Lúc bắt đầu tiết học thứ hai sau giờ ăn trưa, Stuart Wall “Fats” chuồn ra khỏi trường. Vụ trốn học này có kế hoạch hẳn hoi: từ đêm trước nó đã định cúp hai tiết tin học cuối giờ chiều. Thật ra thì chuồn giờ nào cũng được, nhưng tình cờ thằng bồ ruột Andrew Price (mà Fats gọi là Arf) không cùng lớp với nó trong giờ vi tính, mà Fats có cố cách mấy cũng không làm sao bị đẩy xuống lớp dưới mà học chung với bạn được.
Có lẽ khi chơi với nhau hai thằng đều biết thừa Andrew thần tượng Fats như điếu đổ. Nhưng chính Fats lại thấy nó cần Andrew hơn là ngược lại. Gần đây Fats bắt đầu thấy sự dựa dẫm này có vẻ yếu đuối sao đó, nhưng nó lại lý luận rằng dù không phải vì Andrew thì nó vẫn sẽ cúp hai tiết đó thôi.
Từ một nguồn đáng tin cậy, Fats biết một lối an toàn chuồn ra khỏi khu Winterdown mà không bị ai nhìn thấy từ cửa sổ, đó là bức tường cạnh nhà giữ xe đạp. Thế là nó trèo qua, nhẹ nhàng bám tường tụt xuống bên kia. Nó tiếp đất ngon lành, sải chân đi theo con đường hẹp rồi rẽ trái ra đường chính bụi bặm và nhộn nhịp.
Cảm thấy an toàn, thằng bé châm điếu thuốc rồi tiếp tục đi qua mấy cửa hiệu nhỏ tồi tàn. Qua khỏi năm khối nhà, Fats lại rẽ trái vào con đường đầu tiên vào địa phận khu Fields. Nó nới lỏng nút cà vạt nhưng không tháo hẳn ra, không thèm để ý chuyện dễ bị nhận ra là học sinh cúp học. Fats chẳng bao giờ buồn thêm thắt gì vào đồng phục cho “chất”, kiểu gắn thêm huy hiệu này kia lên ve áo hay chỉnh nút thắt cà vạt cho ra vẻ sành điệu hơn, nó đơn giản tròng đồng phục như kiểu tù nhân coi khinh áo tù.
Cứ theo Fats thấy thì 99% sai lầm của con người phát sinh từ sự hổ thẹn về chính bản thân mình, thế rồi cứ ra sức dối trá để trở thành kiểu người khác hẳn. Sự trung thực là tài sản, vũ khí lẫn hàng rào phòng vệ của Fats. Người ta sợ và sốc khi ta trung thực. Fats phát hiện ra những người khác lúc nào cũng vờ vĩnh và hổ thẹn nên luôn sợ bị lật tẩy. Còn Fats lại bị cuốn hút bởi những gì trần trụi nguyên sơ, những thứ tuy không đẹp đẽ bóng bẩy nhưng trung thực, những thứ dung tục thường làm những người như cha nó thấy nhục nhã và kinh tởm. Fats bỏ công nghiền ngẫm về những vị cứu tinh lẫn những kẻ bị gạt ra lề xã hội; những người bị gắn nhãn điên rồ hay tội lỗi; những con người cao quý lạc điệu bị đám đông mê ngủ tránh xa.
Thật khó, mà cũng thật vinh quang nếu bạn có thể sống đúng với bản chất con người mình, ngay cả khi bản chất ấy là độc ác hay nguy hiểm, mà nhất là khi bản chất ấy là độc ác hay nguy hiểm. Phải can đảm lắm mới không tự mình kinh tởm cái con vật tình cờ nằm trong bản chất chính mình. Mặt khác, còn phải gắng không vờ vịt mình là thứ gì đó khá khẩm hơn con thú trong bản chất ấy: vì nếu cứ đi theo đường ấy rồi đâm ra khoa trương giả dối, cuối cùng sẽ trở thành một ông “Thầy Tủ” khác, giả dối như thế, đạo đức giả như thế. Xác thực và không xác thực là hai từ thường xuất hiện trong đầu Fats; đối với nó, hai khái niệm đó có ý nghĩa cực kỳ rõ ràng tách bạch khi áp dụng cho chính mình lẫn cho những người khác.
