Kinh Sở Tranh Hùng Ký

Hồi 1

Bóng đao bóng kiếm, tiếng la tiếng giết vang trời.

Trong thành ngoài thành, ngùn ngụt khói cuộn, rừng rực lửa cháy, muội  đen tràn ngập khoảng không trải dài hàng chục dặm. Lúc ấy tuy là  đương ngọ, mặt trời mùa thu còn lơ lửng trên cao, nhưng dưới màn khói đen đặc,  cả vùng đất đều vô quang hôn ám.

Tường bao phía nam thành bị đâm vỡ nhiều chỗ, lôi mộc của địch nhân  công phá mạnh mẽ như độc long. Gia binh Khước thị lấy thân mình kết thành  tường chắn, liều chết kháng cự, đổ máu tươi giữ lấy từng tấc đất, ngăn chặn địch  nhân hung tàn chọc qua lỗ hổng tràn vào như nước triều.

Khước Uyển mình khoác tấm áo da màu ráng hồng, trang phục thường dùng  của đại tướng nước Sở, mỗi bên hông đeo một thanh kiếm đồng, chính là ‘Đồng  Long’ – ‘Đồng Phụng’ danh chấn thiên hạ đã cùng ông tung hoành khắp bốn  phương, đến lúc sinh tử tồn vong này, sát bên mình vẫn còn có chúng.

Vị đệ nhất dũng tướng của Sở quốc đứng sừng sững trên đầu tường thành  trong, tư thái ung dung khi lâm địch xưa kia giờ đã mất, sắc diện ngưng trọng.

Trên bình nguyên mênh mang bên ngoài thành, tinh kỳ địch nhân rờm rợp  như biển, tầng tầng binh mã sát khí ngút trời, lặng lẽ đợi thời khắc quyết chiến.

Khước Uyển ngửa mặt phát thệ: “Nang Ngõa! Nang Ngõa! Khước Uyển ta  chết đi, tất sẽ hóa thành lệ quỷ đến đòi mạng ngươi!”.

Thủ hạ của ông tám ngàn gia tướng, hiện chỉ còn lại hơn năm nghìn người.  Mười vọng lâu bên ngoài thành, ba canh giờ trước đã lần lượt thất thủ, binh sĩ rút  hết về thành nội. Tai ách sắp đổ xuống toàn quân đã ập đến ngay trước mắt.

Khước Uyển nhìn lướt mười tên tùy tướng, mục quang loé tia máu, hét lớn:  “Hay lắm! Gia tộc Khước thị ta, từ tiên tổ Khước Mang sáng nghiệp đến nay, đã  trải qua mười hai đời, chỉ có chí sỹ chết vì đánh trận, không có hạng đầu hàng!”.

Chúng tướng rộ lên ứng thanh, quyết ý tử chiến.

“Rầm rầm! Rầm rầm!” Một tràng tiếng động nghiêng trời lệch đất, lầu cao dựng bên nam thành khói cát sỏi đá mù mịt, từ từ sụp xuống như một tên lính bị  thương. Nam thành vậy là không giữ được nữa rồi.

Bốn vạn quân địch đang đánh thành ngoài nhất tề hét vang, khiến người ta  chấn động màng nhĩ, nhấn chìm cả tiếng động phát ra từ toà lầu khổng lồ đang  ầm ầm đổ xuống. Trong tình thế tao loạn, bỗng chốc không nghe thấy bất kỳ  thanh tức gì nữa, xung quanh như đang phô diễn một màn kịch câm. Rồi giữa  vùng hỗn mang nháo nhác đến cực điểm, vụt cất lên một loại dị âm có quy luật  và tiết tấu, một hồi tiếp một hồi, giáng thẳng vào trái tim Khước Uyển và từng viên  tùy tướng. Địch nhân đang đánh trống trận.

Đội tiên phong bên ngoài bắt đầu di động như triều dâng, ép dần vào toà  thành Khước thị có thời đã là biểu tượng của sự vô địch.

Một đại hán mặc giáp trụ tướng quân, dẫn theo hơn mười tên thân binh, vội  vàng rảo bước tới trước mặt Khước Uyển, khom mình thi lễ:

“Đại ca! Khước Chính bất lực, thành nam thất thủ, địch nhân sẽ công vào  trong vòng nửa canh giờ nữa thôi!”.

