Có cậu bé tay xách chiếc bình vàng
Đựng đầy nước trong xanh mát lạnh
Của dòng sông đang uốn mình lấp lánh
Giữa xứ Rêm và Namurơ...
thì bất giác tôi bỗng mấp máy đôi môi khô nẻ của mình, hay nói đúng hơn là định làm thế mà không được. Chỉ ý nghĩ về bình nước mát ấy cũng đủ làm tôi phát điên lên. Nếu lúc này bỗng xuất hiện đức Hồng y giáo chủ với cuốn Kinh thánh và ngọn nến cầm tay, có lẽ tôi sẽ lao về phía ngài và uống hết chậu nước dành cho ngài rửa tay, thậm chí khi chậu nước ấy đầy bọt xà phòng, dù biết làm thế, tôi sẽ bị nhà thờ công giáo nguyền rủa và trừng phạt. Tôi nhớ lúc ấy vì khát, mệt và đói, tôi cảm thấy choáng váng trong đầu. Tôi hình dung rất rõ đức Hồng y giáo chủ cùng chú tiểu đồng theo hầu và con quạ xứ Rêm sẽ nhìn tôi, người thợ săn voi có mái tóc bạc, da ngăm đen và khổ người bé nhỏ, như thế nào, khi bỗng nhiên, chỉ bằng một bước nhảy, tôi xuất hiện bên ngài và vục khuôn mặt bẩn thỉu của mình xuống chậu nước thánh, uống sạch không còn một giọt. Ý nghĩ này buồn cười đến nỗi tôi phá lên cười, và bằng giọng cười khàn khàn của tôi đã đánh thức những người bạn đường dậy; những người này cũng bắt đầu đưa tay vuốt mặt, mí mắt và môi đang dính chặt vào nhau.
Khi tỉnh ngủ hẳn, chúng tôi bắt đầu bàn bạc về hoàn cảnh khá nghiêm trọng của mình. Không còn một giọt nước nào. Chúng tôi dốc ngược các bình, cố kiếm những giọt nước sót lại, nhưng vô ích. Thuyền trưởng Huđơ, người mang chai rượu theo mình, bắt đầu nhìn nó bằng đôi mắt tham lam, nhưng Henry đã vội giật lấy vì biết rằng lúc này uống rượu có nghĩa là tự đưa mình đến cái chết nhanh hơn.
- Nếu không tìm được nước, chúng ta sẽ chết. - Huđơ nói.
- Nếu có thể tin được bản đồ của ông già Bồ Đào Nha, thì chắc đâu đây phải có nước. - Tôi nói.
Hình như không ai tỏ ra vui vẻ lắm khi nghe tôi nói thế. Rõ ràng là không thể đặt hết hi vọng vào tấm bản đồ này được. Trời mỗi lúc một sáng dần, sáng dần. Chúng tôi ngồi im, thờ thẫn nhìn nhau. Bỗng nhiên tôi thấy Venfogen đứng dậy đi lại xung quanh, mắt vẫn không ngớt nhìn xuống cát. Rồi anh ta chợt dừng lại, kêu lên một tiếng gì đấy, tay chỉ xuống đất.
- Cái gì đấy? - Chúng tôi nhổm dậy hỏi rồi cùng chạy về phía anh ta vừa chỉ.
- Cứ cho đấy là dấu chân còn mới của linh dương, - Tôi nói. - Nhưng rồi sao?
- Linh dương chỉ quanh quẩn bên nơi có nước. - Anh ta đáp bằng tiếng Hà Lan.
- Vâng, - Tôi đáp, - Cậu nói đúng. Tôi quên mất điều ấy. Tạ Chúa lòng lành.
Điều khám phá nhỏ này đã tăng thêm sức lực cho chúng tôi. Thật là đáng ngạc nhiên, gặp cảnh khốn quẫn, không lối thoát, con người bấu víu vào cả những hi vọng mong manh nhất nếu có, và cảm thấy gần như hạnh phúc. Giữa đêm tối, một ngôi sao dù nhỏ cũng còn hơn không có ngôi sao nào.
Trong lúc ấy Venfogen ngước chiếc mũi hếch của mình lên trời, hít hít làn không khí nóng bỏng như con cừu hít ngửi thấy nguy hiểm. Bỗng anh ta lại nói:
- Tôi ngửi thấy có mùi nước!
Nghe thế chúng tôi ai cũng vui mừng, vì biết những người lớn lên ở sa mạc có chiếc mũi bẩm sinh rất thính.