Fats tự cho rằng mình có những phẩm chất đích thực cần chú ý bồi đắp thêm nhưng vẫn còn vài nếp suy nghĩ không xác thực vốn là sản phẩm phi tự nhiên sinh ra từ nền giáo dục tệ hại mà nó tiếp nhận, do đó phải loại trừ. Về sau, Fats thử hành động theo những động cơ nó cho là xác thực và gắng phớt lờ hay đè nén cảm giác tội lỗi và lo sợ (không xác thực) mà những hành động kiểu thế đem lại. Rõ ràng kiểu ứng xử này càng rèn luyện nhiều thì càng dễ vận dụng. Nó muốn rèn cho nội tâm mình trơ rắn, không dễ gì tổn thương và không còn sợ bất kỳ hậu quả nào nữa, như vậy nó không còn bị ràng buộc bởi những ý niệm giả dối về cái tốt và cái xấu nữa.
Sự gắn bó với thằng bạn Andrew bắt đầu làm Fats bứt rứt vì đôi khi lúc bên bạn, cái tôi đích thực của nó không bộc lộ ra hết được. Đâu đó trong con người Andrew ẩn chứa những yếu tố thúc đẩy người ta “chơi đẹp”; hơn nữa dạo gần đây, Fats từng bắt gặp cái nhìn khó chịu, bối rối lẫn thất vọng trên gương mặt thằng bạn chí cốt, dù nó gắng che đậy vụng về. Andrew không thích mấy trò trêu chọc hay nhạo báng ai thái quá. Fats cũng không lấy thế làm khó chịu, vì Andrew sẽ hóa ra giả tạo nếu gắng tham gia dù không hẳn muốn, vấn đề là ở chỗ Andrew tỏ ra nghiêng theo cái kiểu đạo đức mà Fats đang càng ngày càng quyết tâm chống lại. Nó cân nhắc chuyện cắt đứt hẳn với Andrew, đó có vẻ là hành động đúng đắn và lạnh lùng để đạt tới sự xác thực hoàn hảo; nhưng mặt khác nó vẫn thích cặp kè với Andrew hơn bất kỳ đứa nào khác.
Fats tin mình tự hiểu bản thân rất rõ; nó khám phá từng ngóc ngách tinh thần với sự tập trung cao độ mà gần đây, nó đã thôi không còn dành cho bất kỳ sự việc nào khác. Nó ngồi hàng giờ nối kết những động cơ, sự mong muốn lẫn nỗi e sợ nội tại, gắng phân tích đâu là cái nó thực sự cảm thấy và đâu là cảm xúc do dạy dỗ mà có. Nó tự xem xét những mối liên hệ gắn bó với mình (chắc chắn trong số những người nó biết không ai từng thành thực đến vậy với chính mình, bọn họ đều đi qua cuộc đời mình một cách phó mặc và lơ mơ): rồi đi đến kết luận rằng Andrew, thằng bạn quen từ khi lên năm, là người nó thấy quý mến nhất; và rằng cho dù giờ nó đã đủ lớn để hiểu mẹ, Fats vẫn giữ mối gắn bó với bà, và thế cũng không có gì sai; và nó khinh ghét thầy “Tủ”, điển hình tối cao của sự không xác thực.
Trên trang Facebook mà Fats bỏ công chăm chút hơn bất kỳ thứ gì khác, nó tô đậm đoạn trích dẫn tìm được trong kệ sách của bố mẹ.
Ta không cần tín đồ, ta nghĩ mình quá hiểm độc đến không tin nổi chính mình... ta kinh sợ cái ngày nào đó được phong thánh... ta không muốn thành thánh, thà làm thằng hề còn hơn... có lẽ ta chính là một gã hề...