Khước Uyển xót xa nhìn người tiểu đệ từ nhỏ tới lớn luôn trung thành đi theo  mình, y và hơn mười tên cận vệ phía sau, ai cũng trọng thương, thân thể đẫm máu.  Uổng một đời tự phụ là tướng tài, đến thân đệ cốt nhục tương liên cũng không  bảo vệ nổi, Khước Uyển thở dài, không định rõ được lòng mình đang bất lực, hay  đang phẫn khái.

Khước Chính nói: “Địch nhân ban đầu tấn công dữ dội vào vọng lâu chính  nằm ở thành tây, đến nỗi thực lực bên ta bị tiêu hao nhanh chóng, lại chọn tấn  công nơi yếu nhất của thành nam, khiến quân ta trở tay không kịp. Nếu nói là  không có nội gián hiểu rõ hư thực tiếp trợ, thật khiến người khác khó mà tin được”.

Khước Uyển trầm ngâm không đáp, kỳ thực ông đã sớm nghĩ đến vấn đề  nội gián. Địch nhân lần này đột ngột xuất kích, trước đó không hề có đến nửa dấu  hiệu báo trước, hiển nhiên là đã nắm rõ bố trí sắp xếp của bên mình, nên mới  tránh được những tai mắt thám sát. Riêng điểm này đã xác định được là có nội  gián hay không. Tự xét mình xưa nay hậu đãi thủ hạ, đối xử chân thành với mọi  người, không ngờ lại có kẻ bán đứng cả một gia tộc khổng lồ như thế này!

Khước thị là một đại gia tộc của nước Sở. Những năm dưới hai thời Xuân  Thu - Chiến Quốc, một giọt máu đào hơn ao nước lã, quan niệm thân tộc mạnh  hơn hẳn quan niệm quốc gia.

Khước Uyển ngoảnh đầu nhìn nơi xa bên ngoài thành. Hướng chính nam đang giương cao một cây cờ soái, trên đề một chữ ‘Phí’, lệch về phía tây là một  cây đại kỳ khác thêu chữ ‘Yên’, đều đang bay phần phật trong gió. Hai cây đại kỳ  này vượt lên tất cả những chiến kỳ khác chừng nửa trượng, đang nhe nanh múa  vuốt, diễu võ dương oai ở ba trượng trên cao.

Ai cũng biết, hai chữ đó đại diện cho hai mãnh tướng trứ danh của nước Sở,  hai dũng sỹ quyền khuynh thiên hạ mà Lệnh doãn Nang Ngõa coi như hai cánh  tay trái phải của mình.

‘Phí’ tức là Phí Vô Cực, ‘Yên’ tức là Yên Tương Sư. Phí Vô Cực, Yên Tương  Sư, Khước Uyển và Tương Lão - người đứng đầu một đại gia tộc khác, tề danh Sở  quốc Tứ đại kiếm thủ, đều là danh tướng của nước Sở.

Khước Uyển thầm đánh giá, hai cây đại kỳ lúc này vẫn ở nguyên chỗ cũ, bất  động, nhưng khi họ tiến lên, sẽ là thời khắc thư hùng quyết chiến.

Tiếng trống trận vang vang càng lúc càng mau, khấu động trái tim mỗi người  trên chiến trường, không khác gì quỷ chú đòi mạng.

Khước Uyển trầm giọng gọi: “Khước Chính!”.

Khước Chính rùng mình, tựa hồ ý thức được mệnh lệnh mà đại ca sắp đưa  ra, mắt vụt loé những tia kiên quyết: “Tả doãn, tiểu tướng hôm nay đã quyết,  thành còn người còn, thành mất người mất, tất cả những chuyện khác, không cần  nói nữa!” Rồi y dứt khoát quay đi, tuốt trường kiếm, sải bước về chỗ thành vỡ.  Mười tên thủ hạ cũng lần lượt tuốt trường kiếm, theo sát đằng sau.

