng không có, khắp nơi bao phủ một màn đen tối khiến A Loan chẳng trông thấy vật gì, đành phải trở về phòng. Cả đêm thao thức không sao an giấc.
Còn Bào lão sư khi đó đứng bồi hồi trên núi. Tuy biết Thiết Trượng Tăng đi đấu với Giang Tiểu Nhạn, nhưng không hiểu lão tăng có thể đối địch nổi với Tiểu Nhạn hay không, lại thêm ray rứt ân hận về chuyện ở Xuyên Bắc đã ngộ sát tiểu hài, và những lời phiền trách của tôn nữ. Lớp lớp thương tâm.
Lão nghĩ :
“Nếu Tịnh Huyền bảo Chí Tài, Chí Hiền đến đây, thì ta còn mặt mũi nào gặp họ. Nếu ta theo chúng trở về, mà Tiểu Nhạn không chết thì chúng vẫn còn chịu khổ vì ta”.
Lão luẩn quẩn ở trong núi hồi lâu, cuối cùng mệt mỏi nằm dưới gốc tùng mà ngủ.
Tỉnh dậy thì mặt trời chẳng còn sớm nữa. Lão nhặt mấy trái tùng dưới đất bổ ra ăn, lại thấy ba con hươu đến gần dường như với lão rất thân thuộc.
Lão sư lúc này nhàn rỗi, bèn hái nắm cỏ đưa chúng ăn rồi vuốt ve nhẹ vào sườn chúng. Lão cùng ba con hươu đùa nghịch hồi lâu, vẫn không thấy Thiết Trượng Tăng trở về, cũng không thấy Tịnh Huyền đưa đồ đệ của mình đến. Lòng càng nghi hoặc, nghĩ thầm :
“Trừ phi Thiết Trượng Tăng và Tiểu Nhạn đấu đến giờ cũng bất phân thắng bại, bằng không Thiết Trượng Tăng đã bại dưới tay Tiểu Nhạn, lão không còn mặt mũi về đây. Còn mấy đồ đệ Chí Trung, Chí Tài, Chí Hiền của ta cách đây không xa, hay là chúng không còn nhận ta là sư phụ, không muốn đến đây gặp ta chăng?”.
Lòng lão trùng trùng nghi vấn vừa nóng nảy vừa buồn bã. Vả chăng bụng lão cũng đã đói cồn cào, nhưng không muốn trở về am đạo cô dùng cơm với tôn nữ.
Thình lình, lão sư nhìn thấy bóng Tiểu Nhạn hoảng sợ đến hồn phi phách tán, quay lưng chạy về Vân Thê lãnh Cửu Tiên quan.
Vào trong gặp tôn nữ lão thở hổn hển thần sắc kinh hoảng nói :
- Tiểu Nhạn đến rồi. Hắn đến tìm giết ta.
Lão sư run rẩy, không còn đâu là khí phách của một Bào quyền sư một thời hét ra lửa. Bào A Loan nhìn thấy tổ phụ như vậy giậm chân nghiến răng, giận dữ nghĩ :
“Tiểu Nhạn thật quá hẹp hòi. Lão gia gia ta đã chạy vào núi, với kẻ thế gian đã vô can rồi vậy mà mi vẫn truy tận sát tuyệt như vậy”.
Còn Tiểu Nhạn ở trước cổng cứ liên tiếp gõ cửa. A Loan phẫn hận đi ra.
Nhìn thấy Tiểu Nhạn niềm yêu thương, nỗi oán hận xâu xé lòng nàng khiến A Loan máu lệ chan hòa, tử niệm lại nổi lên, nên bất ngờ đoạt kiếm Tiểu Nhạn định tự sát. Tiểu Nhạn nhanh tay ngăn cản, nên kiếm không cắt vào yếu hầu, nhưng A Loan đã lao ngực vào mũi kiếm. Đến khi gia gia nàng bước ra, A Loan đã thừa nhận thuở nhỏ mình và Tiểu Nhạn yêu thương nhau, hy vọng tổ phụ có chút hối hận, nào hay đâu người giận dữ mà bỏ đi.
Nàng được Tiểu Nhạn cứu đem vào trong. Nàng vừa đau đớn rên rỉ, đồng thời lại vừa cảm thấy êm ái ngọt ngào khi nghe những lời chàng nói.
Lúc này, Đạo Đăng trở về đấu với Tiểu Nhạn, chàng bẻ gãy cương đao lẫn thiết cung. Chàng đi rồi đêm đến quay trở lại nói những lời yêu thương và ý định cưới nàng. Chàng sẽ tìm xe để ngày mai đưa nàng về Xuyên Bắc trị thương rồi kết thành phu phụ.
A Loan nghe những lời của Tiểu Nhạn, nàng cảm thấy đã được an ủi nhiều, những nỗi thống khổ mà bấy lâu nàng phải chịu đựng nên hoan hỷ đồng ý. Còn Tiểu Nhạn vô cùng phấn khởi mà ra đi.
A Loan vừa bi cảm, vừa hân hoan lẫn lộn, lại nghĩ về tương lai. Nàng như cây khô sống lại, hy vọng vào ngày mai tràn đầy xán lạn, nhưng nàng lại hối hận thầm nghĩ :
“Việc lúc đầu chẳng ai sai mà chỉ riêng ta có lỗi. Lòng ta thương yêu Tiểu Nhạn tại sao không nói ra để lão gia gả ta cho Kỷ Quảng Kiệt. Nếu lúc đó ta ngăn cản người Côn Lôn phái quyết tâm tìm Tiểu Nhạn, gặp chàng mà bằng lòng gả cho chàng, chắc Tiểu Nhạn không đến phải bức lão gia đến thế! Ôi! Tại sao lúc đầu ta lại làm như vậy?”.
Lúc này, Tiểu Nhạn đã chạy xuống núi tìm mướn xe. Trong am tuy không có tiếng mõ điểm canh nhưng A Loan cảm nhận được trời đã về khuya lâu lắm rồi. Các đạo cô tụng kinh đã ngưng từ lâu. Tiếng gió núi lùa, tiếng lá reo xào xạc như muôn đợt sóng triều, thỉnh thoảng tiếng chim đập cánh vang lên xa xa trong đêm thanh vắng nghe lạc lõng, cô đơn làm sao!
Đạo cô được cử đến chăm nom cho nàng cũng đã ngủ từ lâu. Vết thương của nàng cứ hành hạ đau nhức, tâm tư lại trùng trùng, khiến nàng cứ mãi trăn trở, trằn trọc.
* * * * *
Lại nói Đạo Đăng đạo cô là sư tỷ của Thiết Trượng Tăng, thân mang tuyệt kỹ hành tung bất định, giống như lão hòa thượng. Hành vi dâm tà tuy chẳng phạm phải nhưng họ từng làm nên nhiều chuyện ác tuy nhiên cũng có tạo nên vài việc tốt.
Chỉ có một việc là họ quyết không để trên giang hồ có ai nổi danh hơn họ được tồn tại.
Ba mươi năm trước, Thục Trung Long là kỳ hiệp ở Ba Trung. Khi đó Thiết Trượng Tăng cùng Đạo Đăng cũng đã có danh tiếng trong chốn võ lâm nhưng sư tỷ đệ của họ đã phải bại dưới tay Thục Trung Long một tay kiếm tuyệt luân. Thục Trung Long đã không giết họ mà chỉ nói :
- Bọn mi hoành hành giang hồ, giết hại nhiều người nhưng ta cũng biết có lúc bọn mi cũng làm chuyện thiện lương nên cho lấy công chuộc tội mà tha mạng cho, nhưng sau này phải vào núi mà tu hành không được đi lại trên giang hồ.
Lúc đó, bọn Thiết Trượng Tăng và Đạo Đăng tuy dập đầu vâng dạ nhưng lòng hai người không phục mà nghĩ cách báo thù, nhưng lão tiên sinh hành tung bất định nên hai người họ không thể tìm ra. Họ tìm cách thu đồ đệ để làm vây cánh.
Mười năm nay, Thiết Trượng Tăng thu Tịnh Huyền và Trương Hắc Hổ làm môn đồ như thêm được đôi cánh. Còn Đạo Đăng vẫn chưa nhận đệ tử nào vì nếu bà thu đồ đệ nhất định phải là nữ tử lại biết võ nghệ, điều đó thật hiếm. Vùng Xuyên Bắc Thiểm Nam này nữ tử biết võ nghệ chỉ có Bào A Loan và Thái Tiểu Tiên.
A Loan là tôn tử của Bào Côn Lôn, còn Thái Tiểu Tiên là nhi tức của Lang Trung Hiệp. Nhưng nếu hai người này học võ cũng không thể làm tay chân cho bà sử dụng.
Hôm nay Côn Lôn phái bại rồi. A Loan thân mang trọng thương được Thiết Trượng Tăng cứu vào trong am, Đạo Đăng muốn thu A Loan làm đồ đệ để làm một cánh tay hoặc giả làm một a hoàn cho mình.
Không ngờ, Tiểu Nhạn lại đến. Tiểu Nhạn là đồ đệ của lão tiên sinh, người ngày xưa từng khiến Đạo Đăng hận vì chịu nhục bại trận.Giờ Tiểu Nhạn lại đánh chết Thiết Trượng Tăng. Đây là mối thù hận thứ hai. Hôm nay, Tiểu Nhạn lại đoạn đao, bẻ cung, điểm huyệt khiến bà ta gần nửa ngày bất động, đó là sỉ nhục thứ ba, nên lòng Đạo Đăng vô cùng căm hận. Vì vậy, sau khi phóng chạy, bà ta không đi xa mà ẩn trên nhánh tùng đợi chờ cơ hội.
Đạo Đăng thấy Tiểu Nhạn xuống núi rồi thì vội trở vào am đến phòng A Loan.
A Loan nghe tiếng chân nghĩ là Tiểu Nhạn lại đến nên nói :
- Huynh vì sao lại trở về? Huynh bất tất phải đi thuê xe. Thương thế muội rất nguy kịch khó thể đi được, nhưng huynh hãy yên tâm, muội giờ đã thông suốt. Muội nhất định sẽ là thê tử của huynh.
Đạo Đăng cất giọng cười quái dị rồi lạnh lẽo cất giọng nói :
- Hôm qua a đầu muốn làm đạo sĩ, hôm nay muốn gả cho kẻ khác, phải chăng muốn bỏ trượng phu mà cải giá. A đầu thực là một dâm nữ vô sỉ.
A Loan nghe nói thất kinh, ngước nhìn lên.
Trong tay Đạo Đăng cầm một nắm hương, bà ta giũ mạnh tay, ánh sáng hương bùng lên. A Loan bắt gặp trong ánh lửa gương mặt đanh ác của Đạo Đăng, nàng khóc kể :
- Đạo cô, người không biết sự tình giữa ta và Tiểu Nhạn mười năm trước đâu.
Đạo Đăng cất tiếng cười hắc hắc, tay cầm đoạn dây, bước đến cắm nắm hương vào trong bình hoa rồi bước đến trói chặt A Loan lại.
A Loan cố hết sức giãy giụa, vết thương bật máu đau đớn không cùng khiến nàng hôn mê.
Đạo Đăng vừa trói nàng vừa lẩm bẩm rít lên :
- Ta sẽ mang ngươi đi. Bất luận mi gả cho người nào, ta giết chết người đó để mi vĩnh viễn là góa phụ.
Rồi bà ta vác A Loan trên vai rời khỏi am đi xuống núi.
A Loan bất tỉnh rất lâu, nàng mới dần hồi tỉnh. Nàng biết mình đang bị trói chặt và đang nằm trên lưng Đạo Đăng. Mỗi bước chân của Đạo Đăng làm động vết thương khiến nàng nhức nhối liên hồi nhưng bà ta cơ hồ không màng đến mà cắm đầu chạy thật nhanh, càng chạy càng khẩn trương.
Đột nhiên, A Loan nghe phía sau nơi xa xa có tiếng chân ngựa.
Đạo Đăng vội nhảy sang bên đường “Bõm” một tiếng, thì ra bà ta nhảy vào vũng nước. Nước tuy không sâu nhưng cũng ngập đến hai chân.
Đạo Đăng vác A Loan nấp dưới chân cầu rít giọng đe dọa :
- Không được la!
Lúc này nghe tiếng vó ngựa cồm cộp gõ lên cầu. Chờ tiếng chân ngựa đi xa, Đạo Đăng mới cõng A Loan nhảy ra khỏi vũng nước tiếp tục chạy.
A Loan nghĩ thầm đây nhất định là Tiểu Nhạn trở về. Còn Đạo Đăng có vẻ rất sợ Tiểu Nhạn phát giác. Riêng A Loan đau đớn không chịu được nên luôn miệng rên rỉ.
Đạo Đăng tức giận ném nàng xuống đá cho hai cước. A Loan kêu thét lên hai tiếng thê thảm rồi lại hôn mê.
Dần dần nàng lại tỉnh dậy mơ hồ thấy mình vẫn nằm trên lưng đạo cô và bà ta đang tiếp tục chạy.
Trời đất bắt đầu hửng sáng nhưng trên đường vẫn chưa xuất hiện khách bộ hành.
Bất chợt, Đạo Đăng dừng lại. Thì ra trên đường có một con ngựa không buộc dây đang đứng đó. Bà ta có vẻ kinh ngạc đứng nghĩ ngợi hồi lâu nhìn ngó xung quanh, rồi bước lên nắm dây cương.
Bà ta định đặt A Loan lên lưng ngựa mà chạy nhưng bất ngờ trong đám lúa ven đường chạy ra một nam tử.
Đạo Đăng vội ném A Loan xuống chạy qua định giao thủ với nam nhân đó. Bà ta hỏi :
- Mi là ai?
Nam tử đó không đáp mà xuống chiêu, chỉ qua lại ba hiệp nam tử đó đã đánh ngã Đạo Đăng. Bà ta định bật ngồi dậy nhưng nam tử đó đá một cước khiến Đạo Đăng lăn vòng trên đất. Thừa cơ, nam tử chạy đến bồng xốc A Loan đặt lên lưng ngựa phóng đi.
A Loan run giọng hỏi :
- Mi là ai? Tiểu Nhạn bảo mi đến cứu ta phải không?
Nam tử một tiếng cũng không đáp. Cánh tay khoẻ mạnh vô cùng nhưng ôm lấy A Loan thực nhẹ nhàng. Ngựa như mũi tên lao nhanh về phía trước.
Chạy khoảng ba, bốn mươi dặm, nam tử đó đứng lại, nhè nhẹ đặt A Loan xuống đất rồi rút ra một tiểu kiếm cắt dây trói trên người nàng khoát khoát tay không nói câu nào.
Lúc này, tuy đau đớn nhưng thần trí nàng còn tỉnh táo, nhìn thấy nam tử này ước khoảng trên bốn mươi, thân thể không cao, sắc mặt nhợt nhạt trên đầu quấn một bím tóc, mặc bộ đồ màu xám thật dơ bẩn lại rách rưới, chân mang đôi giày cỏ dính đầy bùn đất giống một dân nghèo nơi thôn làng hay một tiểu tử đốt lò nơi khách điếm.
Người này không nói lời nào, đặt A Loan nằm dài trên đất nghỉ ngơi.
Xa xa, xuất hiện một đoàn người ngựa đi đến, hán tử này vội bồng A Loan đặt lên lưng ngựa. A Loan sức lực cạn kiệt, nàng nằm dài trên lưng ngựa như một xác chết, không còn nói được lời nào. Rồi nam tử này lại đỡ nàng chầm chậm mà đi.
Chạy thêm mấy dặm, chợt nghe tiếng chó sủa. Thì ra, ngựa đang đi vào một đại trang viện.
Trong trang viện, dường như có nhiều người bước ra, kinh ngạc hỏi :
- Cô nương này gặp chuyện gì vậy? Ở đâu lại mang về một cô nương như vậy?
Nam tử vẫn khoát tay cười cười không nói mà dìu A Loan xuống ngựa, đi vào một nhà đất.
Trong phòng đất chỉ bày biện một giường đất trên đó có một chiếc mền. Hán tử này đặt A Loan xuống đó rồi đưa mặt nhìn nàng.
Nhiều tráng đinh bên ngoài cũng chen vào xem.
A Loan rên rỉ mấy tiếng, rồi hỏi hán tử :
- Ta biết lão ca là người tốt nhưng đây là nơi nào?