Đúng lúc này mặt trời lên, uy nghi và lộng lẫy, và đưa đôi mắt mệt mỏi ngắm nhìn cảnh tượng hùng vĩ ấy, trong giây lát thậm chí chúng tôi còn quên cả cái khát.
Cách chúng tôi không đầy bốn mươi hoặc năm mươi dặm là núi Vú của nữ hoàng Xava đứng sừng sững, long lanh như dát bạc trong ánh mặt trời buổi sáng. Kéo dài ra hai bên hàng trăm dặm là dãy Xulâyman nổi tiếng. Lúc này, khi tôi đang ngồi bên bàn để viết những dòng này, quả tôi không tìm đủ lời để miêu tả cảnh đẹp và sự hùng vĩ của bức tranh thiên nhiên hôm ấy...
Sau đấy, như để che không cho chúng tôi nhìn thêm những đám sương mù và mây hình thù kì dị bỗng từ đâu kéo đến, đông đặc dần rồi phủ kín tất cả, cho đến lúc cuối cùng chỉ còn nhìn thấy những đường nét mờ mờ của dãy núi khổng lồ thấp thoáng trong mây mù như bóng ma. Sau này, chúng tôi mới biết rằng chúng thường bị che khuất trong mây, cũng chính vì thế mà trước đấy không ai trong số chúng tôi nhìn rõ chúng như thế.
Khi dãy núi bị che khuất, ngay lập tức cái khát lại quay lại hành hạ chúng tôi.
Nghe Venfogen nói rằng anh ta ngửi thấy mùi nước thì thích thật đấy, nhưng nhìn xung quanh, chúng tôi không hề thấy một dấu hiệu nào khẳng định điều đó, đâu cũng chỉ thấy biển cát đơn điệu, quằn quại dưới ánh mặt trời gay gắt và những bụi gai thấp, giống cây đặc trưng cho những vùng thiếu nước ở Nam Phi. - Chúng tôi đi vòng quanh ngọn đồi, lo lắng quan sát đây đó với hi vọng tìm thấy nước phía sau nó, nhưng vô ích: Không một hố đọng, không một vũng nước, một con suối nhỏ nào.
- Cậu chỉ nói hão, - Tôi giận dữ bảo Venfogen - Ơ đây không có nước!
Nhưng anh ta vẫn tiếp tục nhón chân, hướng cái mũi hếch xấu xí của mình lên trời.
- Tôi ngửi thấy mùi nước, thưa ông chủ, - Anh ta nói. - Quanh quẩn đâu đây thôi, trong không khí.
- Vâng. - Tôi mỉm cười mỉa mai. - Tất nhiên là thế. Trên đám mây kia đang có nước, và độ hai tháng nữa sẽ có mưa đổ xuống để rửa sạch xương của chúng ta.
Henry trầm ngâm vuốt vuốt bộ râu vàng hoe của mình.
- Hay nước ở trên đỉnh đồi? - Ông nói.
- Hừm, - Huđơ nhún vai. - Đã ai bao giờ nghe nói có thể tìm thấy nước trên đồi chưa?
- Ta cứ thử leo lên xem sao - Tôi đề nghị.
Và hoàn toàn không hi vọng, chúng tôi bắt đầu leo lên theo bờ cát dốc. Bỗng Ambov đang đi phía trước đứng sững lại.
- Manzia, manzia! (Nước! Nước!).- Anh ta kêu to.
Chúng tôi chạy ùa lại và quả thật ở đấy, ngay trên đỉnh đồi, trong một vũng sâu có hình chiếc bát, chúng tôi đã nhìn thấy nước!
Chúng tôi không để mất thời gian tìm hiểu vì sao ở đây lại có thể có nước, và màu đen rất không hấp dẫn của nó cũng không hề làm chúng tôi do dự. Với chúng tôi, chỉ cần nhìn thấy nước hay cái gì đó giống nước là đủ. Chúng tôi nhào tới và chỉ một giây sau, tất cả nằm sấp uống lấy uống để thứ nước thối ấy một cách sung sướng, như thể đó là nước thánh.
Trời ơi, chúng tôi uống mới nhiều làm sao! Cuối cùng đỡ khát, chúng tôi cởi hết quần áo, ngồi xuống nước để làn da bị mặt trời hun khô được thấm một ít chất ẩm thần tiên ấy.
Thưa bạn đọc của tôi, vì chỉ cần vặn vòi là lập tức từ cái thùng lớn đâu đó sẽ chảy ra nước lạnh hay nước nóng, nên bạn đọc không thể hiểu hết một cách sâu sắc cái hạnh phúc lớn lao của chúng tôi khi vùng vẫy trong vũng nước bẩn mằn mặn đó.