Khước Uyển lặng lẽ thở dài, cũng không giữ lại. Huynh đệ tâm ý tương  thông, Khước Chính biết trước ý nghĩ trong lòng mình, gọi mình là ‘Tả doãn’ chứ  không phải đại ca, chứng minh y không muốn mình vì y là huynh đệ chí ái mà  lệnh cho y đào thoát. Không ngờ vị huynh đệ cả đời luôn luôn phục tùng, lần duy  nhất kháng mệnh lại là thời khắc như thế này.

Khước Uyển thoắt trầm ngâm, tựa hồ cân nhắc một quyết định trọng đại.  Giây lát sau, ông dứt khoát gọi:

“Lăng Thạch!”.

Từ trong đám tùy tướng đằng sau, một đại hán bước ra.

Lăng Thạch nét mặt thô mộc, kín bưng, dáng vẻ kiên nghị quật cường.

Khước Uyển rung cổ tay, chưa thấy rõ cử động, bảo kiếm ‘Đồng Phụng’ đeo  bên hông trái đã được rút ra, chĩa lên thẳng tắp, thân kiếm lấp lánh sinh quang,  vững vàng như thạch, tựa hồ có thể vĩnh viễn lưu giữ được tư thái ấy, mãi cho đến ngày tận thế của nhân gian.

Khước Quyển nhìn viên thủ hạ đã từng cùng mình vào sinh ra tử, trong giờ  phút thành vỡ quân tan này, thần sắc vẫn điềm đạm trầm tĩnh, thì tỏ vẻ hài lòng  nói: “Ngươi hãy cầm lấy Đồng Phụng, vào nội viện truyền lệnh ta: phàm là người  của Khước thị, kể cả phu nhân và tiểu thư, đều phải lập tức tuẫn tiết, tránh thọ  nhục khi thất thủ”. Ngữ điệu kiên quyết hữu lực, không dung nhượng một chút  thỏa hiệp nào.

Lăng Thạch im lìm đón lấy kiếm, bước đi.

Nhìn theo bóng y biến mất dưới chân thang, chúng tướng sắc diện không  thay đổi. Thắng bại vốn luôn tàn khốc như vậy, thời đó kẻ thua bị bắt, hầu hết  phải xung làm nô bộc, sống còn không bằng chết. Trước kia dưới sự dẫn dắt của  Khước Uyển, bọn họ chiến bất khả bại, hôm nay mạt lộ cùng đồ, thà hết sức giao  phong rồi chết, chứ không thể nhẫn nhục sống cho đoạn tháng qua ngày.

Nhưng một nam tử đứng xế bên, thân hình cao lớn mạnh mẽ, thì tái mặt thốt:  “Cha!” đôi mắt sáng quắc ngập lệ.

Khước Uyển hắng giọng ngắt lời, ngăn gã nói tiếp: “Hoàn Độ, ta lấy tư cách  người đứng đầu Khước gia hạ lệnh cho con: đây là lần cuối cùng con có thể khóc,  sau này con chỉ được phép đổ máu, không được phép rơi lệ. Nam nhi của Khước  thị, tuyệt không có hạng yếu mềm ướt át!” đoạn thở dài than: “Tổ vỡ thì trứng làm  sao còn nguyên vẹn được?”

Khước Hoàn Độ thần tình ảo não, cúi đầu thưa: “Hài nhi bất hiếu, cả ngày  chỉ mê mải kiếm thuật, xa lạ binh pháp, đến nỗi hôm nay không thể gánh đỡ phần  phá địch với cha!”

Khước Uyển ngửa mặt cười dài bi phẫn. Chúng tướng đằng sau chưa bao  giờ thấy thần thái của ông như vậy, bất giác sinh ý sẵn sàng liều chết. Họ rất hiểu  tâm trạng chủ nhân. Khước thị và Nang Ngõa đều là thần tử Sở quốc, hiện tại sự  biến đã đến sát bên, nội bộ tương đấu, loại ác độc như Nang Ngõa, khiến người  ta không khỏi căm giận.