Người này không đáp chỉ đưa ngón tay cái chỉ vào mũi mình, rồi xòe hai bàn tay lắc lư. A Loan vô cùng ngạc nhiên, còn mọi người thì cười ha hả. Có một lão tráng đinh nói với A Loan :
- Hắn là một tên Á Tử, không biết nói cũng chẳng thể nghe. Hắn làm dấu chỉ bọn ta hiểu được.
A Loan kinh ngạc hỏi thầm chính mình :
“Tại sao lại có Á Tử này cứu ta?”.
Á Tử thấy A Loan không hiểu được ý mình có phần nóng này, lo lắng. Á Tử vội vận sức vào cánh tay ra dấu như cánh chim bay. Bọn tráng đinh lại cười ha hả.
Lúc này có người báo viên ngoại của họ đã đến nơi nên bọn tráng đinh không dám cười nữa mà vội lui ra.
Viên ngoại là một lão nhân râu tóc bạc phơ, tay chống trượng, thân mặc áo lụa, diện mạo phúc hậu.
Á Tử vừa thấy viên ngoại bèn ra hiệu, dang hai tay như cánh chim bay, rồi sau đó chỉ vào A Loan đang nằm trên giường ra vẻ vui mừng kêu lên mấy tiếng.
Viên ngoại chớp mắt ra dáng suy nghĩ, rồi dường như hiểu rõ nên gật đầu cười chỉ Á Tử nói với A Loan :
- Hắn là một Á Tử nhưng hắn là một hiệp khách, võ nghệ thật cao thâm. Hai mươi năm trước, lão làm quan ở bên ngoài, từng được Á Tử hai lần cứu tính mạng. Gần đây hắn đến gia trang lão. Theo dấu hiệu của hắn lão hiểu là có một sư đệ tên Nhạn hay tên Phụng gì đó. Hắn đến Thiểm Nam là để tìm tung tích sư đệ. Hắn ngụ ở đây, bình thường thì ra ngoài, thỉnh thoảng quay về. Vừa rồi lão thấy động tác của hắn, đại khái hắn báo cho biết cô nương là thê tử của sư đệ hắn nên hắn mới mang đến đây. Lão đoán vậy chẳng biết đúng sai xin cô nương thứ lỗi. Mạn phép lão hỏi vì sao cô nương lại đến đây? Gia trang ở nơi nào?
A Loan lúc này có chút hiểu biết, rõ ra Á Tử là sư huynh của Tiểu Nhạn, nàng bất giác thương tâm khóc rấm rức, hồi lâu khi tâm tình có chút dịu bớt, nàng mới giản lược kể qua sự tình cho viên ngoại tường tận.
Nàng thừa nhận mình là thê tử của Tiểu Nhạn bị cường đạo bắt giữ, giữa đường được Á Tử cứu về lại không có nhà mà trở về, chỉ mong gặp được Giang Tiểu Nhạn một lần.
Viên ngoại nghe nói lấy làm thương cảm cho nàng, thở dài hỏi A Loan :
- Cô nương có biết Giang Tiểu Nhạn ở đâu không?
A Loan nói :
- Có lẽ Giang huynh đang ở Vân Thê lãnh Cửu Tiên quan.
Viên ngoại liền ra dấu bảo Á Tử mau chóng đi tìm Giang Tiểu Nhạn về, hắn hiểu ý gật đầu, cao hứng chạy ra ngoài.
Viên ngoại lại bảo người cho gọi mấy nữ bộc đến đây lo lắng chăm sóc A Loan.
Nội thê cùng nhi tử đồ tôn của viên ngoại cũng đến để xem mặt đệ phu của Á Tử. Mọi người đều thầm tán dương A Loan là dẫu nàng đang thọ thương, dung nhan tiều tụy nhưng diện mạo vẫn xinh đẹp vô cùng.
Phụ nhân ân cần dặn dò nàng cứ yên tâm ở lại đây để điều trị thương thế.
A Loan vô cùng cảm kích tấm thịnh tình của nhà viên ngoại nhưng nàng tự hiểu thương thế của mình đã trở nên trầm trọng khó về khỏi bệnh. Nghĩ trước nhớ sau không cầm nước mắt.
Lúc này, Á Tử đang dùng cơm sáng ở ngoài viện. Bọn tráng đinh đều giơ ngón tay cái tán dương hắn.
Hắn vỗ ngực cười cười ra vẻ cao hứng, thích thú.
Cơm xong, Á Tử dẫn ngựa ra khỏi trang viện theo đại đạo đi về phía tây.
Á Tử tuy không biết nói, không biết chữ nhưng hai mươi năm trước từng theo sư phụ xông pha giang hồ nên địa hình các nơi đều quen thuộc. Núi này có bao nhiêu miếu đình, nơi nào có bao nhiêu tấm bia hắn đều ghi nhớ rõ. Thì ra, từ khi Tiểu Nhạn từ biệt sư phụ xuống núi, lão tiên sinh vì sợ Tiểu Nhạn học nghệ chưa linh hoặc giả trên giang hồ làm việc hung ác chẳng người chế phục nên ngày sau lão tiên sinh đã chỉ dẫn đường bảo Á Tử xuống núi âm thầm đi theo Tiểu Nhạn.
Á Tử cùng là sư huynh đệ mười năm sống chung nhưng hắn không biết tánh danh Tiểu Nhạn là gì. Có một lần trên núi, gặp qua mấy con tiên nhạn, Tiểu Nhạn chỉ vào chúng rồi chỉ vào mình, Á Tử mới rõ chàng tên Tiểu Nhạn.
Xuống núi, hắn không biết Tiểu Nhạn đã sang sông mua ngựa nên vẫn theo lộ trình sư phụ chỉ dẫn mà chạy. Tuy cước bộ hắn có nhanh đến đâu cũng sao bằng vó ngựa, vì vậy nửa tháng trước đây mới đến nhà của Thành Khẩu huyện Nhan viên ngoại này.
Hắn xưa nay rất kính ngưỡng Nhan viên ngoại này, vì trước kia người là một thanh quan, hiểu rõ động tác của hắn nhất. Lưu lại đó hai ngày hắn bèn đi về Trấn Ba.
Trấn Ba là địa điểm sư phụ hắn đặc biệt lưu ý, thế nên đến nơi hắn không đi đâu mà chỉ quanh quẩn tìm kiếm Tiểu Nhạn.
Khắp nơi từ Bào gia thôn, Mễ Thương sơn, Vân Thê lãnh đều tìm không gặp nhưng thấy Thiết Trượng Tăng và Đạo Đăng, biết hai người này là kẻ cường bạo. Hai người thường bồi hồi, thơ thẩn trên núi, dưới núi, cả ra ngoài hóa duyên, có lúc lại đi xa hai, ba ngày không về nên Á Tử cảm thấy có điều gì bí ẩn trong đó, vì vậy âm thầm theo dõi.
Ngày thì Á Tử trú ngụ nơi một tiểu điếm, tối đến hắn vào Vân Thê lãnh thám thính. Do đó, hắn phát giác ra ở Cửu Tiên quan am có một nữ lang, ẩn trí, hắn càng sinh nghi. Ngày ngày, không rời khỏi Vân Thê lãnh để tìm ra hành tung Thiết Trượng Tăng mà trừ ác.
Không ngờ hôm nay Giang Tiểu Nhạn giải Bào Chấn Phi đến đây. Trong lúc Tiểu Nhạn đi tìm vật gì đó thì Thiết Trương Tăng đánh chết Ngũ Kim Hổ và vợ chồng người thợ săn cứu đi Bào Côn Lôn, hắn đều rõ. Lúc Tiểu Nhạn cùng Thiết Trượng Tăng giao đấu hắn cũng ở trong bóng tối theo dõi. Hắn thầm thán phục võ nghệ cao cường của Tiểu Nhạn.
Lúc Tiểu Nhạn đả Thiết Trượng Tăng lăn xuống núi, hắn thừa thế giết chết Thiết Trượng Tăng, rồi sẵn dịp lấy đi một con ngựa mà chạy.
Nhưng chạy không xa, hắn ném đầu Long Chí Khởi xuống khe, cột ngựa vào một gốc cây rồi quay lại âm thầm theo dõi nhất cử nhất động của Tiểu Nhạn.
Trong sơn lộ Tiểu Nhạn luôn cầm lấy hồng tú hài, rồi trong phòng ở am Cửu Tiên, chàng âu sầu lo lắng chăm sóc cho A Loan ra sao, hắn đều lén trộm nhìn. Hắn đoán A Loan nhất định là thê tử của Tiểu Nhạn. Hắn cảm thấy buồn cười nhưng có điều khiến hắn tức giận là Tiểu Nhạn đã sử dụng thuật điểm huyệt đánh ngã Đạo Đăng. Việc này đã phạm vào lời dặn của sư phụ. Hắn định ra mặt đánh Tiểu Nhạn, tuy nhiên khi gặp Tiểu Nhạn đã giải khai huyệt đạo cho Đạo Đăng xong, bà ta không đi mà ẩn thân trên ngọn cây. Hắn hiểu quyết có chuyện mờ ám rồi. Hắn ngầm xem Tiểu Nhạn có đối phó được với đạo cô này không nên vẫn bí mật quan sát.
Nào ngờ, Tiểu Nhạn sơ suất, đêm tối lại chạy xuống núi để Đạo Đăng vào bắt cóc A Loan. Cước bộ Đạo Đăng nhanh hơn Á Tử nên hắn vội vàng về núi lấy ngựa đuổi theo, cuối cùng đoạt A Loan trở lại.
Vốn Á Tử muốn giết Đạo Đăng để trừ hại nhưng vì bà ta là nữ tử nên hắn không hạ thủ mà phóng thích đi.
Giờ hắn đã gởi A Loan ở gia trang Nhan viên ngoại rồi đi tìm Tiểu Nhạn. Hắn nghĩ :
“Tìm được Tiểu Nhạn trước tiên đánh hắn mấy cái, bắt hắn trở về gặp sư phụ để người hỏi tội hắn sao không nghe lời dặn dò mà dùng thuật điểm huyệt. Trừng phạt hắn xong mới cho gặp thê tử của hắn”.
Kỹ thuật cưỡi ngựa của Á Tử rất cao siêu. Thoáng chốc, hắn đã trở lại Vân Thê lãnh. Đến nơi, thấy có xe ngựa có người thực là náo nhiệt.
Á Tử ngạc nhiên xuống ngựa giao cho một người. Người đó hỏi hắn mấy câu, nhưng hắn nào có nghe thấy. Á Tử vỗ vỗ vào ngựa của mình rồi chỉ vào ngựa người đó. Xong hắn chạy lên Cửu Tiên quan.
Bên trong Cửu Tiên quan có mấy người đang nói chuyện với đạo cô. Á Tử lại chạy vào bên trong, dang tay ra dấu, ý muốn hỏi Tiểu Nhạn ở đâu?
Bọn người này là Chí Hiền. Chí Trung, Kỷ Quảng Kiệt.
Thương thế của Quảng Kiệt đã lành hẳn. Mấy ngày trước theo Chí Trung đến Trấn Ba nhằm lúc Tịnh Huyền đưa thư của Bào lão bảo họ đến đây đón Bào Côn Lôn nhưng Bào gia thôn từ lúc Chí Tài bị thương, Chí Lâm dọn đến nhà thê tử ẩn nấp, cửa lớn đóng chặt cảnh nhà vắng vẻ không một bóng người. Tìm hỏi người xung quanh nhưng không ai biết người Bào gia hiện giờ ở đâu. Tịnh Huyền đành quanh quẩn ở Trấn Ba mấy ngày. Buổi tối đến tửu điếm dùng cơm gặp một người mang bảo kiếm hỏi ra là Kỷ Quảng Kiệt.
Quảng Kiệt nghe Tịnh Huyền nói Bào lão sư hiện đang ở Vân Thê lãnh, hắn không mấy quan tâm nhưng nghe A Loan đang ở đó, hắn mừng rỡ nên vội vàng đưa Tịnh Huyền đi tìm Chí Hiền, Chí Trung.
Vì lúc này cửa thành đã đóng nên Quảng Kiệt rán nén bồn chồn chờ đợi đến sáng hôm sau tức tốc đến nơi này.
Nào ngờ, am không phòng trống. Bào Côn Lôn cùng Bào A Loan mất tăm tông tích.
Quảng Kiệt nóng lòng truy vấn mấy đạo cô nhưng mấy đạo cô không hiểu nguyên do khiến Quảng Kiệt và bọn Chí Hiền, Chí Trung kinh nghi hoảng sợ.
Tịnh Huyền và Quảng Kiệt đi khắp nơi trong núi tìm kiếm thì phát hiện thi thể của Ngũ Kim Hổ và phu phụ người thợ săn. Sau đó, tìm thấy binh khí của Thiết Trượng Tăng và hai chân của lão với một đống thịt hôi thối.
Tịnh Huyền khóc lóc trước thi thể của sư phụ, rồi tìm cách mai táng.
Quảng Kiệt trở lại Cửu Tiên quan, hắn nóng nảy cầm bảo kiếm tập trung các đạo cô lại truy vấn. Nghe đạo cô nói hôm qua Tiểu Nhạn đã đến nơi này náo loạn, đánh Đạo Đăng sư cô của họ. Sáng sớm hôm nay lại đến đây tìm kiếm, biết nữ lang bị thương mất tích hắn tức giận loạn động hồi lâu, khi bọn Kỷ Quảng Kiệt đến thì hắn cũng vừa đi.
Quảng Kiệt nộ khí xung thiên. Hắn biết đạo cô này có biết chuyện nhưng không chịu nói nên muốn dùng roi ngựa đánh họ tra vấn, nhưng Chí Trung, Chí Hiền ngăn lại.
Đang lúc giơ chân múa tay bỗng có một người mày thẳng mắt tròn, ăn mặc bẩn thỉu đang giương mắt nhìn chung quanh, Quảng Kiệt khó chịu bước đến đá cho Á Tử một cước. Á Tử tránh khỏi, Quảng Kiệt gầm gừ hỏi :
- Tặc tử này từ đâu đến đây? Dám lẫn lộn vào trong này.
Rồi vung kiếm chém Á Tử, Chí Trung, Chí Hiền đồng thanh kêu lên :
- Quảng Kiệt không được nóng nảy!
Nhưng chỉ trong chớp mắt chỉ nghe “Ai da”, “Kẻng”, “Rầm” mấy tiếng, nhìn lại. Á Tử chẳng có gì khác lạ, còn bảo kiếm của Quảng Kiệt bị đoạt lấy ném ra xa, bụng dưới nhận lấy một cước té nằm dài dưới đất.
Chí Trung, Chí Hiền đều thấy Quảng Kiệt chưa đứng dậy nổi trông mất cả uy phong. Quảng Kiệt ngẩng đầu trợn mắt :
- Tặc tử, mi tên họ là gì? Mi dám đánh Kỷ đại gia sao?
Á Tử dùng ngón tay cái chỉ vào mình, rồi xòe ngón tay út, sau đó dang ra hai cánh tay làm điệu bộ như chim đang bay. Nhưng Quảng Kiệt nào hiểu gì, hắn giận dữ quát :
- Tặc tử mi ra dáng vẻ bướm bay để làm gì vậy? Hay định trêu ghẹo ta.
Nói rồi, bật dậy xông lên định đánh Á Tử. Á Tử lại né tránh sang bên khoát tay ra hiệu đừng đánh, sau đó chỉ vào mình hắn lại dang tay như bay rồi ra dấu như một nữ lang ẻo lả, Quảng Kiệt giận dữ nhưng cũng bật cười :
- Mi khùng rồi Chí Trung vội vã bước đến kéo Quảng Kiệt sang bèn nói :
- Đừng nóng nảy. Ta xem hắn dường như câm. Hắn đến đây nhất định có việc, để chầm chậm ta đoán ý hắn xem.
Chí Hiền cũng bước lên, thấy điệu bộ của Á Tử lạ lùng. Hắn chỉ vào đạo cô bên cạnh rồi làm dáng như vác vật gì trên lưng. Chí Trung dần dần hiểu rồi nói :
- Á Tử này có ý tốt. Hắn bảo với chúng ta là A Loan bị nữ đạo sĩ cõng đi rồi. Đạo cô đó nhất định là Đạo Đăng sư cô ở miếu này.
Kỷ Quang Kiệt lúc này mới bớt giận, chau mày nói với Chí Trung :
- Sư thúc hỏi hắn xem Đạo Đăng đưa A Loan đến đâu. Bảo hắn đưa chúng ta đi.