Tắm chán, chúng tôi bước lên, hoàn toàn tươi tỉnh trở lại và bắt đầu ăn ngấu nghiến đến no bụng món thịt khô mà những ngày trước đây không ai đụng đến. Sau đấy chúng tôi hút thuốc, nằm xuống nghỉ bên vũng nước kì diệu trong bóng mát bờ đất nhô ra và ngủ một mạch cho đến tận trưa.
Suốt ngày hôm ấy chúng tôi nghỉ ngơi, không ngớt cảm ơn số phận đã cho chúng tôi tìm thấy nước, không quan trọng nước ngon hay dở. Chúng tôi cũng không quên cảm ơn linh hồn ông già Xinvextơra chết từ lâu đã giữ lại vũng nước cho chúng tôi bằng cách đánh dấu nó trên vạt áo của mình. Chúng tôi hoàn toàn không thể cắt nghĩa nổi vì sao vũng nước có thể tồn tại lâu đến thế. Tôi chỉ tìm được một giả thuyết duy nhất là có một mạch nước ngầm nào đó chảy sâu dưới cát cung cấp nước cho nó.
Khi trăng lên, chúng tôi lên đường đi tiếp, sau khi đã rót đầy nước vào dạ dày và các bình, và tất nhiên là với khí thế hăng hái hơn trước rất nhiều. Đêm hôm ấy chúng tôi đi được gần hai mươi lăm dặm, và tất nhiên là không còn gặp chỗ nào có nước nữa. Ngày hôm sau, chúng tôi lại gặp may vì tìm được một ít bóng râm trong một tổ kiến. Khi mặt trời mọc, xua tan bức màn sương mù huyền bí, chúng tôi lại nhìn thấy dãy núi Xulâyman và hai đỉnh nhọn hùng vĩ của Vú Nữ hoàng Xava cách chúng tôi không quá hai mươi dặm.
Chúng tôi có cảm giác như núi đang treo trên đầu, và trông lại càng hùng vĩ hơn trước. Đêm đến chúng tôi lại đi và rạng sáng hôm sau đã ở dưới chân núi Vũ Nữ hoàng Xava là cái đích của suốt chặng đường đã qua. Lúc này chúng tôi lại hết nước, lại bị cơn khát dày vò, và tất nhiên không có hi vọng tìm thấy nó trước khi leo lên đến những mảng tuyết đang phủ cao trên đầu chúng tôi. Ngồi nghỉ một hai giờ, chúng tôi lại lên đường đi tiếp với cái khát cháy khô trong cuống họng. Dưới ánh nắng gay gắt, chúng tôi leo lên một cách vô cùng vất vả theo sườn núi dốc đứng phủ một lớp nham thạch đã đông cứng. Hóa ra chân núi khổng lồ này được tạo nên bởi nhiều lớp nham thạch chồng lên nhau do núi lửa phun ra hàng vạn năm về trước.
Đến mười một giờ, chúng tôi hoàn toàn kiệt sức, và vất vả lắm mới giữ được để không bị ngã khụy. Lớp nham thạch đông cứng ở đây kể ra cũng tương đối trơn tru, so với những loại nham thạch khác mà tôi đã nghe nói - Như ở đảo Vonexe chẳng hạn, - Nhưng lại không bằng phẳng, làm đôi chân của chúng tôi đau nhức nhối. Cách chúng tôi mấy trăm mét có một mảng nham thạch nhô ra, tạo thành mái che làm chỗ nghỉ rất tốt.
Vất vả lê chân được đến đó, chúng tôi vô cùng ngạc nhiên (kể cũng lạ là chúng tôi còn chưa mất hết khả năng ngạc nhiên!) thấy trên khoảng trống bằng phẳng bên cạnh có mọc phủ một lớp cỏ xanh. Chắc là do nham thạch phân hóa thành đất và dần dần chim tha các hạt giống cỏ lên đó. Tuy nhiên, nó chẳng làm chúng tôi quan tâm lâu, vì dù sao chúng tôi cũn không thể ăn cỏ mà sống như vua Navukhodonoxor (Vua Ba-bi-ông) được. Để làm được điều đó, trước hết cần có Chúa trời chọn được loại nào ăn được, loại nào không, sau nữa phải có bộ máy tiêu hóa đặc biệt. Chúng tôi ngồi dưới tảng đá và thở dài buồn bã. Riêng tôi, tôi thực sự hối hận rằng đã tham gia vào cuộc phiêu lưu gian khổ này.