Khước Uyển vụt ngưng cười: “Hoàn Độ bất tất tự trách, xưa kia ba vị huynh  trưởng của con đều là những tướng tài thành thục binh pháp, nhưng bơi giỏi lại  chết đuối, cuối cùng thảm tử sa trường. Sự gì cũng có hai mặt, con không lưu tâm  đến binh pháp, ta cũng chưa từng miễn cưỡng, một mặt vì mẹ con trước sau đã  mất ba người con trai, nên muốn giữ con bên cạnh, mặt khác ta nghĩ con có thể  tiếp tục kế thừa được kiếm pháp gia truyền, khiến nó phát dương quang đại. Mong  rằng con sẽ dựa vào kiếm thuật đó, để thoát khỏi tai kiếp hôm nay”.

Chúng tướng xung quanh sửng sốt, bọn họ chưa bao giờ xem trọng vị tiểu  chủ công này, vì chưa từng thấy gã khoác giáp ra trận, cả ngày chỉ ở nội viện giữa  đám quần thoa, lại thêm không biết kiếm pháp của gã đã đạt tới trình độ nào, giờ  mới rõ nguyên nhân nội tại.

Khước Uyển lại tiếp: “Trung Hành, ngươi lập tức giúp công tử chọn lấy hai  trăm tử sỹ, hộ tống y chạy thoát ra nước ngoài, bên trái của luỹ đông có một đạo  lộ, công tử nắm rõ đường đi lối lại, y sẽ dẫn đường”. Nói đoạn cười ha ha tiếp:  “Nang Ngõa, cho dù nội gián của ngươi là quỷ, cũng không biết Khước thị ta còn  một chước sau cùng”.

Đại tướng Trung Hành nói: “Chủ công, hay là người và thiếu chủ cùng rời đi,  chúng thuộc hạ ở đây khiên chế địch nhân!”.

Bình! Bình! Các tướng nhao nhao quỳ xuống, van vỉ chủ nhân đào thoát.

Khước Uyển tháo lấy ‘Đồng Long’, đưa qua cho Khước Hoàn Độ, lòng than  thầm, nếu là hai mươi năm trước, ông nhất định không trù trừ chạy trốn khỏi đây.  Lúc đó còn trẻ, có bản lĩnh, nào sợ không còn cơ hội, nhưng hiện nay tuổi tác đã  trọng, huống hồ một đời tung hoành, hiệu xưng vô địch, giờ lại chạy quáng quàng  như chó nhà táng, thì thật không bằng chiến đấu vinh quang mà chết! Mặc dù hi  vọng mong manh, nhưng sẽ đem ước muốn phục thù ký thác lại cho thân nhi.

Khước Uyển nói với Khước Hoàn Độ: “Ngày sau phải để Đồng Long bảo  kiếm uống no máu tươi của Nang Ngõa!” dừng một lát rồi tiếp: “Ta tuy đứng đầu  trong Sở quốc Tứ đại kiếm thủ, nhưng với tên ác nhân Nang Ngõa này, vẫn  không dám chắc là chế thắng được hắn. Con phải chú ý điều đó!” Rồi phóng mắt  ra xa, hai ngọn quân kỳ Phí, Yên đang chầm chậm di chuyển, chiến xa của địch  nhân cũng bắt đầu rầm rập tới gần.

Khước Uyển nói với đám thuộc tướng đang quỳ trước mặt: “Các ngươi không  cần làm vậy, ý ta đâ quyết, tuy không có hi vọng thắng, nhưng thề rằng sẽ khiến  kẻ địch phải trả một cái giá rất thê thảm!”.

Khước Uyển quay mình ra ngoài, cao giọng hét: “Phí Vô Cực, ngươi có gan  đơn đả độc đấu với bản nhân không?” Thanh âm bay thật xa, vang động khắp  chiến trường. Ông là một trong số ít các cao thủ của nước Sở, lần này vận khí  dương thanh, xa gần ai nấy đều nghe rõ, rất nhiều tử đệ Khước thị vốn đã thọ  thương ngã xuống, vừa nhận ra thanh âm của chủ công, lòng lại chấn động, cố  gắng gượng dậy, trên chiến trường nhất thời kịch chiến tăng thêm, một bầu thảm  liệt.

Giọng Phí Vô Cực từ xa vọng lại: “Là bại tướng thì còn tư cách gì để nói đây?