Chí Trung cũng dùng tay ra dấu vỗ vỗ vào vai Á Tử chỉ ra cửa rồi bước bước. Á Tử liên tục khoát tay lắc lắc. Quảng Kiết giận dữ nói :
- Ta xem người này nhất định là một tên giả câm nếu không tại sao há miệng thanh âm “A... a” cũng không có.
Chí Trung thấp giọng nói :
- Đừng gấp! Ta xem người này quả thật bị câm. Hơn nữa cùng chúng ta chưa chút oán thù. Hắn đến đây không phải cố ý đùa cợt chúng ta đâu.
Lúc này, Tịnh Huyền vừa vào. Hắn đã hỏa thiêu thi thể của sư phụ Thiết Trượng Tăng xong, khóe mắt vẫn ngấn lệ.
Á Tử vốn biết Tịnh Huyền, nên khi thấy Tịnh Huyền bước vào liền nắm cánh tay hắn lại. Sắc mắt Tịnh Huyền trắng bệnh.
Chí Hiền, Chí Trung bước đến khuyên giải. Á Tử cười với Tịnh Huyền rồi ra mấy dấu tay. Chí Hiền nói :
- Tịnh Huyền sư phụ, đừng sợ. Người này là Á Tử. Hắn mới đến đây thi triển mấy ngón công phu, ta biết hắn đã được chân truyền. Vừa rồi, hắn nói với chúng ta A Loan bị Đạo Đăng cõng đi rồi. Tiểu Nhạn sáng nay cũng đến đây nhưng không gặp nên đã đuổi theo.
Chí Trung lại hỏi Tịnh Huyền :
- Sư phụ có biết Đạo Đăng sư cô đi đâu không?
Tịnh Huyền sắc mặt vẫn còn trắng bệch, ngơ ngẩn một hồi mới chỉ Á Tử nói :
- Người này ta biết. Hắn là sư huynh của Giang Tiểu Nhạn. Sư phụ lúc sinh thời thường nói Tiểu Nhạn có một Á Tử sư huynh, võ nghệ có ngang hàng cùng sư phụ của hắn.
Câu này vừa nói ra cả bọn Chí Trung ba người đều kinh dị đưa mắt nhìn Á Tử.
Lúc này, Á Tử chạy đến vách tường vòng tay nhặt một viên gạch nhỏ vẽ lên tường một vật giống như tiên nhạn lại có mấy con đường khúc khủyu.
Chí Trung nghĩ một lát rồi nói :
- Á Tử hỏi chúng ta biết Tiểu Nhạn ở đâu không?
Tịnh Huyền như chợt nhớ ra ý gì nói :
- Ta biết Đạo Đăng sư cô đi đâu. Có lẽ bà đến Võ Đang. Đạo Đăng với Thất Đại Kiếm Tiên ở Võ Đang có tình giao hảo nên chắc rằng bà ta sẽ đưa Bào cô nương đi về phía đó. Giang Tiểu Nhạn nhất định cũng đuổi theo.
Kỷ Quảng Kiệt nghe nói Võ Đang sơn, hắn lại hưng chấn hùng khí nói :
- Võ Đang sơn, ta biết nơi đó. Được rồi! Hắn đi tìm sư đệ. Ta đi tìm thê tử ta. Hai chúng ta sẽ đi về Võ Đang sơn một chuyến.
Dứt lời, Quảng Kiệt vỗ vào ngực mình rồi chỉ vào Á Tử, sau đó xòe ngón tay cái tỏ ý bái phục, từ đây muốn kết làm bằng hữu, rồi chỉ vào con nhạn vẽ trên tường, gật đầu nói :
- Ta biết Tiểu Nhạn ở đâu rồi. Ta sẽ đưa mi đi.
Quảng Kiệt bèn bước qua nhặt kiếm, lên nói với Chí Trung và Chí Hiền :
- Các sư thúc hãy mau xuống núi mà tìm kiếm lão gia gia. Mấy hôm trước người còn ở đây không trở về chắc là chưa đi xa.
Rồi quay người nói với Tịnh Huyền :
- Tịnh sư phụ. Chúng ta sẽ có ngày gặp nhau.
Tịnh Huyền căn dặn gặp Đạo Đăng đừng tỏ thái độ hung hăng mà phải ôn tồn, vì tính tình bà rất hung bạo, nếu không bị áp bức bà quyết không giết A Loan, bằng không để bà nổi nóng thì thật khó bảo toàn tính mạng A Loan.
Tịnh Huyền lại thở dài nói :
- Nếu thí chủ gặp được Tiểu Nhạn nói bần tăng có lời nhắn. Dù sư phụ Thiết Trượng Tăng bị chết trong tay hắn nhưng bần tăng sẽ không nghĩ đến việc báo thù. Một là trước kia giữa bần tăng và hắn có giao tình. Hai là bần tăng quyết chí muốn lui ẩn trong núi sâu chuyên tâm tu hành chẳng mong tranh đoạt thị phi.
Quảng Kiệt liên tiếp gật đầu, không nói nhiều lời mà kéo tay Á Tử đi.
Hai người xuống núi, cưỡi ngựa một trước một sau lên đường. Quanh co chạy như bay về phía đông hơn tám mươi dặm.
Mặt trời dần ngả về tây, Á Tử chưa dùng cơm trưa nên hiện giờ đói bụng, ngồi trên lưng ngựa đuổi theo ngang mặt Quảng Kiệt mà ra dấu chỉ vào miệng vỗ vỗ bụng. Quảng Kiệt cũng cảm thấy cồn cào nên gật đầu.
Đi không xa thì đến một thị trấn, Quảng Kiệt đến một tiểu điếm dừng ngựa. Á Tử thích chí cười hăng hắc. Cả hai cùng đi vào tửu điếm gọi cơm rượu.
Á Tử ăn uống ngon lành, còn Quảng Kiệt vì lo lắng A Loan nên chỉ nhấp rượu nghĩ thầm :
“Nếu sớm biết Tiểu Nhạn và A Loan có tư tình, ta đã không giúp bọn Côn Lôn phái. Giờ đây, khiến ta người chẳng ra người, quỷ không ra quỷ. Những vết thương trên người nay mới lành lặn. Lần này đến Võ Đang, tất đã tìm được A Loan, nếu gặp nàng hà tất cũng xảy ra đại chiến. Mình dẫu đắc thắng thì thê tử của mình cũng trở về với Tiểu Nhạn, kể ra thật không đáng. Nhưng ta dường như có kẻ vô hình thôi thúc không thể buông tay không quan tâm đến nàng”.
Tự hắn cảm thấy hận lấy chính mình. Hắn thở dài đứng dậy đẩy bàn ra. Á Tử thấy hắn buồn như vậy bèn chỉ đĩa thức ăn ý muốn Quảng Kiệt gắp dùng. Quảng Kiệt lắc đầu.
Á Tử cũng lộ vẻ buồn dường như không hiểu vì sao Kỷ Quảng Kiệt lại sinh ra phiền não.
Quảng Kiệt lấy tiền ra thanh toán thì Á Tử đã giành lấy trả. Hắn lấy một bao nhỏ, bên trong có mấy ngân lượng lẻ. Á Tử đặt một ngân lượng lẻ lên bàn vẫn còn thừa cả tiền cơm rượu, hắn cười chỉ Quảng Kiệt ra cửa, ý bảo lên đường.
Quảng Kiệt cảm thấy mặc dù Á Tử không thể nói được, nhưng những việc giao tiếp dường như rất hiểu biết. Quảng Kiệt gật đầu. Cả hai cùng ra khỏi tửu điếm lên ngựa tiếp tục đi về phía đông.
Đi hơn ba mươi dặm mới tìm thấy khách điếm nghỉ đêm. Sáng hôm sau tiếp tục lên đường, đến trưa mới tìm nơi dùng cơm.
Á Tử có vẻ thong thả không cần vội vàng, còn Quảng Kiệt dường như lửa đốt nhưng vì hắn muốn nhờ võ công của Á Tử đến Võ Đang đấu với Thất Đại Kiếm Tiên nên hắn không dám giữa đường bỏ rơi Á Tử.
Sáng đi đêm nghỉ, suốt ba ngày mới đến Trúc Duyên huyện cách Võ Đang sơn hơn trăm dặm. Ngựa của Quảng Kiệt đi trước, ngựa của Á Tử đi sau.
Lúc đi gần huyện thành chợt nghe sau lưng có tiếng người gọi lớn :
- Kỷ Quảng Kiệt!
Kỷ Quảng Kiệt giật mình, ngoảnh đầu lại nhìn thì thấy bên kia đường chạy đến hai tuấn mã một trắng một đen.
Trên ngựa đen là một đại hán hơn hai mươi chễm chệ ngồi. Trên bạch mã là một bạch diện thư sinh. Quảng Kiệt vừa nhìn thấy bạch diện thư sinh này, bất giác buột miệng châm chọc :
- Ấy dà! Lý Phụng Kiệt. Ở Vị Thủy huyện lúc giao thủ, mi bị thương đào tẩu vẫn còn chưa chết à? Hiện giờ thế nào? Mi còn muốn chiến đấu cùng ta nữa sao?
Lý Phụng Kiệt thúc ngựa đến gần cười mỉa mai :
- Kẻ giang hồ, chút vết thương vị tất đã chết. Huống hồ bên sườn ta chỉ nhận một kiếm nhẹ thôi, nếu mà chết thì Kỷ Quảng Kiệt huynh vừa thọ thương vừa trúng phi tiêu tất khó sống được.
Quảng Kiệt vừa nghe Phụng Kiệt sỉ nhục mình lập tức rút kiếm phẫn nộ nhìn Phụng Kiệt.
Phụng Kiệt chẳng có ý định tránh né chỉ cười nói :
- Hà tất phải như vậy. Dù ngươi đâm ta mấy nhát kiếm nữa thanh danh của mi cũng không thể bằng được Tiểu Nhạn đâu.
Kỷ Quảng Kiệt vẫn còn cầm cười nhạt, nụ cười còn chưa tắt, quả nhiên nghe Á Tử kêu lên một tiếng, Quảng Kiệt vội vã nhảy xuống ngựa, thì ngựa của mình hí lên lăn xa hai bộ nằm dài dưới đất.
Thì ra lúc Kỷ Quảng Kiệt cầm kiếm cười nhạt, hán tử cưỡi hắc mã đi cùng Lý Phụng Kiệt đã thúc ngựa đến con ngựa Quảng Kiệt rút quả chùy to bằng quả cam sợi dây dài hơn hai thước đập lên sau lưng Quảng Kiệt. May mà Á Tử kêu lên, Quảng Kiệt mới tránh khỏi nhưng quả chùy đã giáng lên lưng ngựa.
Á Tử dang hai tay cười lớn. Quảng Kiệt tức giận đâm Phụng Kiệt đang ngồi trên lưng ngựa. Phụng Kiệt thúc ngựa ra xa, rồi kiếm phóng xuống đầu. Đại hán đó cũng nhảy khỏi lưng ngựa vung quả chùy muốn đánh Quảng Kiệt.
Phụng Kiệt giận dữ kêu lớn ngăn đại hán :
- Dừng tay!
Quảng Kiệt hùng hổ vung bảo kiếm chém vào Phụng Kiệt.
Phụng Kiệt một tay đỡ lấy bảo kiếm của Quảng Kiệt, một tay khoát khoát nói :
- Quảng Kiệt. Nghe ta nói đã. Ta không muốn ám toán mi. Chỉ vì người này quá thô lỗ. Không phải sợ mi mà không muốn giao đấu. Chúng ta có bản lĩnh thì hãy đến Võ Đang sơn. Hiện tại, Tiểu Nhạn đang độc đấu cùng Thất Đại Kiếm Tiên, ta cần đến đó giúp hắn.
Quảng Kiệt nghe nói thu kiếm về thoái lui hai bước. Lúc này, trên đường có nhiều người dừng chân vây quanh ý muốn xem hai người giao đấu. Á Tử ngồi trên lưng ngựa ra dấu cũng có ý muốn xem hai người tỷ thí để định tài nghệ cả hai ra sao.
Phụng Kiệt tra kiếm vào vỏ, rồi kéo đại hán đó bước đến vỗ vai Quảng Kiệt cười nói :
- Không thể trách mi. Nếu mi không rút kiếm động thủ trước thì bằng hữu của ta đâu dùng chùy đánh mi. Hắn là Hồ Nhị Chính thường theo bảo hộ cho ta.
Kỷ Quảng Kiệt cười nhạt nói :
- Không ngờ mi lại phải mướn một bảo tiêu.
Phụng Kiệt cũng cười không nói gì chỉ đưa tay chỉ Á Tử hỏi :
- Người đó là ai?
Quảng Kiệt thờ ơ đáp :
- Hắn ta Á Tử sư huynh của Giang Tiểu Nhạn. Hiện giờ ta đưa hắn lên Võ Đang tìm Tiểu Nhạn.
Phụng Kiệt mỉm cười lại vỗ vai Quảng Kiệt nói :
- Thì mi cũng có một bảo tiêu.
Quảng Kiệt bất giác đỏ mặt nhưng không tiện phát tác. Phụng Kiệt bước đến ôm quyền chào hỏi, Á Tử cũng vòng tay đáp lễ, lại xuống ngựa ra dấu, Phụng Kiệt ngẩn người, Quảng Kiệt giải thích :
- Hắn hỏi mi có biết Tiểu Nhạn không?
Phụng Kiệt cười cười gật đầu với Á Tử, Á Tử cũng cười lại, Phụng Kiệt quay người nói với Quảng Kiệt :
- Chúng ta vào trong thành tìm tửu điếm mà đàm luận được chăng?
Quảng Kiệt lắc đầu :
- Hiện giờ, ta cùng Á Tử gấp lên Võ Đang sơn, không có thời gian. Nếu mi nguyện ý cùng ta kết giao bằng hữu, xin tìm thay cho ta con ngựa khác.
Phụng Kiệt gật đầu :
- Điều này dễ thôi.
Hắn đến gần trách móc Hồ Nhị Chính một hồi khiến Hồ Nhị Chính phải đem hắc mã đến thay ngựa Quảng Kiệt.
Quảng Kiệt có vẻ chưa hài lòng nói :
- Chúng ta đi còn con ngựa bị thương này tính sao? Ta nghĩ nên bán nó đi.
Phụng Kiệt lắc đầu :
- Không cần. Ngựa này có thể trị lành. Hãy để Hồ Nhị Chính ở đây chờ bọn ta. Xong việc chúng ta sẽ trở lại tìm hắn.
Thế là Phụng Kiệt bước qua dặn Hồ Nhị Chính tìm khách điếm ở Trúc Duyên huyện chờ đợi bọn họ đồng thời tìm thú y trị thương cho ngựa. Rồi Phụng Kiệt đưa cho Nhị Chính một số tiền. Xong việc, Phụng Kiệt khoát tay nói :
- Chúng ta đi.
Quảng Kiệt ra dấu với Á Tử rồi cùng lên ngựa. Ba tuấn mã song song đi về phía đông.
Đám người tụ tập định xem náo nhiệt đều cười khoái trá nhìn Hồ Nhị Chính dùng hết sức mình đỡ con ngựa đứng lên.
* * * * *
Nói về Giang Tiểu Nhạn đuổi theo Đạo Đăng đang bắt cóc A Loan mà đến Võ Đang sơn. Chàng dò hỏi thì biết Thất Đại Kiếm Tiên của Võ Đang phái là Huyền Thanh, Huyền Hải, Huyền Thọ...
Huyền Hải có hai đồ đệ là Kiếm Hùng và Kiếm Siêu.
Huyền Thọ có một đồ đệ là Kiếm Phi.
Ngoài ra còn có một đạo sĩ bên ngoài đến là Lăng Vân Kiếm Khách Lữ Sùng Nhai.
Bảy đạo sĩ này hợp thành được gọi là Thất Đại Kiếm Tiên.
Chỉ trừ Lữ Sủng Nhai bình thường thích hành tẩu giang hồ kết giao bằng hữu. Còn Kiếm Hùng, Kiếm Phi rất thích tranh đấu. Các đạo sĩ còn lại đều cẩn trọng giữ thanh quy không dễ dàng gì mà hạ sơn.
Họ chia nhau gìn giữ Chân Võ miếu, Triển Kỳ phong, Ngộ Chân cung, Ngũ Long phong, Tiêu Tử phong... toàn bộ họ đều có nội gia chân truyền của Trương Tam Phong, đều thuộc hàng đệ nhất cao thủ đương thời, võ nghệ tuyệt luân. Hơn sáu trăm đạo sĩ của núi này đều dưới sự quản thúc của họ.