Andrew rất thích đoạn này, còn Fats khoái vì thằng bạn tỏ ra ấn tượng đến thế.
Vài giây lúc đi ngang qua nhà cá cược, Fats thoáng nghĩ tới cái chết của Barry Fairbrother, bạn thân của ông bố. Trong ba bước sải ngang qua áp phích cuộc đua ngựa dán sau tấm kính bám bụi của nhà ấy, trong đầu Fats hiện lên gương mặt râu ria của Barry đang kể chuyện cười, lão Tủ thì phá ra cười sùng sục trước cả khi Barry kể xong câu chuyện cười nhạt nhẽo, cái cười đơn giản vì khoái sự hiện diện của ông ta khi đó. Nó không đào sâu những ký ức đó thêm nữa; không cật vấn mình về nguồn cơn nỗi ngần ngại bản năng; nó cũng không tự hỏi liệu người đàn ông đã chết kia trung thực hay giả tạo; gạt bỏ ý nghĩ về Barry Fairbrother và vẻ đau khổ lố bịch của ông bố rồi đi tiếp.
Mấy hôm nay, Fats rơi vào tâm trạng buồn chán kỳ lạ, dù nó vẫn làm bạn bè cười lăn như thường lệ. Hành trình vứt bỏ dần những khuôn thước đạo đức là cuộc tìm kiếm thứ gì đó đã tắt trong nó, thứ Fats đã đánh mất khi qua thời ấu thơ. Cái Fats muốn tìm là một dạng thức tinh khôi, mà lối đi đến đó phải xuyên qua nhiều thứ vốn được mặc định là “có hại”, nhưng đối với nó lại là con đường đích thực để vươn tới sự trung thực, sự thuần khiết. Mọi thứ được người khác răn dạy đã đổi trắng thay đen nhiều tới chóng mặt, đến nỗi Fats đồ rằng cứ làm ngược hẳn những lời khuyên dạy khôn ngoan bị nhồi vào đầu thì sẽ lần tới được sự thật. Nó mong muốn được lao vào cái mê cung tối đen đó và vật lộn với mọi thứ xa lạ lẩn trốn bên trong; muốn đập vỡ cái vỏ sùng đạo và lột trần vẻ đạo đức giả; thèm được phá tan những cấm kỵ rồi ép lấy giọt khôn ngoan từ những trái tim đẫm máu của họ; nó khao khát đạt tới sự khoan dung vượt trên luân lý, và lại được tắm mình trong sự bất tri và đơn giản.
Thế là Fats quyết tâm vi phạm thêm một điều trong mớ quy định ít ỏi của nhà trường mà nó chưa phạm phải, rồi đi thẳng vào khu Fields. Không chỉ vì ở chốn này nhịp đập trần trụi của thực tế gần gũi hơn bất kỳ nơi nào khác nó biết, mà còn vì Fats mong gặp được vài kẻ xấu xa nào đó nó vẫn hằng muốn tìm hiểu, và dù không tự thừa nhận, Fats tới đây còn vì nỗi khao khát hiếm hoi không lời: nó tìm một cánh cửa mở, một sự nhìn nhận từ đầu, một sự chào đón về mái ấm nó thậm chí không biết là mình có.
Đi bộ ngắm những căn nhà trát vữa quét sơn thay vì nhìn ra từ cửa sổ xe hơi của mẹ, Fats nhận thấy nhiều nhà không hề có hình graffiti hay rác vụn, và thậm chí một số còn (dưới con mắt của nó) học theo cái vẻ hào hoa của các dinh thự tại Pagford với những tấm rèm tuyn và đồ trang trí đặt trên bậu cửa sổ. Khi nhìn từ trên xe, những chi tiết này không nổi bật vì ánh mắt Fats bị hút vào những cánh cửa sổ đóng ván và bãi cỏ đầy rác rưởi. Fats chẳng thú gì mấy căn nhà tươm tất đó. Thứ lôi cuốn nó tới đây là những biểu hiện lồ lộ của của sự lộn xộn và thiếu kỷ cương, dù đó chỉ là mớ hình vẽ bằng sơn xịt tầm thường.