Bỗng tôi thấy Ambov đứng dậy đi về phía có cỏ, và chỉ ít phút sau, tôi ngạc nhiên đến tột độ khi thấy anh ta một người luôn chừng mực và đầy lòng tự trọng, đang nhảy cẫng lên, vừa kêu to như một thằng điên, vừa huơ huơ một cái gì đấy màu xanh.
Nghĩ anh ta tìm thấy nước, chúng tôi vội tiến lại gần với tốc độ nhanh nhất mà đôi chân rã rời cho phép.
- Có chuyện gì thế, Ambov, con trai của một thằng ngốc? Tôi nói bằng tiếng Dulux.
- Đây, thức ăn và nước đây, Macumazan! - Anh ta lại giơ lên cái vật màu xanh nọ.
Tôi xem kĩ õ anh ta cầm gì, thì ra đó là một quả dưa bở. Chúng tôi tiến đến khu đất xanh, nơi lăn lóc hàng nghìn quả dưa dại đã chín.
- Dưa! - Tôi kêu to với Huđơ, người đi sau tôi.
Và chỉ một giây sau, ông ta đã cắm ngập bộ răng giả của mình vào một quả. Tôi nghĩ mỗi người chúng tôi đã ăn ít nhất là sáu quả. Dù chúng không thật ngon lắm, nhưng lúc ấy tôi tưởng như trong đời mình chưa từng được ăn cái gì ngon đến thế.
Nhưng dưa bở không phải là món ăn chắc bụng, vì vậy sau khi đã nhai ngấu nghiến đến thỏa thích cái chất mềm mọng nước của nó và hái thêm một số để dự phòng, chúng tôi lại cảm thấy đói kinh khủng. Chúng tôi đang còn một ít thịt khô, nhưng vừa nghĩ đến chúng, ai cũng nhăn mặt buồn nôn, vả lại cũng phải dè sẻn, vì khó lòng mà đoán biết bao giờ chúng tôi mới lại tìm được thức ăn lần nữa. Nhưng vào đúng lúc này chúng tôi lại gặp may. Nhìn về phía sa mạc, tôi thấy có một đàn độ mười con chim to. Chúng bay thẳng về phía chúng tôi.
- Skit, Baas, Skii! (Bắn đi, thưa ông chủ, bắn đi!) anh chàng người Gốttentốt vừa khẽ bảo tôi, vừa vội nằm rạp xuống.
Tất cả chúng tôi làm theo anh ta.
Tôi nhận ra đó là một đàn diệc, đang bay cao trên đầu tôi, cách năm mươi mét. Cầm một khẩu winchester tôi chờ đúng đến lúc chúng bay ngang đỉnh đầu rồi bất ngờ đứng dậy. Như tôi dự đoán, thấy tôi, đàn diệc hoảng sợ bay tụm vào một chỗ. Tôi bắn hai phát và may mắn trúng một con. Đó là một con rất đẹp, cân nặng gần chín cân. Nửa giờ sau con chim đã được nướng trên ngọn lửa do chúng tôi nhặt các dây dưa khô nhóm lên. Lần đầu tiên trong suốt cả tuần, chúng tôi mới được ăn một bữa tiệc như thế. Chúng tôi ăn hết toàn bộ con chim, trừ xương và nỏ. Ăn xong, ai cũng thấy khỏe khoắn hẳn lên.
Đêm đến, chờ trăng lên, chúng tôi lại lên đường mang theo một số lượng dưa nhiều nhất mà chúng tôi có thể mang được. Càng lên cao, không khí càng mát và điều ấy làm chúng tôi dễ chịu hơn. Rạng sáng, chúng tôi chỉ còn cách chỗ có tuyết mấy dặm. ƠŒ đây chúng tôi lại gặp dưa, và ý nghĩ về cái khát không còn làm chúng tôi lo lắng nữa, vì sắp tới sẽ có thừa tuyết để ăn. Nhưng bây giờ leo lên là việc rất nguy hiểm, và chúng tôi đi chậm một cách kinh khủng - Một giờ chưa được một dặm. Thêm vào đó, đêm hôm ấy chúng tôi đã ăn hết miếng thịt khô cuối cùng.
Suốt cả thời gian này, chúng tôi không hề gặp một sinh vật nào trong núi, trừ đàn diệc, và cũng không thấy có mạch nước ngầm hay con suối nào. Điều này làm chúng tôi ngạc nhiên, vì trên đỉnh núi là hàng mảng tuyết dày mà chúng tôi cho là thỉnh thoảng phải tan thành nước. Sau này tôi mới biết rằng vì một liù do nào đấy không thể giải thích nổi, tất cả các con suối đều chảy về phía bắc, phía bên kia núi.