Hương hỏa ở Võ Đang sơn thịnh vượng, thế lực hùng hậu nhưng họ quyết không có hành vi coi khinh hay sỉ nhục người.
Chỉ có một việc là bất luận văn võ tướng giang hồ hiệp khách vừa đến Giải Tuyền kiếm thì phải bỏ kiếm, nếu mang đao, côn thì chẳng sao chỉ không được mang kiếm. Nếu trên Giải Tuyền kiếm có người mang bảo kiếm đi lên bọn họ quyết không tha.
Giang Tiểu Nhạn phát hiện A Loan mất tích nghĩ là đã bị Đạo Đăng bắt đến đây. Chàng tức giận cả đêm truy đuổi nhưng nghe nói núi này không có đạo cô. Nghe nói Thất Đại Kiếm Tiên cũng không dung cho nữ nhân ở lại núi này, nên chàng do dự, sau cùng quyết định mình sẽ không mang vũ khí.
Tiểu Nhạn lên núi khi trời còn mờ sáng. Võ Đang sơn chìm đắm trong làn sương mù dày đặc. Đá núi dường như đã được nhuộm trắng. Những làn gió thu sớm rét buốt khiến người ta càng dễ cảm nhận sự lạnh lẽo. Chim rừng hãy còn chưa tỉnh giấc. Tiểu Nhạn chỉ vận một chiếc áo xanh đơn mong manh, chân mang hài cỏ, lầm lũi đi lần lên núi. Trong cảnh mờ mịt của sương mù, cảnh vật khó thể phân biệt, sơn đạo cũng khó nhận ra nên chàng không dám vội vã.
Tiểu Nhạn mải miết đi hồi lâu, đôi giày cỏ dưới chân đẫm ướt sương đêm dần dần rách nát, chàng đành tháo ra ném đi. Nhờ đôi chân đã từng được trui rèn, giẫm đạp chẳng biết bao nhiêu dãy núi Cửu Sơn cho nên lúc này chàng lại có phần còn tiện lợi, nhanh nhẹn hơn mang hài.
Hồi lâu, Tiểu Nhạn nghe trong màn sương mù có tiếng chuông ngân. Chàng cảm thấy tiếng chuông nghe sao thân thiết gần gũi dường như gần đâu đây có miếu đình, chàng lắng tai nghe tiếng chuông vọng từ đâu đồng thời đi về hướng đó.
Không xa, chàng nhìn thấy trước mặt có một vách đá cheo leo. Dưới vách đá đó là một biển sương mù trắng đục dày đặc không nhìn thấy được vật gì. Tiếng chuông cơ hồ như từ nơi đó vang lên.
Lúc này nếu muốn tìm đường đi xuống thật chẳng phải là chuyện dễ dàng.
Tiểu Nhạn đứng phía trên bồn chồn hồi lâu.
Tiếng chuông đã dứt chỉ còn dư âm vang trong gió núi. Tiểu Nhạn hít một hơi dài chân khí, thầm tính toán rồi đề khí buông thân mình nhẹ nhàng từ từ rơi xuống.
Chỉ nghe “Bịch” thân hình Tiểu Nhạn đã rơi trên ngọn cây. Tay chân tuy bị nhánh cây đâm đau nhức, nhưng chàng vội vẹt nhánh cây sang bên nhảy xuống đất. Thì ra, nơi đây đã ở giữa miếu.
Tiểu Nhạn vừa đứng thẳng người dậy thì cửa chính diện đã mở, đột ngột từ trong xuất hiện một con báo đốm hoa, trên có còn một sợi dây xích nhe nanh múa vuốt leo lên cây.
Vừa thấy Tiểu Nhạn, con báo hoa phóng tới. Tiểu Nhạn vội rùn thấp người xuống đưa tay chụp lấy yết hầu con báo đứng dựng lên.
Báo hoa đứng thẳng như người ngẩng đầu há miệng nhưng yết hầu bị chụp cứng không thể xoay chuyển, hai chân quơ quào, đuôi báo quẫy đập dữ dội, gầm gừ ghê sợ.
Tiểu Nhạn vội vung tay điểm thẳng vào giữa trán báo hoa khiến nó rống lên dữ dội. Tiểu Nhạn buông tay, báo hoa té vật xuống. Tiểu Nhạn bước đến liên tiếp đấm vào ngực nó, đến chừng chàng ngừng tay thì báo đốm cũng đã trợn mắt há miệng chết tự khi nào rồi.
Tiểu Nhạn chỉ tay vào trong điện hét lớn :
- Lão đạo gian ác nuôi báo kia. Mau ra đây!
Cửa điện thờ đã đóng chặt. Tiểu Nhạn sợ trong đó còn có mãnh thú nào nữa nên không dám mạo hiểm xông vào, bèn nhặt hai hòn đá cầm sẵn trong tay rồi mới chầm chậm đi vào luôn miệng mắng.
Trong điện vọng ra tiếng hỏi :
- Mi là cường đạo nơi đâu dám đến đây náo loạn Tam Thanh?
Tiểu Nhạn đẩy cửa. Bên trong có một đạo sĩ trẻ tuổi tay cầm kiếm bổ đến chàng Tiểu Nhạn vội thoái lui hai bước, đạo sĩ đuổi theo, bảo kiếm đâm vào ngực Tiểu Nhạn.
Tiểu Nhạn né người sang trái rồi thuận tay ném một viên đá trúng ngực đạo sĩ khiến thân hình hắn lắc lư, thừa cơ Tiểu Nhạn đoạt lấy kiếm của hắn. Đạo sĩ muốn đoạt kiếm lại nhưng Tiểu Nhạn đã phóng một cước đá đạo sĩ té lăn trên mặt đất.
Đạo sĩ bật ngồi dậy nhưng ánh kiếm lóe lên lướt ngang đầu đạo sĩ. Đạo sĩ vội vã cúi đầu khom lưng tránh né.
Lúc này, một đạo nhân từ trong viện bước ra thét lớn :
- Dừng tay! Mi là ai lại dám đến đây quấy rối?
Tiểu Nhạn vội thoái lui, thu kiếm lại. Nhìn xem thì thấy đạo sĩ này tướng mạo bất phàm ước khoảng trên bốn mươi.
Tiểu Nhạn nói :
- Đạo sĩ. Các ngươi thật không biết lý lẽ. Ta đến đây tìm người, ngay cả kiếm cũng không mang theo vì ta vốn biết quy củ của núi này, chứng tỏ ta rất hiểu biết đạo nghĩa, còn bọn ngươi lại hung ác cho báo tử cắn chết ta. Nếu chẳng phải là Giang Tiểu Nhạn ta mà là người khác tất bị hại dưới móng vuốt hổ báo của các ngươi rồi.
Đạo sĩ vừa nghe Giang Tiểu Nhạn xưng danh đã giật mình biến sắc nói :
- Ra mi là Giang Tiểu Nhạn. Nghe nói mi cũng là truyền nhân của Võ Đang phái. Đến đây mi càng phải theo quy củ không được lỗ mãng với tổ sư.
Tiểu Nhạn lạnh lùng trách :
- Tổ sư cũng không được nuôi báo tử. Các người trong miếu nuôi báo tử như vầy nhất định không phải là người tốt.
Đạo sĩ lên tiếng :
- Báo này do bần đạo nuôi. Trước nay nó chưa từng đả thương một ai. Nó có tính người đó.
Nói xong, đạo sĩ đưa mắt nhìn thấy báo hoa nằm dài bất động trên đất ánh mắt lão vừa xót xa thương cảm vừa phẫn nộ.
Tiểu đạo sĩ đứng bên cạnh nói :
- Tên này vừa từ trên ấy nhảy xuống. Đồ đệ xem hắn không phải người thiện lương nên đã thả báo ra.
Tiểu Nhạn cười nhạt hỏi :
- Chẳng hay đạo sĩ danh tánh đạo hiệu là gì?
Đạo sĩ :
- Bần đạo là Trần Kiếm Phi. Hắn là đồ đệ của bần đạo.
Tiểu Nhạn cung kính nói :
- Như vậy người là một trong Thất Đại Kiếm Tiên. Trong Thất Đại Kiếm Tiên trừ Lăng Vân Kiếm Khách Lữ Sùng Nhai ra các vị đều là người tốt. Tại hạ đến đây ý muốn tìm một người.
Kiếm Phi nghiêm sắc mặt hỏi :
- Người đó là ai?
Tiểu Nhạn vội đáp :
- Tại hạ muốn tìm Đạo Đăng đạo cô ở Cửu Tiên quan. Bà ta đã bắt cóc thê tử A Loan của tại hạ đến đây.
- Làm sao có chuyện đó được.
Tiểu Nhạn nói :
- Núi này miếu quan sát rất nhiều. Đạo Đăng đem thê tử tại hạ ẩn nấp một nơi nào đó mà chư vị cũng không biết được. Đạo trưởng bất quá là một tiền bối trong Thất Đại Kiếm Tiên. Tại hạ muốn gặp Huyền Thanh, Huyền Hải, Huyền Thọ, xin đạo trưởng đưa tại hạ đến gặp họ để kiếm người.
Kiếm Phi nhìn Tiểu Nhạn rồi cúi nhìn báo tử nằm chết, gật gật đầu, mặt thoáng đanh ác đáp :
- Được! Hãy chờ giây lát bần đạo sẽ dẫn người đến Ngộ Chân cung.
Dứt lời, lão quay người đi vào. Tên tiểu đạo sĩ trừng mắt nhìn Tiểu Nhạn rồi cũng đi vào trong viện. Trong sân chỉ còn Tiểu Nhạn.
Tiểu Nhạn nhìn lên thấy mái ngói điện làm bằng thiếc đen. Chàng thấy thật lạ lùng, phi thân lên gỡ một miếng bỏ vào hành lý, sau đó, chàng xem xét một lượt nhưng không có gì khả nghi.
Tiểu Nhạn đi tới lui trong sân mấy lần mới thấy Kiếm Phi dẫn hai tiểu đạo sĩ bước ra. Lần này tỏ vẻ khách sáo thủ lễ rồi mới nói :
- Hiện giờ bần đạo sẽ đưa người đến Triển Kỳ phong. Đến đó bất luận thể nào cũng không được vô lễ với tổ sư. Nếu không cả bần đạo cũng có lỗi. Bảo kiếm phải buông xuống. Đừng nói người ngoài, ngay cả bọn chúng ta cũng phải tuân thủ không được mang kiếm ra khỏi cửa.
Tiểu Nhạn gật đầu, ném kiếm xuống.
Lúc nãy hai tiểu đạo sĩ đi trước. Kiếm Phi và Tiểu Nhạn cũng ra khỏi quan.
Sương mù cũng đã dần tan, sơn lộ ẩn hiện lờ mờ. Tiếng chim cũng ríu rít trên cao.
Đường thật khó đi, càng đi dần lên phía trên, chẳng biết ngọn núi này cao bao nhiêu trượng. Nửa ngọn núi ẩn trong mây mù, phần nửa phía dưới đầy đá núi bên nhọn mấp mô, trơn trợt như băng. Hai bên sơn lộ đều có treo những sợi dây xích rất to rất dài. Muốn đi lên phải lần theo những sợi xích đó. Hai tiểu đạo sĩ đi lần theo sợi dây xích này có vẻ nhẹ nhàng nhanh chóng.
Kiếm Phi nói :
- Đây là Triển Kỳ phong. Lên trên là Ngộ Chân cung. Bần đạo đi trước hay là người đi trước.
Tiểu Nhạn cười :
- Xin đạo trưởng đi trước đi.
Kiếm Phi nắm dây xích chầm chậm đi lên. Thỉnh thoảng quay đầu nói với Tiểu Nhạn :
- Phải cẩn thận. Rơi xuống là tử vong đó.
Lúc đầu mới lên Tiểu Nhạn còn lần theo dây xích, lên khoảng ba dặm chàng chỉ dùng chân trần bám trên đá mà đi. Thân hình dán vào vách núi dùng thuật Bích Hổ Du Tường mà di chuyển.
Kiếm Phi nhìn thấy mặt pha chút kinh dị nói :
- Thí chủ đi vậy rất nguy hiểm.
Tiểu Nhạn nói :
- Đạo trưởng không cần phải bận tâm. Nếu tại hạ rơi xuống coi như đã đền mạng cho báo tử.
Nói đến đây, đột nhiên Kiếm Phi hai tay lần theo dây xích tuột nhanh xuống, hai chân đá lên đầu Tiểu Nhạn.
Tiểu Nhạn thân hình lảo đảo, chàng loạng choạng muốn chụp sợi dây xích nhưng không kịp lập tức rơi xuống dưới. Nhưng giữa lưng chừng, Tiểu Nhạn đã sớm ổn định tư thế vì vậy khi rơi xuống chàng vẫn đứng vững trên đá, chẳng hề bị thương.
Tiểu Nhạn giận dữ ngẩng đầu nhìn xem thấy Kiếm Phi như con vượn nương theo dây xích mà bò lên trên. Tiểu Nhạn giận quá hét to :
- Lão mũi trâu dám đánh lén ta à?
Nói dứt, chàng tức thời lấy mảnh ngói trong người ra, dùng hết sức bình sinh ném lên. Chỉ nghe một tiếng kêu thảm vang lên. Kiếm Phi như một chiếc diều đứt dây chao đảo rơi xuống.
Hai tiểu đạo sĩ ngoảnh đầu nhìn thấy thất kinh kêu lên, rồi như hai tiểu hầu bò nhanh lên núi.
Tiểu Nhạn cúi nhìn, thấy Kiếm Phi đã hôn mê. Trên đầu chảy đầy máu tươi. Miếng ngói thiếc đó cũng rơi cách thân hình Kiếm Phi không xa.
Lúc này trên đỉnh núi tiếng chuông gióng lên vội vã. Tiểu Nhạn hậm hực nói :
- Hiện giờ không nói lý lẽ được nữa rồi. Ta đả thương người trong Thất Đại Kiếm Tiên, bọn họ quyết không buông tay đâu.
Thế là Tiểu Nhạn nhặt ngói thiếc lên cất vào trong ngực, nắm sợi xích đi lần lên.
Lúc này, tiếng chuông ngân càng lúc càng khẩn cấp vang xa trong núi, dồn dập như cơn hồng thủy, càng dâng trào.
Tiểu Nhạn vừa vươn người đứng thẳng trên đỉnh núi thì ba, bốn mươi đạo sĩ mặc áo ngắn tay cầm kiếm lỗ chỗ vây quanh. Kiếm quang trong sương mờ lấp lóe như lớp lớp linh xà. Bọn họ đồng loạt xông lên.
Trong đám đạo sĩ trùng trùng vây chàng có một đạo sĩ tóc bạc như cước. Tiểu Nhạn nhận ra chính là Sở Kiếm Hùng, trước kia từng giao thủ với Kỷ Quảng Kiệt bị bức đến té xuống núi.
Người này tuy danh phận trong Thất Đại Kiếm Tiên thấp kém nhưng võ nghệ xem là thuộc hàng thứ hai.
Kiếm Hùng xông lên trước, gió thổi râu tóc phất phơ, phẫn nộ hỏi :
- Mi là Giang Tiểu Nhạn? Dám đến Võ Đang phái chỗ trang nghiêm của tổ sư mà náo loạn. Dám giết chết đồ đệ của ta?
Tiểu Nhạn khoát tay, trầm mặt :
- Các người không thông đạo lý.
Lời chưa dứt, Kiếm Hùng đã nhanh như chớp đâm kiếm đến.
Tiểu Nhạn né người sang phải nhưng bên phải cũng có mũi kiếm đâm tới. Tiểu Nhạn né sang phải, bên trái cũng có kiếm đâm đến. Rồi phía sau lại có vô số kiếm đâm vào.
Tiểu Nhạn giận dữ phi thân vọt lên đi ngang qua trên vai Kiếm Hùng.
Kiếm Hùng lật ngược tay đâm lên nhưng Tiểu Nhạn đã đạp trên vai bốn đạo sĩ đoạt thanh bảo kiếm nhảy vào giữa đám người nọ. Kiếm quang chớp nhoáng bảo hộ lấy toàn thân.