Dane Tully sống đâu đó gần đây (nó không biết chắc nơi nào). Gia đình Tully cực kỳ khét tiếng. Hai anh trai và ông bố tối ngày xộ khám. Nghe nói lần gần nhất Dane đánh nhau (với một gã mười chín tuổi, nghe đồn từ khu Cantermill), cha hắn đã cùng hắn tới chỗ hẹn rồi ở đó phụ Dane nện đám anh trai của đối thủ. Khi trở lại trường, mặt mày thằng Tully rách nát, môi sưng vều, mắt bầm đen. Ai cũng bảo nó đeo cái bộ dạng bất thường đó chẳng qua để khoe mẽ chiến tích.
Fats chắc mẩm mình sẽ hành xử khác hẳn. Để ý tới chuyện người ta nghĩ gì về bộ mặt dập nát của mình là chỉ là trò không xác thực. Fats khoái cứ đánh nhau, rồi thì trở lại nhịp sống bình thường, nếu có ai biết được vụ đó thì chẳng qua do họ tình cờ bắt gặp mà thôi.
Fats chưa bao giờ bị nện, dù càng ngày nó càng tỏ ra khiêu khích. Dạo này, Fats hay tự hỏi lúc vào cuộc đánh nhau thì cảm giác ra sao. Nó đồ là cái tình trạng trung thực mà nó mong đạt tới phải bao gồm bạo lực trong đó, hay ít ra là không ngăn chặn bạo lực. Đối với Fats, tâm thái sẵn sàng đánh nhau hay nghênh chiến cũng là một kiểu dũng cảm cần đạt tới. Nó chưa bao giờ phải viện tới nắm đấm, dùng ba tấc lưỡi đã đủ rồi, nhưng giờ Fats lại đâm ra khinh ghét cái tài miệng lưỡi của chính mình và quay sang sùng mộ hành động bạo tàn trung thực. Nó thận trọng hơn khi tính tới chuyện kiếm “hàng lạnh” lận lưng. Nếu giờ mà kiếm con dao rồi phô phang đây đó thì cũng chỉ là trò mèo thảm hại giả tạo học theo thằng Dane Tully, Fats nghĩ tới đã sởn da gà. Nếu có lúc nào đó thực sự cần thủ dao, nó chắc chắn không làm kiểu thế. Fats không loại trừ khả năng chuyện đó xảy ra, nhưng cũng phải thầm thừa nhận là viễn cảnh ấy khá đáng sợ. Fats sợ những món đồ nhọn có để đâm xé thịt như dao hay kim. Nó là đứa duy nhất ngất xỉu trong đợt trường Thánh Thomas tổ chức cho học sinh tiêm ngừa viêm màng não. Muốn làm Fats mất bình tĩnh, mà chuyện này cực khó, thằng Andrew chỉ cần vung vẩy ống chích thuốc dị ứng quanh người nó, Andrew lúc nào cũng phải kè kè cái ống tiêm bơm sẵn adrenalin này bên người vì dị ứng nặng với lạc. Cứ thấy Andrew ve vẩy ống tiêm hay vờ chọc nó vào người mình là Fats muốn phát bệnh.
Tha thẩn một lúc, Fats chợt để ý bản tên đường Foley. Krystal Weedon sống ở phố này. Hôm nay không chắc cô nàng có đi học không, nhưng chắc chắn nó không muốn bị nghĩ mình cố tình tới đây tìm con bé.