Khước Uyển ngươi đừng tính chuyện chó cùng dứt giậu nữa. Nếu tự trói hai tay,  quỳ xuống đầu hàng, ta sẽ để ngươi chết toàn thây!” Thanh tức hùng hậu, dư âm  ngưng đọng, hiển nhiên công lực rất cao. Người này hiệu xưng Sở vực đệ nhất  cao thủ, võ công chỉ đứng sau Nang Ngõa, đồng thời còn là một tay kiếm tài ba,  cùng Yên Tương Sư, Khước Uyển, Tương Lão được liệt vào danh sách Sở quốc  Tứ đại kiếm thủ.

Khước Uyển không giận mà lại cười, tiếng cười bi lãnh của người anh hùng  đã đến bước cùng đồ mạt lộ!

Trống trận bên địch vang lên, trầm trầm mà mạnh mẽ, từng hồi từng hồi  thúc vào trái tim Khước Uyển. Đại quân của Phí Vô Cực và Yên Tương Sư từ từ di  chuyển, thời khắc phân định thắng thua, sau một hồi song phương ‘chờ đợi’, rốt  cục cũng đã đến.

Khước Uyển cầm lấy một cây đồng mâu cỡ lớn, sải bước xuống dưới thành,  lòng miên man nhiều suy nghĩ quái lạ: mình từ chỗ có tất cả, quyền lực, phú quý,  mỹ nữ, đến giờ này sắp mất tất cả, mà không hề thấy bận tâm vướng víu, lòng lại  dâng tràn một thứ khoái cảm thống khổ. Ngẫm cho kỹ con người ta trần trụi mà  đến, rồi trần trụi mà đi, cả đời toàn theo đuổi những mục tiêu ngắn ngủi và tạm  bợ. Ngoài giây phút hưng phấn trên đỉnh cao thành công, còn lại chỉ là những  tháng ngày buồn chán. Hiện tại trước mặt ông ít nhất cũng có một mục tiêu rõ  ràng, đó là phải phóng tay giết địch, kỳ cho đến lúc chết mới thôi. Trong lòng bất  giác trào lên một thứ hào tình, ông hét lớn, vung trường mâu đâm văng hai tên  lính địch đầu tiên.

Tâm pháp về võ học của Khước gia coi trọng nhất là sự tuyệt diệt cảm xúc,  cho dù giữa thiên binh vạn mã, cõi lòng vẫn phải như băng tuyết không tan trong  lò lửa, quan chiêm sự vật bằng cái nhìn lạnh lẽo. Lúc này Khước Uyển đã gạt bỏ  mọi chuyện hơn thua, tâm linh đạt tới cảnh giới chí hư chí tĩnh, trường mâu như  con rồng nhe nanh múa vuốt, lao thẳng vào đám đông quân địch. Thuộc hạ thấy  chủ công uy võ kinh nhân, sĩ khí cũng trào dâng, theo ông xông qua chỗ thành vỡ,  đánh bật ra ngoài, nhất thời tiếng hô giết dậy đất, trong trận hỗn chiến người  ngựa ngả nghiêng.

Khước Uyển như mãnh hổ xổng chuồng, tiến lui xung sát trong rừng đao  biển kiếm. Lúc này tướng sĩ bên mình ông, từ hơn hai ngàn người lúc đầu, giảm  xuống chỉ còn chừng năm trăm mạng. Đột nhiên trước mặt đám người xao động,  một đội Khước thị tử đệ, hộ tống một viên đại tướng đang tiến về hướng ông.  Khước Uyển giật mình, vội vàng chỉ thị thuộc hạ phân làm hai cánh đánh lên, tiếp  ứng cho đội nhân mã đó. Ông tinh mắt nhận ra đại tướng dẫn đầu là Khước Chính, ngực đẫm máu tươi, sắc mặt nhợt nhạt, trông không còn cầm cự được bao lâu  nữa, liền đánh át lại đón. Khước Chính nhìn thấy đại ca, khoé mắt ứa lệ, đôi môi  mấp máy, Khước Uyển cúi xuống ghé sát tai vào miệng y, nghe thấy Khước Chính  thều thào một câu hầu như câm lặng: “Nang Ngõa! Cẩn thận...”. Ngữ thanh đứt  đoạn, thì ra đã tắt thở rồi.