Tiểu Nhạn giận dữ nói với đám đạo sĩ đang vây chặt lấy chàng :
- Tốt lắm! Ai tiến lên thì sẽ chết. Hãy nghe lời ta nói trước đã. Giang Tiểu Nhạn ta, trước xin tội với Trương Tam Phong tổ sư thứ cho ta trên núi này mà dùng kiếm, sau đó ta sẽ giết tận hết bọn lang sói tàn bạo các ngươi để Võ Đang này được trong sạch.
Nghe đến đây, Kiếm Hùng nộ khí sung thiên, lập tức vung kiếm đâm đến đồng thời mấy mươi tên đạo sĩ cũng xông đến.
Kiếm Hùng nhanh như cắt, liên tiếp tung chiêu tấn công.
Thanh kiếm Tiểu Nhạn như thần long vẫy vùng giữa muôn ngàn ánh kiếm, thoắt tiến thoắt lui, chợt tả, chợt hữu, nhanh nhẹn lạ thường.
Vừa đấu hơn mười hiệp thì nghe có tiếng kêu thảm, Tiểu Nhạn đã đâm ngã một đạo sĩ.
Kiếm Hùng vung tay chỉ huy trận đấu, kiếm quang trùng trùng vây khốn Tiểu Nhạn.
Tiểu Nhạn vung kiếm loang loáng bảo hộ thân mình, vừa đánh vừa lui. Mắt thấy bên cạnh là một đạo quan chàng bèn vận khí nhảy vọt lên tường.
Bên trong tường cũng có mấy đạo sĩ đang cầm kiếm chờ chàng.
Tiểu Nhạn nhảy xuống giao thủ với mấy đạo sĩ. Bọn đạo sĩ bên ngoài do Kiếm Hùng chỉ huy cũng đã xông vào gia nhập.
Tiểu Nhạn lại vừa đánh vừa lui đến bên cạnh lầu chuông thì vọt người lên khỏi đầu bọn đạo sĩ, phi thân lên lầu chuông.
Thấy một đạo sĩ đang gióng chuông, Tiểu Nhạn chụp lấy ném gã xuống lầu. Sau đó dùng kiếm cắt đứt dây chuông, rồi vận sức nâng đại hồng chung nặng mấy trăm cân này giơ cao ném mạnh xuống lầu.
“Ầm” một tiếng long trời lở đất, chấn động khiến mái ngói rung lên. Có mấy tiếng la thảm thiết, chuông chạm vào đá khiến đá vỡ vụn mà chuông cũng gãy mấy mảnh.
Tiểu Nhạn cầm kiếm hét :
- Ai dám lên đây?
Bọn đạo sĩ hoảng sợ ùn ùn thoái lui. Có mấy đạo sĩ bị chuông rớt xuống trúng thương được đồng đạo cứu ra.
Kiếm Hùng râu tóc dựng ngược đứng dưới lầu, dùng kiếm chỉ lên, gầm gừ nói :
- Tiểu Nhạn mau xuống đây chịu chết, bằng không lão đạo sẽ thiêu hủy lầu chuông này xem mi có thể bay...
Nói đến đây, Tiểu Nhạn lấy ra miếng ngói thiếc ném xuống trúng ngay đỉnh đầu Kiếm Hùng.
Kiếm Hùng liền ngã xuống bất tỉnh. Có mấy đạo nhân bước đến đỡ lão dậy.
Lúc này, bọn đạo sĩ đành giương mắt nhìn, chưa biết phải làm gì. Chợt từ ngoài đi vào bốn đạo sĩ. Hai người râu bạc trắng, một người râu đen và một người niên kỷ không quá ba mươi.
Tiểu Nhạn nói :
- Hay lắm! Các người chắc chắn là Thất Đại Kiếm Tiên. Mọi người đã có mặt, chỉ còn thiếu một. Toàn bộ các vị hãy lên đây.
Một đạo sĩ râu tóc bạc phơ, thân hình cao lớn giống như Bào Côn Lôn, ngửa mặt cười lớn :
- Tiểu Nhạn, mau xuống đây. Chúng ta đàm luận!
Tiểu Nhạn cười lạnh nói :
- Lúc này còn gì để nói nữa. các ngươi quá đông. Kỳ thực ta không sợ đâu, nhưng các người đó chỉ là kẻ vô can nên không nỡ ra tay đả thương. Ta chỉ muốn đấu cùng Thất Đại Kiếm Tiên thôi.
Lão đạo sĩ tự xưng danh :
- Ta là Huyền Hải.
Rồi chỉ một lão đạo cùng xấp xỉ tuổi lão nói :
- Đây là sư đệ Huyền Thọ của ta.
Lại chỉ vào hai người kia nói :
- Đây là Kiếm Siêu và Lữ Sùng Nhai. Bọn ta ở đây chuyên tâm tu hành không màng đến thế sự. Danh hiệu Kiếm Tiên là do giang hồ ban tặng chứ bọn ta chưa dám tự xưng. Võ Đang sơn mấy trăm năm nay chưa từng có người nào đến náo loạn. Hôm nay tiểu tử Giang Tiểu Nhạn mi dám đến đây hoành hành phạm đến linh uy của Chân Võ gia. Sát hại Tam Thanh đệ tử.
Tiểu Nhạn cười nhạt nói :
- Đệ tử Tam Thanh của chư vị có thể nuôi báo cắn người, dung cho đạo cô cướp dân nữ đến đây sao?
Huyền Hải lộ nét ngạc nhiên nói :
- Việc này từ đâu mà có? Tiểu Nhạn, ngươi mau xuống đây đàm đạo cùng lão đạo, ta quyết không đả thương mi.
Tiểu Nhạn tay cầm bảo kiếm phi thân đáp xuống, mỉm cười nói :
- Ai sợ các người đả thương ta. Giang mỗ ta chỉ mong các người đừng tự tìm cái chết.
Huyền Hải hỏi :
- Mi bảo bọn ta nuôi dưỡng báo tử. Vậy con báo đó ở đâu?
Tiểu Nhạn nói :
- Trong miếu của lão đạo Kiếm Phi có một con nhưng ta đã đánh chết rồi. Nếu chẳng phải Giang mỗ ta có chút tài nghệ, ắt đã bị nó nuốt mất rồi.
Huyền Hải giật mình, sắc mặt lộ sự giận dữ, hỏi hai tiểu đạo. Cả hai đáp :
- Miếu bên dưới có một con báo là Trần sư thúc nuôi dưỡng từ nhỏ, chưa từng hại ai.
Huyền Hải dần dần lấy lại bình tĩnh nói :
- Vì bên dưới quá vắng vẻ, sợ cường đạo xâm nhập nên mới nuôi một con báo giữ núi. Mi nếu không tự tiện xông vào, nó bất tất đã hại mi. Còn việc cướp dân nữ là ở đâu? Phụ nhân đó là nhi nữ nhà ai?
Tiểu Nhạn giận dữ nói :
- Chính là ở đây. Nghe nói nơi này kết giao với Đạo Đăng đạo cô Cửu Tiên quan. Bà ta đã cướp thê tử của ta đến nơi đây.
Huyền Hải vừa nghe lời này, ngoảnh mặt nhìn Lữ Sùng Nhai, thì một đạo sĩ khoảng trên dưới ba mươi, mặt trắng, tướng mạo anh tuấn, bước qua khom người thi lễ với Tiểu Nhạn, rồi một tay cầm kiếm bình thản nói :
- Có lẽ thí chủ đã bị người ta gạt rồi. Đạo cô Đạo Đăng năm rồi có đến bái hương ở Chân Võ miếu xong là đi ngay, làm sao có thể quen với bọn ta. Chu vi Võ Đang sơn rộng lớn hơn mấy trăm dặm, miếu quan sát rất nhiều. Phía sau núi cũng có nhiều thôn làng. Thí chủ có thể đến các nơi tìm xem không nên đến đây vu oan.
Tiểu Nhạn suy nghĩ rồi nói :
- Được! Thế thì tại hạ sẽ đi tìm. Nếu tìm không ra, tại hạ lại phải đến đây làm phiền. Tại hạ xin tạm biệt!
Nói dứt, Tiểu Nhạn quay người định đi. Không ngờ, Huyền Hải như tên bắn vọt người đến trước ngón tay điểm vào lưng Tiểu Nhạn.
Nghe tiếng gió phất lên quái lạ. Tiểu Nhạn nghiêng vai né tránh. Chàng cười nhạt :
- Chiêu thức này đạo trưởng muốn đem thi triển trước mặt ta sao?
Chẳng nói chẳng rằng, Huyền Hải xuất kiếm chém xuống. Tiểu Nhạn vẫn bình tĩnh giơ kiếm nghinh chiến.
Huyền Hải bừng bừng nổi giận nói :
- Tiểu Nhạn, mi sát thương sư điệt của ta, khuấy phá Triển Kỳ phong, lại có thể tự tiện ra đi sao?
Tiểu Nhạn trợn mắt nói :
- Vậy các ngươi muốn thế nào?
Huyền Hải khô khan cười nói :
- Chí ít tiểu tử mi cũng phải quỳ dưới đất nhìn về tổ sư điện mà đốt hương thỉnh tội. Sau đó, trói mi lại nộp cho quan.
Tiểu Nhạn hừ một tiếng lạnh lùng vung kiếm chém Huyền Hải.
Huyền Hải vung kiếm tương nghinh. Huyền Thọ, Kiếm Siêu cũng đồng thời bước lên trợ lực. Bốn người vây công Tiểu Nhạn. Chỉ có Lữ Sùng Nhai nép một bên đưa mắt nhìn xem.
Một thanh kiếm của Tiểu Nhạn phải chống đỡ mấy thanh kiếm của Kiếm Tiên Võ Đang phái, nhưng không chút nao núng sợ sệt.
Kiếm pháp của Huyền Hải, Huyền Thọ cực kỳ cao cường, còn Kiếm Siêu, Kiếm Hùng lực đánh cương mãnh lại thêm bên ngoài đạo sĩ cầm kiếm vây chặt càng lúc càng đông, có hơn năm, sáu mươi người nhằm uy hiếp tinh thần đối phương.
Huyền Thọ hét to một tiếng, toàn bộ đạo sĩ như sóng triều tràn đến.
Thanh kiếm trong tay Tiểu Nhạn quẫy lộn, vẫy vùng, gương mặt anh tuấn của chàng đanh lại. Những chiêu thức kỳ bí, tuyệt luân, chàng mang ra thi triển mở rộng một con đường để từ đó Tiểu Nhạn phi thân như tên bắn vọt lên gác chuông, rồi từ lầu chuông bay người nhảy ra ngoài quan.
Kiếm Hùng, Kiếm Siêu lĩnh xuất bọn đạo sĩ nhanh chóng đuổi theo.
Tiểu Nhạn vừa đánh vừa lui, dần dần đã lui đến vách đá treo. Tiểu Nhạn hoành kiếm dừng lại cười nhạt :
- Bọn ngươi hay lắm, đến đây!
Bọn đạo sĩ như muôn đợt sóng cầm kiếm tràn lên, có người còn dùng cung tên bắn chàng. Tiểu Nhạn gạt nhanh mấy mũi tên, rồi ngửa mặt lên trời cười vang cả một góc núi. Tiểu Nhạn đề khí phi thân xuống như một chiếc lá rơi đáp xuống đất. Vẫn còn mấy viên đá và mũi tên lao theo. Tiểu Nhạn vội nhanh chân chạy đi.
Chạy đến một sơn đạo, chàng dừng chân dừng lại. Sương mù lúc này đã tan hết. Có mấy tiều phu ở phía xa xa đang đốn củi. Tiểu Nhạn thở ra một hơi dài đi gần đến xem. Thì ra mấy tiều phu này đều mặc đạo bào.
Tiểu Nhạn bèn ném kiếm xuống đất, bước đến ôm quyền hỏi :
- Chư vị chắc bận rộn lắm?
Mấy đạo sĩ ngừng tay, có người chào hỏi :
- Thí chủ định hỏi thăm việc gì?
Tiểu Nhạn thở dài nói :
- Tại hạ là lương dân ở Hán Trung phủ, cư trú an phận trong nhà. Không ngờ có đạo cô đi hóa duyên chính là Đạo Đăng ở Vân Thê lãnh Cửu Tiên quan, bà ta gặp thê tử của tại hạ thì đả thương, rồi cướp đi. Tại hạ báo quan, quan nhân có truy nã nhưng không tìm được gì. Người trong miếu nói bà ta đã đem thê tử đến Võ Đang sơn này.
Mấy đạo sĩ vừa nghe đã thất kinh nói :
- Bọn ta có biết Đạo Đăng đạo cô. Bà ta là sư tỷ của Thiết Trượng Tăng. Quả thật không phải thiện lương.
Người khác lại nói :
- Đạo cô Đạo Đăng thường đến núi này. Bà ta không dám lên Triển Kỳ phong, Ngũ Long Phong, Tử Tiêu phong vì Thất Tiên gia gia không cho phép. Bà ta chỉ đến một vùng phía sau núi và Giải Kiếm tuyền mà thôi. Hôm qua ta gánh củi vào thành trên đường có gặp bà ta.
Tiểu Nhạn vội hỏi :
- Bà ta ở trong thành sao?
Đạo sĩ gật đầu :
- Đúng vậy. Nhưng không chính xác bà ta đang ở nơi nào.
Tiểu Nhạn thi lễ :
- Tại hạ xin đa tạ!
Rồi vội quay người, cầm kiếm lên đi thẳng xuống núi.
Lúc này, sương mù tan nhưng ánh thái dương vẫn còn chưa ló dạng. Chỉ thấy núi non trùng điệp khó biết phương hướng. Tiểu Nhạn đành phải tiếp chạy thẳng xuống.
Đi một lúc sau, bên tai nghe có tiếng thác đổ biết là đã đến Giải Kiếm tuyền, chợt nghe giữa chừng núi có một đạo sĩ khoát tay nói :
- Giang thí chủ, bên phải có một sơn lộ. Ngươi lên đây ta có mấy lời muốn hỏi.
Tiểu Nhạn nhìn xem thì ra đó chính là Lăng Vân Kiếm Khách Lữ Sùng Nhai trong Thất Đại Kiếm Tiên.
Tiểu Nhạn cười nhạt nhún người vọt lên, đến giữa chừng núi. Lữ Sùng Nhai gật đầu, tán dương nói :
- Hảo thân pháp!
Tiểu Nhạn chỉ mỉm cười bước đến gần nói :
- Lữ đạo gia, vừa rồi tại hạ giao chiến với họ, chỉ có đạo gia đứng ngoài không tham chiến. Thực là hảo bằng hữu.
Lữ Sùng Nhai :
- Bần đạo vốn không phải người nhà của họ. Thiên hạ cứ gán ghép bần đạo là một trong Thất Đại Kiếm Tiên, khiến bần đạo không vui chút nào.
Tiểu Nhạn nói :
- Nghe khẩu âm của đạo gia cũng chẳng phải nơi đây, vì sao lại cùng sống với họ.
Lữ Sùng Nhai nói :
- Bần đạo không chỉ không một nhà với họ mà ngay cả làm đạo sĩ cũng không phải. Ba năm trước ở gia trang vì ngộ sát một người bị quan nhân truy bắt phải đến nơi này. Trước nay ta cũng không biết niệm kinh, không quen tĩnh tọa.
Tiểu Nhạn hỏi :
- Vậy đạo gia người ở đâu?
Lữ Sùng Nhai nói :
- Quý Châu, Uy Ninh huyện. Ta và Đạo Đăng là đồng hương. Thí chủ nếu muốn hỏi Đạo Đăng mà đến tìm ta là đúng rồi, đâu phải mất công một chuyến lên Triển Kỳ phong, lại còn kết thêm oán thù với Võ Đang. Thí chủ tuy võ nghệ cao cường, nhưng vì chưa gặp phải Huyền Thanh. Nếu đạo sĩ này xuất hiện thì tính mạng thí chủ khó bảo toàn.
Tiểu Nhạn cười nhạt :
- Đạo gia đừng đem đệ nhất Kiếm Tiên trong Thất Đại Kiếm Tiên ra hăm dọa tại hạ. Tại hạ đến đây không phải để chiến đấu, tại hạ cũng biết tuy các người đó có kiêu ngạo nhưng vẫn là người tốt. Tại hạ chỉ mong hiện giờ đạo gia có thể nói rõ Đạo Đăng ở nơi nào, tại hạ chỉ cần tìm được thê tử thì coi như xong việc, tại hạ cam đoan sẽ không hại đến tính mạng bà ta.