Hai đứa đã hẹn gặp nhau vào tối thứ Sáu. Hôm ấy Fats sẽ xin bố mẹ sang nhà Andrew để cùng làm bài luận môn tiếng Anh. Krystal có vẻ rành rẽ chuyện sắp làm, còn có vẻ mong ngóng nữa. Tới bây giờ thì con bé đã cho phép Fats đưa hai ngón tay vào chỗ nhạy cảm của mình; thằng này cũng cởi được móc áo ngực, và được phép để tay lên bộ ngực phổng phao ấm áp ấy. Trong buổi khiêu vũ hồi Giáng Sinh, nó đã cố ý tán tỉnh cô nàng, dẫn Krystal ra khỏi sảnh trước cái nhìn đầy hoài nghi của Andrew lẫn mấy đứa khác rồi quành luôn vào phòng kịch. Cô nàng có vẻ cũng khá bất ngờ, nhưng đúng như nó dự kiến và mong đợi, chẳng phản kháng gì mấy khi vào trận. Fats chọn Krystal là có chủ đích; thậm chí đã chuẩn bị sẵn những câu trả miếng thật cay phòng khi có đứa nào dám chế nhạo vụ này.
- Nếu thích khoai chiên thì việc đếch gì phải vào quầy xà lách.
Nó đã nghĩ sẵn lối lập luận kiểu đấy, nhưng cuối cùng cũng huỵch toẹt ra.
- Thì tụi mày cứ việc tự sướng đi, còn tao khoái chơi tay đôi.
Câu này làm mấy thằng kia hết dám cười. Fats dám chắc kể cả Andrew cũng phải nuốt vào bụng câu chế nhạo về cách chơi của nó, chúng khâm phục vì Fats dám tỉnh bơ theo đuổi mục tiêu có thực duy nhất. Rõ ràng Fats đã chọn cách thức trực tiếp nhất để nắm lấy thứ nó muốn, không đứa nào dám cãi trước cái sự thật đã xảy ra đó, và Fats dám cá thằng nào thằng nấy đều đang dằn vặt tự hỏi sao không đủ can đảm mà thử cách đó để cũng được như thế.
- Giúp đây một việc nhé, và đừng nói với mẹ đây, được không? - Fats thì thầm vào tai Krystal khi hai khuôn miệng ướt át nóng hổi tạm buông nhau ra để thở, trong lúc đó ngón tay nó liên tục rờ rẫm ngực cô nàng.
Cô nàng chỉ cười thầm rồi hôn nó nồng nhiệt hơn. Krystal không hỏi vì sao mình được chọn, mà thực ra cũng chẳng thắc mắc gì cả; có vẻ như hai đứa cũng giống nhau, thích thú trước phản ứng của những người khác và lấy làm tự hào trước con mắt bối rối của đám người quan sát, dù bị mấy đứa bạn Fats ngấm ngầm khinh ghét. Fats và Krystal hầu như không nói gì nữa trong suốt ba lần hì hụi tiếp sau đó. Cả ba lần, Fats đều là người bắt đầu nhưng cô nàng lúc nào cũng sẵn sàng đáp ứng, xoay trở nâng mình cho thằng này dễ loay hoay. Tối thứ sáu là lần đầu tiên hai đứa gặp mà có hẹn trước. Fats mua sẵn cả bao cao su.
Có vẻ vụ cúp học rồi cuốc bộ đến tận khu Fields cuối cùng cũng đáng đồng tiền bát gạo, dù trước khi bắt gặp bảng tên đường, Fats không hề nghĩ tí gì đến Krystal (nhưng lúc nào cũng mơ tới bộ ngực sớm phì nhiêu và đường hầm hớ hênh tuyệt vời đó).
Fats quay người đi ngược lại, châm điếu thuốc mới. Không hiểu sao khi nhìn tên đường Foley, nó thấy mình có mặt ở đây lúc này có gì đó không đúng. Hôm nay khu Fields có vẻ nhạt nhẽo và khó dò, thứ nó tìm kiếm và hy vọng sẽ nhận ra khi bắt gặp dường như đang giấu mình đâu đó. Nó đi ngược trở lại trường.