Khước Uyển đau đớn phát điên, hú một tiếng khủng khiếp, lại đánh giết vào  giữa trận địch, trường mâu huy động chọc đâm phạt quất, địch nhân ngã như ngả  rạ, máu tươi phun tưới thành vòi.

Giữa trận khổ chiến đẫm huyết, đột nhiên tất cả địch nhân dãn nhanh ra như  triều rút, để lộ một khoảng trống lớn, chỉ còn mình Khước Uyển đứng trơ trọi, thủ  hạ của ông đều đã bị tách riêng, nơi xa tuy còn đưa lại vài âm thanh giao đấu lẻ  tẻ, nhưng hiển nhiên đối phương đã khống chế được đại cục.

Thân hình cao lớn của Phí Vô Cực len đám đông bước lên, dừng cách  Khước Uyển hai trượng, trong tay cầm một thanh trường kiếm, khinh thị nói:  “Ngươi chẳng phải là muốn cùng ta đơn đả độc đấu sao?” Khước Uyển trong lòng  vui sướng như điên, hiện tại thể lực của ông tuy đã cạn kiệt nghiêm trọng, nhưng  nếu có thể quyết chiến riêng với kẻ đại địch này, tận dụng sức bền và ý chí của  mình để thực hiện kế đồng quy ư tận, thì thật là lý tưởng.

Khước Uyển chĩa xéo trường mâu về phía Phí Vô Cực, cũng không nói một  lời, sải bước tiến tới.

Phí Vô Cực thấy Khước Uyển vóc dáng động tác oai nghiêm khôi vĩ, sau  trận kịch chiến, vẫn không tỏ lộ một chút mệt mỏi hay sơ hở nào, lại biết ông  bước lên lập tức sẽ thi triển tấn công, đời nào chịu đợi ông tích đầy khí thế, trường  kiếm trong tay hắn hóa xuất từng vòng hào quang, hào quang đột ngột toả rộng,  đúng lúc Khước Uyển cũng vừa bước tới.

Khước Uyển rung cổ tay, trường mâu bắn ra vạn đạo hàn mang, kích trúng  hào quang từ trường kiếm của Phí Vô Cực, tiếng binh khí va nhau bật lên keng  keng.

Vòng hào quang tan đi, trường mâu phá không đâm tới, loé lên như chớp  chọc thẳng vào yết hầu Phí Vô Cực, tốc độ hết sức nhanh. Phí Vô Cực cũng rất  lợi hại, không lùi mà lại tiến, trường kiếm phách xuống thân mâu, cảm giác trường  mâu nhẹ tênh vô lực, kiếm chạm vào bỗng bật sang trái. Phí Vô Cực vừa kêu to  bất diệu, khoé mắt đã thấy chớp động một làn nhân ảnh, Khước Uyển ném mâu  xông lên, thò tay nắm lấy trường kiếm của Phí Vô Cực. Phí Vô Cực vận cổ tay  xoay kiếm, phạt đứt bốn ngón tay của Khước Uyển, nhưng trường kiếm cũng vì vậy mà chậm lại. Khước Uyển vùng áp sát, thúc cùi chỏ vào dưới mạng mỡ hắn,  tức thời đâm gãy liền mấy giẻ sườn. Rồi ông vung tay chém xéo lên, phách vào  hai mắt của hắn, Phí Vô Cực la to chí nguy. Không hiểu vì sao Khước Uyển bỗng  nhiên trùng trình, Phí Vô Cực nhân cơ hội vội vàng thối lui, mắt trái dội lên một  cơn đau nhói, tuy giữ được mắt phải, nhưng mắt trái đã bị chọc trúng rồi.

Khước Uyển nén chịu cơn đau dội lên từ bốn ngón tay bị phạt đứt, đang định  chọc mù hai mắt của Phí Vô Cực, bỗng một luồng đại lực hùng hậu từ đằng sau  ập tới, khiến ông chùn một bước, chỉ phế được con mắt trái của Phí Vô Cực.  Đúng lúc đó luồng đại lực đã trút vào lưng ông, Khước Uyển miệng hộc máu, lật  tay đánh lại, người sau lưng sử một thủ pháp xảo diệu, hóa ra vô số quyền ảnh,  tiếp đó song thủ nhanh như chớp vỗ lên vai ông, Khước Uyển nghe thấy tiếng  xương cốt mình răng rắc vụn vỡ, máu tươi cũng ứa trào khỏi mũi khỏi miệng  không ngừng, khi hai người tách nhau, thân thể ông đã không còn nguyên vẹn  nữa.