Lữ Sùng Nhai nói :
- Thí chủ hại đến tính mạng bà ta cũng vô can với ta. Đạo Đăng tuy cùng là đồng hương, nhưng bà ta chẳng biết phải trái. Ta có thể nói cho thí chủ biết ba nơi, một là Quý Châu, Uy Ninh huyện Thảo Hài bàn, một là Hy Sơn Thái Cực quan, còn một nữa là Lĩnh Nam.
Tiểu Nhạn nghe nói lòng mừng rỡ, vòng tay thi lễ :
- Tại hạ thật vô vàn cảm kích người. Tạm biệt!
Dứt lời, Tiểu Nhạn lại nhảy xuống theo sơn đạo đi dần xuống núi. Mải miết đi đến khi trước mặt lại hiện ra một núi cao chàng lại bò dần lên. Đến đỉnh núi nhìn xuống, lắng nghe tiếng thác đổ mà định phương hướng, chạy quanh co khúc khủyu hồi lâu qua hai ngọn núi nữa, chợt tỉnh ngộ, chàng dừng bước nghĩ :
“Hôm nay ở đây xảy ra giao đấu, mất mấy mạng người. Tiểu Nhạn ta nếu chỉ bức bách mấy đạo sĩ, ở núi này loạn sát nhân mạng, chuyện này truyền ra ngoài tất bị thiên hạ chê cười. Như vậy nhất định Đạo Đăng là có ở nơi này, nhưng trừ Lữ Sùng Nhai ra chắc rằng khó ai biết được. Chỉ cần ta âm thầm theo dõi Lữ Sùng Nhai tất có thể tìm ra tung tích của Đạo Đăng”.
Thế là Tiểu Nhạn chạy ngược trở lại theo sơn lộ chạy lên đỉnh núi tìm một tảng đá to ngồi bệt phía sau nghỉ ngơi, rồi từ trên nhìn xuống, chàng bắt gặp một tòa viện rộng lớn, có hai tầng điện miếu.
Tiểu Nhạn ngồi trên hồi lâu, rồi nhìn thấy tòa viện phía tây ở sau hậu viện bước ra một người. Người này mặc trường bào, ngẩng mặt, vươn vai ưỡn ngực, thì ra đó chính là Lữ Sùng Nhai.
Tiểu Nhạn nghĩ thầm :
“Quả nhiên hắn đến nơi này. Ta muốn xem gã giả đạo sĩ này sẽ đi đâu. Gã nhỏ tuổi anh tuấn như vậy, lời nói ôn hòa, nhưng chắc rằng tâm địa còn xấu xa hơn người khác”.
Lúc đầu, Lữ Sùng Nhai đi xuống phía dưới, Tiểu Nhạn phía trên nhìn thấy cũng lần bước theo dấu. Họ Lữ đi không xa lại trở ngược lên núi, dần dần đi cùng một sơn lộ với Tiểu Nhạn.
Tiểu Nhạn đành phải nép mình nhè nhẹ theo phía sau để tránh họ Lữ phát hiện, nhưng Lữ Sùng Nhai đi phía trước không hề ngoảnh đầu nhìn lại. Càng đi sơn lộ càng lên cao, càng gập ghềnh khúc khủyu.
Không biết đi được bao xa, thì trước mặt mây mù che khuất, chung quanh đây ngay gốc cây ngọn cỏ cũng chẳng có, tiếng chim cũng nghe thấy, Tiểu Nhạn lòng nghi hoặc nghĩ :
“Đạo Đăng có lẽ không có ở đây, dù có ở đây A Loan thương thế trầm trọng như vậy, không thể đi lên cao được. Hay là họ Lữ cố ý dẫn dụ ta đến đây. Gã đã an bài quỷ kế gì?”.
Lòng nghi hoặc, nhưng tâm ý chuyển lay, chàng tự tin nghĩ trong tay mình có kiếm, thế nên phấn chấn đi lên.
Chẳng thấy quan tự ở đây quy mô rộng lớn hơn các nơi khác. Tổng cộng có ba tầng điện. Tiểu Nhạn đền gần thấy cửa điện đóng chặt, màng nhện giăng chằng chịt, sơn môn này đã lâu chưa mở cửa bên trong chẳng biết có người không? Tiểu Nhạn dùng cán kiếm gõ vào cửa.
Đập cửa hồi lâu, thấy bên trong vẫn lặng yên không người lên tiếng. Tiểu Nhạn nghĩ thầm :
“Nơi này u tịch như vậy, nếu Đạo Đăng, thông đồng cùng với Lữ Sùng Nhai mà đem A Loan đến đây ẩn giấu, thì thật khó ai ngờ được”.
Chàng tức giận vượt tường đi vào. Bên trong vẫn không chút thanh âm. Cửa chính điện và các cửa sổ đều đổ nát, hoang phế. Có làn khói nhẹ từ phía sau bốc lên.
Tiểu Nhạn đi thẳng vào. Viện thứ hai lặng trang. Đến viện thứ ba, chàng mới gặp một đạo sĩ cầm búa bổ củi đi ra ngoài.
Vừa thấy Tiểu Nhạn, mặt đạo sĩ lộ vẻ kinh dị, dừng lại cau mặt hỏi :
- Mi là ai?
Tiểu Nhạn nói :
- Ta họ Giang. Đến núi này muốn tìm Lữ Sùng Nhai có việc thương lượng. Khi nãy ta nhìn thấy hắn lên nơi này, ta mới theo tìm hắn.
Đạo sĩ nói :
- Đây là Tử Tiêu phong, Thái Huyện quan, chỉ có ta ở đây hầu hạ lão phương trượng Huyền Thanh tu hành, không có người thứ ba đến. Lữ Sùng Nhai ở Ngũ Long phong, đến đó mà tìm. Hơn nữa mi dám cầm kiếm đến đây sao?
Tiểu Nhạn giận dữ nói :
- Ta rõ ràng thấy họ Lữ vào trong này, mi còn dám giảo hoạt. Ta muốn gặp Huyền Thanh đạo trưởng. Lão tuy là đệ nhất danh thủ trong Thất Đại Kiếm Tiên, nhưng Giang mỗ ta không sợ. Nói lão bảo đạo cô Đạo Đăng giao thê tử cho ta.
Dứt lời, đẩy đạo sĩ qua một bên rồi bước vào trong. Nghe bên trong bức rèm màu vàng ở phía tây có người hỏi lớn :
- Việc gì?
Thanh âm này có vẻ già nua. Tiểu Nhạn tay cầm kiếm tay vẹt màn thì thấy một lão đạo sĩ, thân không cao to, tóc râu bạc trắng như tuyết, mặc áo bào màu lam, tướng mạo cổ quái.
Tiểu Nhạn cầm kiếm bước đến vòng tay nói :
- Tiểu bối xin ra mắt lão đạo gia. Đại danh của lão đạo gia, tiểu bối cửu ngưỡng đã lâu. Người là đệ nhất danh gia trong Thất Đại Kiếm Tiên, còn tiểu bối là đồ đệ của Cửu Hoa sơn lão tiên sinh. Chỉ vì thê tử A Loan bị Đạo Đăng đạo cô bắt đi, tiểu bối được biết là chỗ quen biết của Lữ Sùng Nhai định ẩn giấu ở nơi này.
Huyền Thanh không chờ Tiểu Nhạn nói xong, mặt lộ sắc giận nói :
- Giang Tiểu Nhạn, hôm nay Triển Kỳ phong mi hoành hành ra sao, lão đạo đều đã rõ. Võ Đang sơn là nơi Chân Võ gia đắc đạo thông vi hiển hộ ngươi lại lớn mật làm càn.
Tiểu Nhạn vội vã giải thích :
- Không phải tiểu bối đến đây có ý náo loạn. Kỳ thực trên núi này có lối giấu ẩn nấp. Tiểu bối biết rõ quy củ, nên hôm nay lên núi kiếm cũng không mang. Hiện giờ, kiếm này là đoạt được từ trong tay đồ đệ bổn phái.
Chàng giơ kiếm trong tay lên cho Huyền Thanh xem. Lão gật đầu nói :
- Không sai! Kiếm này là của đệ tử bổn phái, nhưng thí chủ phải bỏ kiếm xuống rồi hãy nói chuyện.
Tiểu Nhạn gật đầu nói :
- Được.
Rồi ném xuống đất.
Không ngờ, Huyền Thanh xuất kỳ bất ý, ngay lúc Tiểu Nhạn bất phòng, đâm kiếm vào sườn trái Tiểu Nhạn.
Tiểu Nhạn ngàn lần không ngờ lão đạo Huyền Thanh danh phận cao quý như vậy, lại có thủ đoạn đê hèn đường đấy. Chàng cảm thấy toàn thân tê chồn. “Hự” một tiếng, té nhào xuống đất. Đầu đập vào khung cửa mục nát khiến đổ nhào xuống.
Tiểu Nhạn bất ngờ bật cười ha hả nói :
- Hay lắm! Hôm nay ta thấy bản lĩnh của Thất Đại Kiếm Tiên chỉ là một lũ chuột thối thủ đoạn tà ma.
Chàng vận khí định tự giải lấy huyệt đạo. Còn Huyền Thanh đi vào trong lấy ra hai sợi dây thừng rất dài trói tay chân chàng lại.
Bên ngoài đi vào một người chính là đạo sĩ vừa rồi, hắn nói :
- Tổ sư gia. Tên này sức mạnh vô cùng, dây thừng này sợ rằng trói hắn không được lâu.
Huyền Thanh dặn :
- Mi đi tìm dây rồi gọi thêm người tới. Nơi đây đã có ta canh giữ hắn quyết khó thoát.
Đạo sĩ tuân mệnh chạy đi. Lúc này, Tiểu Nhạn nghiến răng nói :
- Huyền Thanh, ta là đệ tử Cửu Hoa sơn lão tiên sinh, nếu lão muốn gây sự với người thì cứ giết ta đi.
Huyền Thanh sắc mặt biến đổi rồi lại sầm mặt, giận dữ nói :
- Tiểu tử, mi muốn đem sư phụ ra dọa ta à? Nếu lão đến ta cũng sẽ trói chặt lão lại như vậy. Lão đạo ta tu luyện ở nơi này ngót sáu mươi năm, chưa từng đả thương người. Chờ đồ đệ ta đến sẽ giải mi xuống dưới giao cho quan nha kết tội phá hoại sơn lâm, giết hại kẻ xuất gia.
Tiểu Nhạn cười nhạt nói :
- Được! Cứ làm đi, nhưng đừng để cho ta thoát ra. Nếu ta thoát được, không san bằng núi này là không thỏa nguyện.
Chàng một mặt mắng chửi, một mặt vận khí. Huyết mạch trong người sắp được lưu thông, thì bên ngoài đi vào ba đạo sĩ. Một là đạo sĩ đi kiếm dây mang vào mấy sợi thừng rất to, trói chặt tay chân Tiểu Nhạn lại. Ngoài ra còn hai người là Huyền Hải và Lữ Sùng Nhai.
Tiểu Nhạn mắng Lữ Sùng Nhai nhưng gã giả vờ không nghe mà thỉnh cầu với Huyền Thanh :
- Sư tổ, người này xin để đệ tử phát lạc để tránh hắn ở đây náo loạn chốn tu hành của sư tổ.
Huyền Thanh nghiêm mặt nói :
- Hắn có thể trên núi này giết người, nhưng bọn ta là kẻ xuất gia thì không thể khai sát giới. Mi muốn đem hắn đi sát hại sau lưng ta sao?
Lữ Sùng Nhai vội khom lưng xá, nói :
- Không dám!
Tiểu Nhạn nằm dài dưới đất nói :
- Huyền Thanh, ta thấy lão thật biết lý lẽ, thật là một đạo sĩ tốt. Chỉ cần lão thả ta ra, ta không nghĩ đến chuyện tranh đấu cùng lão mà chỉ muốn cùng Lữ Sùng Nhai đi tìm Đạo Đăng và thê tử của ta thôi.
Lữ Sùng Nhai biến sắc nói :
- Đừng thả hắn ra. Người này đồ đệ biết, hắn ở trên giang hồ chuyện ác gì cũng làm.
Tiểu Nhạn cười khẩy mai mỉa :
- Không ác không làm, nhưng ta đâu bằng mi. Cấu kết cùng đạo cô, đả thương dân nữ rồi cướp lên núi này.
Huyền Thanh hỏi :
- Điều này có căn cứ không?
Tiểu Nhạn nói quả quyết :
- Có bằng cứ. Tại hạ ở Vân Thê lãnh từng kết thù với Đạo Đăng, bà ta ước định tại hạ đến Võ Đang sơn để quyết đấu. Thê tử của tại hạ cũng mất tích ở am đó. Các đạo cô trong miếu đều thừa nhận thê tử của tại hạ đã bị Đạo Đăng cướp đến nơi này. Vừa rồi tại hạ hỏi các đạo sĩ đốn củi trên núi này, có người nói đã gặp Đạo Đăng hôm qua ở huyện thành mà Lữ Sùng Nhai lại dối gạt tại hạ đi đến Quý Châu đủ thấy hắn và Đạo Đăng cấu kết nhau. Thê tử của tại hạ bị bắt giữ nơi đâu hắn tất phải biết.
Huyền Thanh trợn mắt nhìn Lữ Sùng Nhai nói :
- Từ đây về sau không cho mi xuống núi, phải ở đây chờ ta điều tra rõ sự thật. Nếu Tiểu Nhạn nói thực, thì mi biết quy củ ở đây rồi chứ?
Họ Lữ khom người xá dài nói :
- Tất cả là do Tiểu Nhạn bịa đặt. Đồ đệ thực sự không rõ Đạo Đăng là ai. Vừa rồi chỉ vì nói ít lời với Tiểu Nhạn mà thôi. Xin tổ sư điều tra rõ, nếu đồ đệ có vi phạm thanh quy nguyện do người nghiêm trị.
Huyền Thanh gật đầu nói với Tiểu Nhạn :
- Vì tính tình mi quá ngang ngược, lão đạo mới trói lại. Mi ở đây chờ ba ngày ta điều tra rõ. Nếu mi nói thực, lão đạo sẽ phóng thích mi và trừng phạt Lữ Sùng Nhai, bằng như mi dựng chuyện hoàng đường cố ý đến đây phá rối...
Tiểu Nhạn cười nhạt :
- Ta vì nhất thời bất cẩn để lão có cơ hội thi triển thuật điểm huyệt khống chế. Giờ cầm bắt hay giết hại tùy các người.
Huyền Thanh gật đầu nói :
- Trong ba ngày, lão đạo quyết sẽ tìm ra sự thật.
Rồi bảo tiểu đạo sĩ và Lữ Sùng Nhai khiêng Tiểu Nhạn đi.
Tiểu Nhạn bị khiêng vào trong phía đông nội viện thứ hai. Điện này có hai gian nối nhau, bên trong có tượng thần và lư hương. Họ Lữ và đạo sĩ ném Tiểu Nhạn xuống đất.
Nhờ cái ném này, Tiểu Nhạn cảm thấy tay chân có phần linh hoạt, nhưng vì đã bị trói chặt thân thể, nên tự mình không thể mở ra, đánh phải nằm im cam chịu.
Họ Lữ cùng đạo sĩ chẳng thèm ngoảnh đầu nhìn, bỏ đi ra ngoài.
Tiểu Nhạn hậm hực mắng luôn miệng. Lữ Sùng Nhai không thèm quan tâm. “Kẹt” một tiếng, cửa đã đóng lại, rồi khóa chặt.
Tiểu Nhạn nhìn quanh thấy tường làm bằng đá có mấy cạnh nhọn nhô ra. Chàng bèn lăn người đến cạnh bên, lợi dụng những cạnh sắc đó mà cứa dây thừng nhưng mặc chàng cứa hết buổi tối cũng không sao cắt được.
Trong phòng lúc này thật tối tăm, Tiểu Nhạn ngồi dựa vào tường âu sầu lo lắng nghĩ ngợi. Chợt nghe tiếng mở cửa. Tiểu Nhạn giật mình nhìn thấy một người nhưng người đó không màng tới chàng, chỉ bước đến đốt đèn thắp hương trên bàn rồi quỳ xuống khẩn cầu. Tiểu Nhạn nhìn rõ đó chính là đạo sĩ tìm dây thừng trói mình.
Tiểu Nhạn lên tiếng :
- Bằng hữu, mau cởi dây trói cho tại hạ, để ta đi tìm Đạo Đăng và Lữ Sùng Nhai không động chạm đến các người. Nếu không, các người phải coi chừng tính mạng mình đó.
Đạo sĩ đập đầu chín cái rồi tắt đèn, không nói một lời, trở ra đóng cửa lại.
Tiểu Nhạn giận dữ mắng lớn mấy tiếng, đột nhiên trong bóng tối nhìn theo ánh sáng của chín nén hương, chàng chợt nảy sinh ra một ý. Chàng lập tức đứng thẳng người dậy, nhảy mấy bước đến trước hương án dùng miệng cắn môi nén hương châm vào sợi dây thừng đang bó chặt mình. Nhưng vì sợi dây to chắc nên đốt năm sáu nén hương, dây vẫn chưa đứt, lại xông khói lên rất nhiều khiến chàng ho sặc sụa.
Lúc này, bất ngờ lại có tiếng mở cửa, bên ngoài đi vào một người mặt nét đanh ác, thì ra là Đạo Đăng, bà ta thích chí cười hắc hắc, cương đao vùng lên chém xuống Tiểu Nhạn.
Tiểu Nhạn hiện giờ đang quỳ gối trên tấm thảm, dây trói trên người đã đốt mòn hơn phân nửa, chàng vận sức vào đôi tay vùng mạnh sợi dây thừng đứt ra.
Nhanh như cắt, Tiểu Nhạn xòe tay chụp vào cổ tay phải của Đạo Đăng thì Đạo Đăng cầm đuốc đánh vào mặt Tiểu Nhạn.
Tiểu Nhạn nghiêng đầu né khỏi, một tay vẫn còn cầm chặt cổ tay Đạo Đăng, còn một tay cầm đao cắt dây trói dưới chân mình.
Năm ngón tay của Đạo Đăng như móng vuốt chim ưng mạnh mẽ điểm vào sườn trái của Tiểu Nhạn, nhưng vì y phục bà ta quá rộng ngọn đuốc lại rơi bên cạnh, tay áo bắt lửa chớp nhoáng bốc cháy lên. Đạo Đăng kinh hoảng, năm ngón tay càng hết sức bấu cho được huyệt môn của Tiểu Nhạn.
Tiểu Nhạn như ánh sao băng lách người tránh khỏi, dùng cương đao chém xuống.
Đạo Đăng y phục đang bốc cháy vội vã lăn ra ngoài viện. Tiểu Nhạn đuổi theo.
Lúc này, y phục của Đạo Đăng càng cháy dữ dội, giống như một ngọn đuốc. Tiểu Nhạn như bóng theo hình, đuổi theo ngọn đuốc sống này lên mái điện một đao dũng mãnh chém đến. Chỉ nghe một tiếng la thê thảm. Đạo Đăng té lăn xuống đất, Tiểu Nhạn đứng lên mái điện thở dài.
Nhưng chàng không ngờ phía sau một luồng gió lạ ập tới, có người bất thần điểm vào sống lưng chàng. Tiểu Nhạn giật mình nhảy vội xuống dưới.
Trên nóc nhà chính là Huyền Thanh, trên tay lão cầm một cây gậy trúc. Lão cũng nhảy xuống và tiếp tục điểm vào huyệt đạo Tiểu Nhạn.
Chàng vung đao gạt gậy trúc ra, đồng thời thừa thế tiến lên một đao vũ bão chém xuống.
Huyền Thanh nghiêng người tránh khỏi, dùng gậy trúc chuyên điểm huyệt, nhưng cương đao của Tiểu Nhạn đã huy động thần oai ngăn chặn không cho gậy trúc của Huyền Thanh chạm vào người chàng.
Giao đấu hơn ba mươi hiệp thì có người và ánh sáng đuốc tiến lại gần. Tiểu Nhạn không ham tranh chiến, gạt gậy trúc của Huyền Thanh, phi thân thần tốc bay lên mái điện.
Huyền Thanh cũng theo bén gót dùng gậy trúc điểm tới sau lưng Tiểu Nhạn. Chàng xoay người vung đao. Một tiếng “cạch” khô khan, gậy trúc bị gãy làm hai đoạn. Cương đao Tiểu Nhạn tức thời chém tới Huyền Thanh, buộc lão phải nhanh chân nhảy xuống phòng.
Tiểu Nhạn bèn vọt lên cao phi thân rời khỏi viện lạc này. Chạy một đoạn nhìn xuống thấy nhiều ánh đuốc đi về phía điện này. Tiểu Nhạn tránh những nơi có ánh đuốc mà chạy.
Lúc này, trời tối mang mang. Gió thu lạnh lẽo thổi từng cơn.
Tiểu Nhạn chạy rất xa, tìm một tảng đá lớn buông đao nằm dài xuống lo lắng âm thầm nghĩ ngợi :
“Bọn đạo sĩ đông đảo như vậy, thuật điểm huyệt của Huyền Thanh lại rất lợi hại. Biết làm sao tìm được A Loan đây?”.
Chàng suy tính tới lui, dần dần mệt mỏi thiếp đi. Đến lúc cảm thấy thân thể lạnh lẽo, giật mình tỉnh giấc thì trời cũng đang dần trở sáng. Sương mù nặng nề bao phủ cả đỉnh núi. Chàng đứng dậy, cầm cương đao thẫn thờ không biết phải đi về đâu.
Chàng thầm nghĩ :
“Ta giao đấu với bọn đạo sĩ này dẫu có loạn sát cũng chẳng ích gì. Giờ ta chỉ còn cách bắt được Lữ Sùng Nhai, có thể hắn biết được chỗ của A Loan”.
Thế là, chàng lại cất bước xông pha sương mù, cầm đao đơn độc ra đi.
Rất lâu, chàng vượt qua mấy ngọn núi. Mây mù càng lúc càng dày đặc hơn, chợt Tiểu Nhạn nghe cách mình không xa có tiếng tụng kinh. Tiểu Nhạn thầm tính đến nơi đó tìm cơm sáng.
Tiểu Nhạn theo âm thanh tụng kinh mà chạy, thoáng chốc trước mắt đã xuất hiện một ngôi miếu. Chàng vọt lên tường nghe tiếng tụng kinh từ trong đại điện vọng ra, lòng nghĩ :
“Ta đã đến nơi”.
Thế là, Tiểu Nhạn nhẹ nhàng đáp xuống. Thấy phía sau có khói bay lên, chàng vội lần tìm đến, ra đấy là nhà bếp. Có một đạo sĩ đang thổi lửa nấu cháo.
Tiểu Nhạn đặt cương đao vào vách tường rồi bước đến ôm quyền nói :
- Đạo gia thật bận rộn, hôm nay sương mù xuống dày quá phải không?
Đạo sĩ giật mình, trợn mắt nhìn Tiểu Nhạn hỏi :
- Mi từ đâu đến đây?
Tiểu Nhạn đáp :
- Tại hạ Giang Nam đến để đốt hương bái phỏng Chân Võ gia gia. Chiều qua tại hạ lên núi gặp một tục gia đánh với các đạo gia, khiến tại hạ sợ hãi ẩn nấp trong sơn động cả một đêm. Hôm nay, sương mù dày quá, tại hạ cầu Phật Bồ Tát bảo hộ mới tìm được đến đây. Hiện giờ, thú thật tại hạ đói bụng quá rồi.
Nghe vậy, đạo sĩ cầm bát múc cho Tiểu Nhạn một báo cháo riêng cùng đôi đũa, chỉ vào một chiếc ghế bên cạnh nói :
- Ngồi xuống đây mà ăn đi.
Rồi đạo sĩ lại tiếp tục thổi lửa. Chỉ một loáng, Tiểu Nhạn đã ăn hết bát cháo. Mặc dù cháo hãy còn chưa chín, nhưng Tiểu Nhạn ăn cảm thấy rất ngon. Vẫn còn thòm thèm, chàng xin thêm bát nữa, được bốn bát, chợt nghe có tiếng người ngạc nhiên hỏi :
- Đao này của ai?
Tiểu Nhạn giật mình vội đặt chén xuống, đứng dậy chạy ra ngoài.
Chàng thấy trong viện có một đạo sĩ niên kỷ tứ tuần, dường như có giao đấu với mình hôm qua.
Đạo sĩ cầm đao lên chợt trông thấy Tiểu Nhạn, sợ quá thoái lui mấy bước.
Tiểu Nhạn khoát tay nói :
- Đừng sợ! Tại hạ vì đói khát một ngày qua mới đến đây xin cơm nước. Hiện giờ đã no lòng, xin các vị an tâm. Chỉ cần các vị đừng bức bách, tại hạ quyết không mạo phạm. Tại hạ chỉ muốn tìm Lữ Sùng Nhai và Đạo Đăng thôi.
Đạo sĩ bèn xá Tiểu Nhạn một xá nói :
- Giang thí chủ nói như vậy thì bần đạo cũng xin nói rõ. Bọn ta với thí chủ đối đầu cũng chỉ là bất đắc dĩ. Trên núi có quy củ, chỉ cần có tiếng chuông khẩn cấp thì tức tốc đến nơi cứu hộ. Kỳ thực, bọn ta chuyên tâm tu hành, không muốn hơn thua với trần tục. Việc hôm qua, một là trách thí chủ hành sự quá nóng nảy, lại nữa Kiếm Hùng đạo trưởng cũng có phần lỗ mãng. Thí chủ đêm qua không phải bị Huyền Thanh lão sư tổ bắt rồi sao?
Tiểu Nhạn cười nhạt nói :
- Lão thừa lúc ta không phòng bị, điểm huyệt bắt ta, nhưng ta đã tự giải cứu mình.
Đạo sĩ gật đầu nói :
- Lão tổ sư cũng bái phục võ nghệ thí chủ cao cường. Chỉ vì người đại náo núi này, vi phạm thanh quy trăm năm nay, nên lão đạo sư quyết không tha cho thí chủ. Bần đạo khuyên thí chủ mau rời khỏi đây.
Tiểu Nhạn nói :
- Muốn ta chạy cũng dễ lắm, các người cứ giao Lữ Sùng Nhai và Đạo Đăng ra đây cho ta. Ta muốn hỏi thê tử ta hiện giờ ở đâu?
Đạo sĩ đó nói :
- Đêm qua lão tổ sư quả thấy một người y phục bị đốt lăn trên đất, tắt lửa xong chạy đi. Lão tổ sư nhìn thấy rõ ràng là đạo cô, nên đã tin lời của thí chủ, vì vậy đã bắt giữ Lữ Sùng Nhai. Lão tổ sư hành sự rất công chính minh bạch. Thí chủ yên tâm đi, thí chủ xuống núi chờ đợi, chỉ cần thê tử của người tìm được nơi nào, là lão sư sẽ lập tức phái người thông báo.
Tiểu Nhạn chau mày trầm giọng thở dài nói :
- Các người hành sự chậm chạp, làm sao hiểu được sự nóng lòng của ta. Lữ Sùng Nhai bị canh giữ ở đâu, ta muốn đi hỏi hắn, ta sẽ để đao lại đây đi tay không, quyết sẽ không náo sự.
Đạo sĩ chỉ tay về phía nam nói :
- Thí chủ đến Triển Kỳ Phong mà hỏi thăm, tất sẽ rõ Lữ Sùng Nhai ở đâu.
Tiểu Nhạn gật đầu ôm quyền nói lời cảm tạ, rồi ôm quyền ra khỏi miếu, vượt tường chạy về phía nam.
Lúc này, mây mù đã dần tan, lòng Tiểu Nhạn lại càng như lửa đốt. Gió thu lạnh lẽo mà người chàng dường như có lửa, thêm những vết thương xây xát do dây trói hôm qua càng khiến chàng thêm khó chịu nóng nảy.
Vì lo lắng cho A Loan, khiến chàng quên mọi vất vả gian nguy. Vượt qua mấy ngọn núi, nhảy qua mấy vách đá cheo leo cũng không tìm thấy miếu đình hay bóng người nào.
Thình lình trời đổ cơn mưa, Tiểu Nhạn toàn thân ướt sũng. Trong màn mưa mịt mù, dày đặc. Tiểu Nhạn không thể tiếp tục đi nữa, đành tìm một hốc đá mà tránh mưa.
Chàng ngồi đó chờ mây tan, mưa tạnh. Nhưng cơn mưa kéo dài đến tối cũng chẳng chịu ngưng. Chàng đành ngồi trong hốc đá cả đêm, mãi đến hôm sau mưa nhỏ lại đôi chút, Tiểu Nhạn đành dầm mưa mà đi. Nước mưa từ trên núi luồn lách qua khe đá ào ào chảy xuống, đá núi trơn trượt. Chẳng bao lâu sau, chàng cảm thấy hai chân và thân người lạnh cóng. Nhưng vì lòng chàng nóng nảy, nên bất phân phương hướng lầm lũi mà chạy đi.
Càng đi càng cảm thấy địa thế thấp xuống. Chạy không biết bao xa, chàng cảm thấy mưa đã ngừng hẳn, Tiểu Nhạn đi mãi đến tận cùng sơn lộ, là một hẻm núi.
Trong hẻm núi có một cây hồng thấp thấp, còn có một mái nhà lợp bằng tranh cỏ. Tiểu Nhạn ngạc nhiên kêu lên :
- May quá! Ở đây có người!
Chàng lựa mấy hòn đá tìm thế nhảy xuống dần. Thoáng chốc đã đến nơi, có hai con chó từ trong chạy ra sủa inh ỏi. Tiểu Nhạn vừa xua tay đuổi chó, vừa lên tiếng hỏi :
- Có ai đó không?
Nơi đây có mấy nóc nhà, Tiểu Nhạn liên tiếp gọi mấy tiếng thì cửa của hai nhà bật mở, bước ra mấy người. Một lão bà còng lưng và một tiểu tử trẻ tuổi. Tiểu Nhạn lộ vẻ hòa nhã, ôm quyền nói :
- Xin đừng sợ! Tại hạ ở núi này tìm người, vì bọn đạo sĩ ngăn cản phải đấu cùng họ hai ngày và đã ở trong núi hai đêm. Hôm nay tại hạ đến đây để hỏi xem nơi này có từng gặp qua một đạo cô không?
Tiểu tử bước qua định nói với chàng, nhưng bị lão bà kinh hoảng kéo lại nói :
- Ngươi đừng hỏi nhiều lời. Chúng ta chẳng biết gì.
Tiểu Nhạn bước qua nhẹ nhàng nói với tiểu tử :
- Tiểu huynh đệ! Đừng nghi hoặc, ta không phải là kẻ xấu. Thê tử ta đã bị đạo cô đó bắt đi, các người là lương dân trong núi chắc cũng hiểu thế nào là nỗi bi thương khi phu thê ly tán.
Tiểu tử kia nghe lời, mặt lộ vẻ giận chỉ về hướng nam nói :
- Ác đạo cô kia đang ở trong nhà của họ Hầu. Đại ca hãy đến đó tìm.
Lời tiểu tử vừa dứt, lân cận nhà hai bên đều thất kinh, còn lão bà giậm chân mắng :
- Mi đã nói ra, Lữ đạo gia nếu biết có thể tha cho mi toàn mạng sao?
Tiểu Nhạn khoát tay nói :
- Các người đừng sợ, lão đã bị bắt giữ.
Nói xong, chàng vội vã chạy về căn nhà phía nam, nhón người nhảy qua bức tường đá. Thấy trong nhà tranh bước ra một người khoảng ba mươi, ngạc nhiên hỏi :
- Mi tìm ai?
Tiểu Nhạn hầm hầm tức giận nói :
- Ta tìm Đạo Đăng, mau bảo bà ta ra đây!
Lời chưa dứt, đã thấy Đạo Đăng tóc tai rũ rượi, tay cầm thanh trường kiếm, hình dung thật cổ quái, từ trong chạy ra nhào đến chém Tiểu Nhạn.
Tiểu Nhạn né người tránh, lựa thế định đoạt kiếm, nhưng Đạo Đăng thật hung mãnh, bất kể thương thế bị phỏng đêm qua, liều mạng đánh Tiểu Nhạn. Trường kiếm vun vút dùng toàn chiêu ác độc, nhưng Tiểu Nhạn như chiếc bóng xuyên qua lại ánh kiếm. Chỉ hơn mười hiệp, chàng đã đoạt được kiếm trên tay đạo cô, đâm ngược vào ngực Đạo Đăng hỏi :
- Mi giấu A Loan ở đâu? Mau nói ra!