Khước Uyển mơ hồ trông thấy trước mắt xuất hiện một người cao lớn âm  trầm, mình mặc hồng bào, ông nghe trong đầu nổ rầm một cái, tức thời minh bạch  ý tứ của Khước Chính trước khi chết, nhắc ông phải cẩn thận Nang Ngõa. Kẻ  trước mắt ông đây chính là Nang Ngõa, cuối cùng ông và người tiểu đệ thân thiết  nhất đều táng mạng trong tay tên gian nhân đó, thì ra hắn thân chinh đến đốc  quân. Mối thù này, đành phải để lại cho Hoàn Độ báo.

Khước Uyển ngã sầm xuống, một đời danh tướng, ôm hận mà thác!

Nang Ngõa ngửa mặt cười lớn, nhìn máu nhuộm hai tay, bộ dạng cực kỳ hân  hoan.

o0o

Cửa ra của đạo lộ ở dưới một con dốc rậm rạp cây, đằng sau sơn thành nhà  họ Khước, hình thế tinh xảo, đường lối khúc khủyu, che mắt người nhìn rất khéo.  Xưa kia khi tổ tiên Khước thị được phong đất, đã đặc biệt mời thợ mộc giỏi đến  kiến tạo, chuẩn bị vạn nhất cần đào sinh bảo mệnh, trải qua mười mấy đời sóng  êm gió lặng, đến Khước Hoàn Độ mới phải dùng.

Cơ quan của đạo lộ lẽ ra đã nát hỏng từ lâu, nhưng nhờ Khước Uyển xưa  nay trong cảnh yên bình vẫn lo sinh biến, thường bí mật phái thân tín sửa sang  dọn dẹp, vì vậy về cơ bản vẫn hoàn hảo.

Đạo lộ này là bí mật lớn nhất của Khước thị, ngoài số ít những huynh đệ tử  điệt thân cận, còn lại không ai hay biết. Đại tướng Trung Hành, người vừa phụ  trách tuyển lựa hai trăm tử sĩ, hộ tống Khước Hoàn Độ đào tẩu cũng mới lần đầu  tiên biết đến sự tồn tại của đạo lộ này.

Khước Hoàn Độ, Trung Hành và hai trăm tráng đinh, lặng lẽ im lìm xuyên  qua khu rừng cây, men theo khe suối đằng hậu sơn, lội nước đi vào dãy Đại Biệt  Sơn trải dài liên tiếp.

Ai nấy đều biết đây là lúc sinh tử quan đầu, mỗi động tác đều tăng cường  cẩn thận, không dám tạo nên một chút tiếng động nào để gây liên luỵ đến toàn  quân.

Thành luỹ của Khước thị lùi lại đằng sau, đã chìm vào rùng rùng biển lửa,  khói đen xông kín cả một vùng trời, chôn vùi những tiếng la tiếng giết, rõ ràng là  đã thất thủ.

Khước Hoàn Độ cắn răng nén lại niềm bi thống. Gã năm nay hai mươi lăm,  hơn mười năm bỏ bê binh pháp mà tinh nghiên kiếm thuật, tự phụ bất phàm.  Nhưng giữa thiên quân vạn mã, chống chọi sa trường, gã quá lắm chỉ đảm đương  nổi chức trách một viên dũng tướng, chứ không thể làm nguyên soái giành chiến  thắng, trong đáy tim nhất thời nỗi hối hận giằng xé. Nhưng nhớ lại tài dụng binh  của cha, trong tình thế này cũng đành thúc thủ thở dài, mình vĩnh viễn không  bằng được, trước mắt việc báo cừu thật là mờ mịt. Mà gã, Khước Hoàn Độ, lại là  người duy nhất có thể trả được mối thù diệt gia hủy tộc. Âm dung của Khước  Uyển, bất giác vang lên trong óc gã.

“Chỉ có thể đổ máu, không được phép rơi lệ”.

Gã lập thệ vĩnh viễn ghi khắc trong tim.