Đạo Đăng trúng thương trợn đôi mắt cú vọ, kêu lên :
- A Loan bị Á Tử sư huynh của mi cướp rồi.
Tiểu Nhạn giật mình kinh ngạc, lại cúi nhìn thấy Đạo Đăng lăn lộn đau đớn, rồi giãy giụa mấy cái đã tắt thở.
Người bên cạnh dường như là tiều phu, sợ hãi run rẩy cả người, Tiểu Nhạn hỏi :
- Lão đạo cô này đến đây khi nào?
Người đó khiếp sợ lắp bắp :
- Trước... trước nay thường đến. Bà ta và Lữ đạo gia là chỗ thân thích, bọn ta rất sợ Lữ đạo gia...
Đang nói, chợt người này chăm chăm nhìn Tiểu Nhạn trợn mắt há miệng. Tiểu Nhạn mỉm cười, xoay người chém bạt phía sau.
Thì ra Lăng Vân Kiếm Khách từ trên tường nhảy xuống, đâm lén sau lưng chàng.
Hai kiếm chạm nhau, họ Lữ vội thủ kiếm lại, nhanh chóng chuyển thế giận dữ nói :
- Hôm nay, ta phải báo thù cho Đạo Đăng.
Tiểu Nhạn cười gằn nói :
- Giả lão đạo, ta đang muốn tìm mi đây!
Rồi ánh kiếm nhoáng lên, hai thanh kiếm lại quyện lấy nhau. Trải qua hai mươi hiệp, tuy kiếm pháp của Lữ Sùng Nhai cao siêu, nhưng tài nghệ Tiểu Nhạn tuyệt luân quá, khiến họ Lữ càng đấu càng kém thế. Biết chống không nổi Tiểu Nhạn, nên Lữ Sùng Nhai đánh ra một hư chiêu, rồi vọt qua bức tường mà chạy, Tiểu Nhạn tức tốc đuổi theo hét to :
- Giả lão đạo, đừng mong chạy thoát!
Họ Lữ giắt kiếm vào lưng, vọt lên cây, bám vào vách đá, rồi như con vượn bò nhanh lên núi. Hắn lại còn nhìn xuống cười mỉa với Tiểu Nhạn. Tiểu Nhạn nhún người leo lên đuổi theo, từ bên dưới đâm lên một kiếm. Lữ Sùng Nhai càng cố bò nhanh lên đỉnh núi.
Thình lình, họ Lữ đâm ngược một kiếm xuống ngực Tiểu Nhạn. Chàng nhanh như chớp đỡ kiếm, đồng thời tay trái xòe ra định điểm vào huyệt đạo đối phương, nhưng họ Lữ lại né người tiếp tục chạy.
Cự ly giữa hai người không hơn mười bước, nhưng mấy ngày chịu đói khát, mệt mỏi, chân lại không mang hài nên đuổi nhau qua hai ngọn núi, Tiểu Nhạn không thể theo kịp Lữ Sùng Nhai.
Sương mù tan dần, thái dương đã dần hiện ra. Lữ Sùng Nhai càng chạy càng lên cao, dường như hướng về Triển Kỳ phong, Tiểu Nhạn gầm lên :
- Giả lão đạo, ta để mi vượt qua một ngọn núi nữa, ta chẳng phải là Giang Tiểu Nhạn.
Lữ Sùng Nhai quay đầu lại trêu chọc :
- Tiểu bối đến đây!
Rồi quay đầu chạy, Tiểu Nhạn khẩn cấp truy đuổi. Chạy đến một khu rừng rậm rạp, Lữ Sùng Nhai vội ẩn thân vào trong đó. Tiểu Nhạn cầm kiếm chầm chậm đi tìm, thì nghe tiếng chuông khẩn cấp vang đến, Tiểu Nhạn giật mình, nghĩ :
“Nhất định có người từ trên cao nhìn thấy ta đuổi theo họ Lữ, nên mới gióng chuông triệu tập mọi người, trước cứu gã, sau đối phó ta”.
Nghĩ thế, Tiểu Nhạn không còn ẩn náu nữa, cầm kiếm xông đại ra, thì thấy Lữ Sùng Nhai từ trong một đám cây rậm rạp chui ra, bất thần chém Tiểu Nhạn một kiếm. Kiếm như linh xà, Tiểu Nhạn đâm tới họ Lữ. Lữ Sùng Nhai vội bỏ chạy, Tiểu Nhạn lại đuổi theo.
Vượt qua ngọn núi này, là đến Triển Kỳ phong. Tiếng chuông càng khẩn cấp, nhiều đạo sĩ chạy đổ ra, tay cầm kiếm, ánh hàn quang trùng trùng.
Họ Lữ chạy trước, Tiểu Nhạn chạy sau. Lên đến đỉnh núi, họ Lữ bị bọn đạo sĩ ngăn lại. Có người bước đến đoạt lấy trường kiếm của hắn.
Tiểu Nhạn đuổi đến nơi, có một đạo sĩ bước đến hành lễ, vội vàng nói :
- Đừng nóng, lão tổ sư đang tỷ kiếm trên đó. Thí chủ chờ người tỷ võ xong, tất có biện pháp.
Tiểu Nhạn xông đến định đâm họ Lữ nữa, bị mấy thanh kiếm nhất tề ngăn lại :
- Thí chủ đừng nóng, chờ tổ sư định môn quy mà xử tội hắn.
Lữ Sùng Nhai bị các đạo sĩ trói lại như kẻ tội đồ. Sắc mặt hắn trắng bệch, ngửa mặt lên, hơi thở hổn hển không nói tiếng nào.
Tiểu Nhạn cầm kiếm, cũng thở hổn hển, trợn mắt nhìn Lữ Sùng Nhai. Lúc này, chợt có tiếng người gọi ở trên cao :
- Giang huynh, lên đây!
Tiểu Nhạn nhìn lên thì thấy một bạch diện thư sinh, tay cầm trường kiếm, thì ra chính là Lý Phụng Kiệt.
Tiểu Nhạn vừa ngạc nhiên, vừa mừng rỡ, cầm kiếm cấp tốc chạy lên.
Chàng nhìn thấy ở trước quan, bọn đạo sĩ tay cầm kiếm đứng thành hàng, chính giữa có hai người đang tỷ kiếm.
Kiếm pháp hai người thi triển dường như chẳng có chút gì gấp gáp. Hình như họ đang sử dụng nhuyễn công phu. Kiếm chiêu rất chậm, như sóng gợn mùa thu, bộ pháp cũng từ từ, nhưng nội lực thâm hậu. Nhìn thì biết từng bước chân, từng thế kiếm đều mang một sức mạnh dời non lấp bể. Việc này chỉ xảy ra với những ai đã chuyên tâm tu luyện mấy mươi năm.
Hai người đang tỷ kiếm một là Huyền Thanh, đệ nhất trong Thất Đại Kiếm Tiên, bổn sơn chủ của núi này. Tuổi hơn thất thập, râu tóc bạc phơ phơ. Còn người thứ hai khiến Tiểu Nhạn vô cùng ngạc nhiên, chính là sư huynh Á Tử, mặt thẳng mắt to, mặc áo ngắn, chân mang giày cỏ.
Nguyên hôm đó, Lý Phụng Kiệt an bài cho Hồ Nhị Chính xong, bèn hỏi Kỷ Quảng Kiệt :
- Kỷ huynh, chúng ta lên đường được chứ?
Quảng Kiệt gật đầu, lại ra dấu với Á Tử khởi hành, Á Tử đồng ý. Thế là ba tuấn mã cấp tốc lên đường.
Kỷ Quảng Kiệt dẫu sao vẫn không quên được thê tử A Loan, nên gấp rút thúc ngựa chạy mau. Chốc chốc lại thúc hối Phụng Kiệt và Á Tử.
Vì có Á Tử đồng hành, nên Quảng Kiệt cảm thấy can đảm hơn. Hắn biết võ nghệ Á Tử trên chốn võ lâm khó người đương cự, nên có thể thừa sức đấu với Thất Đại Kiếm Tiên. Lại thêm Lý Phụng Kiệt, chẳng những cứu được thê tử mình ra, mà còn có thể rửa được mối nhục ngày trước đã bị Sở Kiếm Hùng trước mặt bao đạo sĩ, bức mình ngã xuống núi.
Thế nên, hùng khí nổi lên, hắn ra roi vút ngựa phi nhanh về phía đông, Lý Phụng Kiệt và Á Tử hưng phấn như vậy, cũng chịu thua, cho ngựa phi nước đại. Ba tuấn mã như mũi tên lao đi, khiến người trên đường hoảng hốt phải nép sát người bên đường.
Ba người chạy đi rất nhanh, nửa ngày họ đã chạy một đoạn đường rất xa. Gần đến hoàng hôn, cả ba đã đến Cốc Thành huyện.
Kỷ Quảng Kiệt vì lòng lo lắng cho an nguy của A Loan, không biết nàng lưu lạc nơi nào, nên không quản đêm tối, bụng đang đói mà cứ ra roi chạy lên Võ Đang sơn.
Lý Phụng Kiệt thấy vậy, chạy lên ngăn Quảng Kiệt, nhưng Quảng Kiệt đã nóng nảy quay lại đấm Phụng Kiệt nói :
- Thế nào? Đã đến đây còn sợ à? Nếu sợ, mi cứ ở lại đây, chờ ta làm xong việc sẽ quay lại.
Lý Phụng Kiệt tỏ ý cảm thông khuyên nhủ :
- Không phải ta sợ đâu, nhưng mà trời đã tối rồi. Nếu mạo muội xông vào e rằng có điều sơ thất. Hơn nữa, chúng ta đã đến đây hà tất phải nóng nảy như vậy! Chờ bọn ta thám tính rõ ràng rồi hãy hạ thủ.
Nhưng Quảng Kiệt cứ nằng nặc đòi đi lên núi. Á Tử đến nơi cũng vội khoát tay, lắc đầu.
Quảng Kiệt thấy Á Tử cũng không đồng ý với mình, nên không dám hoang động. Vì hắn biết nếu không có Á Tử đồng hành, thì khi liều lĩnh xông lên Võ Đang sơn tất khó lòng toàn mạng trước Thất Đại Kiếm Tiên, nên hắn đành quay lại theo Á Tử cùng Quảng Kiệt trở vào Cốc Thành huyện.
Ba người tìm khách điếm nghỉ ngơi, Phụng Kiệt dặn tiểu nhị mang cơm rượu đến.
Tiểu nhị ngạc nhiên nhìn thấy hành lý của người có bảo kiếm, lại thêm gương mặt phong trần, bèn hỏi :
- Khách quan muốn đi về đâu?
Phụng Kiệt nói :
- Bọn ta muốn lên Võ Đang sơn dâng hương.
Tửu bảo lộ vẻ lo sợ nói :
- Các khách quan nếu không có việc gấp thì nên trở về, sau này hãy đến đây.
Phụng Kiệt vội hỏi :
- Có chuyện gì?
Tửu bảo đáp :
- Hôm qua trên núi có một tặc nhân, người này không biết từ đâu tới, tay cầm bảo kiếm vô cùng lợi hại. Các đạo sĩ trên núi đều không đánh lại, ngay cả Thất Đại Kiếm Tiên cũng không ngăn nổi. Nghe nói một Kiếm Tiên là Trần Kiếm Phi cũng đã bị thương. Hiện giờ, trên núi đại loạn, không phải là đạo sĩ thì không ai được đi lên.
Phụng Kiệt hỏi gấp :
- Mi có biết đại hán đó là ai không?
- Không rõ, dường như là tên Nhạn gì đó!
Phụng Kiệt nói lời cảm tạ, tửu bảo đi ra ngoài. Quảng Kiệt nóng nảy căm hận nhớ chuyện mình từng chịu đựng nên đấm xuống bàn mắng lớn :
- Bọn cẩu đạo sĩ này, bọn chúng quen thói đông người uy hiếp một người. Chúng ta lập tức đi lên đó giết sạch bọn đạo sĩ lẫn Thất Đại Kiếm Tiên mới tiêu hận của ta.
Nói rồi, cầm kiếm hùng hổ muốn đi ngay ra cửa, thì bị Phụng Kiệt và Á Tử kéo lại. Á Tử đoạt kiếm trong tay Quảng Kiệt, còn Phụng Kiệt dùng lời khuyên răn Quảng Kiệt :
- Kỷ huynh hà tất phải nóng nảy như vậy, vạn sự cần nên nhẫn nại. Trời tối như vậy, lại thêm sơn lộ rất khó đi, nếu ta mạo hiểm đi lên sợ gặp điều bất trắc.
Quảng Kiệt nhướng mày nói :
- Nếu chờ đến sáng mai mới lên núi, e rằng Tiểu Nhạn đã bị chúng giết chết rồi. Thê tử A Loan của ta tất cũng không sống nổi.
Phụng Kiệt trấn an :
- Huynh an tâm đi! Ta tin tưởng Giang huynh võ nghệ cao thâm, tuy bọn đạo sĩ đông đúc, nhưng không chiếm được tiên cơ đâu. Mà thê tử A Loan của Kỷ huynh cũng không thể bị họ giết chết, vì đây là thánh địa Tam Thanh của Võ Đang sơn, họ nhất định không lạm sát.
Cả ba người cùng dùng cơm. Buổi tối, ai nấy lên giường mà ngủ, chuẩn bị ngày mai lên Võ Đang sơn mà đấu cùng Thất Đại Kiếm Tiên giải cứu cho Giang Tiểu Nhạn.
Đêm đó, Kỷ Quảng Kiệt không tài nào ngon giấc, hắn giận sao trời lâu sáng, khiến hắn không tức thì lên núi mà giải cứu cho Tiểu Nhạn và A Loan. Quảng Kiệt cứ trằn trọc suy nghĩ, hắn thầm định rằng khi gặp nhau, hắn phải hỏi rõ A Loan xem giữa nàng và Tiểu Nhạn đã thực sự có tình ý không. Nếu nàng thừa nhận thì Kỷ Quảng Kiệt ta không vì chuyện yêu đương mà làm những điều bất phải của đấng nam nhi đại trượng phu. Càng không lý đến chuyện ân oán giữa hai nhà họ.
Lòng tuy nghĩ vậy, nhưng vừa nhớ đến dung mạo diễm lệ của A Loan, Quảng Kiệt bất giác lại lo lắng đến sự an nguy của nàng.
Kỷ Quảng Kiệt không nén được, nghiến răng phẫn hận nghĩ :
“Như vậy không được, ta là tôn tử của Long Môn Hiệp, đâu thể để mất mặt như vậy. Lẽ đâu thê tử của mình cũng đem nhường cho người khác? Kỷ Quảng Kiệt ta còn mặt mũi nào đi lại trên chốn giang hồ”.
Hắn lại tự oán tự trách nghĩ :
“Kỷ Quảng Kiệt ta thật quá mù quáng, lúc đầu tại sao lại bị mê hoặc bởi mỹ sắc của A Loan, mà trúng phải mỹ nhân kế của Bào Chấn Phi chứ?”.
Nghĩ đến đây, lòng vô cùng buồn bã, nằm than dài thở vắn hồi lâu mới dần dần ngủ thiếp đi.
Lúc Kỷ Quảng Kiệt tỉnh dậy, thì Lý Phụng Kiệt và Á Tử đã thức dậy từ lâu. Hắn vội vàng rửa mặt, cầm kiếm chạy ra khách sảnh, mau mau dẫn ngựa nhảy lên lưng thúc hối :
- Chúng ta mau mau đi thôi!
Thế là ba tuấn mã tiếp tục đăng trình, phi như bay về Võ Đang sơn.
Trời gần sáng nhưng vì có mưa nhẹ, mây đen âm u, vần vũ. Vì thế đường cũng khó đi lại, nên phải mất thời gian khá lâu mới đến chân Võ Đang sơn.
Vì không có ánh thái dương, nên cả một vùng núi non rộng lớn như chìm khuất trong làn sương mai mờ mịt. Trước mắt, chỉ là một màu trắng bạc mang mang, chỉ cách một khoảng không xa đã không thể nhìn ra vật gì.
Hơn nữa, mưa càng lúc càng lớn, dù ba người từng xông pha sương gió, cố gắng tìm đường đi lên, nhưng bởi mưa tạt đường đá trơn trượt, nên vó ngựa thật khó khăn mới cất từng bước. Do đó cả ba đành phải xuống ngựa tìm một nơi kín đáo cột ngựa lại rồi cất bộ đi lên.