Bây giờ thì vấn đề thiếu thức ăn làm chúng tôi rất lo lắng. Hoàn toàn có thể nghĩ rằng chúng tôi thoát được khỏi chết khát chỉ để đến lúc này phải chết đói. Những ghi chép sau đây mà tôi ghi một cách đều đặn vào cuốn sổ của tôi có lẽ sẽ giúp bạn đọc hình dung rõ hơn những gì đã xảy ra trong ba ngày tiếp theo lúc ấy.
“Ngày 21-5. Ra đi vào lúc mười một giờ sáng, vì trời đủ lạnh để có thể đi ban ngày. Mang theo một số dưa bở. Suốt ngày lê chân đi một cách hết sức vất vả. Không còn thấy nơi nào có dưa - Chắc là đã vượt qua vùng đất mà chúng có thể mọc. Không gặp một loại muông thú nào để săn bắn. Khi mặt trời lặn, chúng tôi dừng lại để nghỉ. Chưa được ăn gì suốt cả mấy giờ trước đấy. Ban đêm rét kinh khủng.
"Ngày 22. Rạng sáng lại ra đi, càng thấy yếu hơn trước. Cả ngày chỉ đi được năm dặm. Gặp một vài mảnh đất nhỏ phủ tuyết. Chúng tôi đã ăn tuyết, vì chẳng còn gì khác để ăn. Nằm ngủ dưới mái che của một tảng đá khổng lồ nhô ra về phía trước. Rét cắt thịt. Chúng tôi uống một ít rượu rồi đi nằm, co ro trong chăn, người này áp chặt người kia để khỏi bị chết rét. Cái đói và cái mệt làm chúng tôi vô cùng đau đớn. E rằng Venfogen khó mà sống nổi đến sáng mai.
"Ngày 24. Lại lần nữa cố gắng đi tiếp, nhưng chỉ sau khi mặt trời lên khá cao và ít nhiều sưởi ấm những đôi chân giá lạnh. Chúng tôi ở trong một tình trạng đáng lo sợ, và tôi nghĩ rằng, nếu không kiếm được thức ăn, hôm nay sẽ là ngày cuối cùng của cuộc hành trình. Chai rượu chỉ còn lại rất ít. Huđơ, Henry và Ambov tỏ ra rất vững vàng, nhưng Venfogen thì thật đáng lo ngại. Như phần lớn những người Gôttentốt, anh ta không chịu được lạnh. Tôi không còn cái đau nhói ở dạ dày nữa, mà chỉ thấy âm ỉ tê dại. Những người khác nói rằng họ cũng vậy. Bây giờ chúng tôi đã leo lên đến lớp nham thạch nối liền hai núi với nhau. Từ đây nhìn xung quanh cảnh tượng thật đẹp.Sau lưng chúng tôi, trải dài ra tận chân trời là sa mạc mênh mông lấp lánh, còn phía trước là những gợn sóng tuyết trắng bằng phẳng, dài hàng dặm, nhấp nhô vươn lên cao. Chính giữa những ngọn sóng tuyết ấy là đỉnh núi cao khoảng 2.000 mét. Không thấy một sinh vật nào. Mong Chúa hãy rủ lòng thương cứu vớt chúng con. Tôi sợ rằng giờ phút cuối cùng của chúng tôi đã đến...".
Còn bây giờ tôi sẽ để cuốn nhật kí của mình sang một bên, một phần vì nội dung của nó làm bạn đọc buồn chán, phần khác vì những gì xảy ra sau đấy có lẽ đáng được kể lại một cách chi tiết hơn.
Trong suốt cả ngày hôm ấy (23-5), chúng tôi chậm chạp bò lên theo dốc núi phủ tuyết, thỉnh thoảng lại nằm xuống nghỉ lấy sức. Chắc nhìn chúng tôi sẽ buồn cười lắm. Năm người đói rét, mệt mỏi, chậm chạp lê từng bước chân nhức nhối của mình trên dốc núi trắng xóa, đôi mắt hau háu nhìn ra xung quanh. Nhưng làm thế cũng vô ích, tất nhiên, vì chỉ có nhìn chăm chú đến đâu, cũng không thể tìm thấy cái gì ăn được. Ngày hôm ấy chúng tôi chỉ đi được không quá bảy dặm. Ngay trước khi mặt trời lặn, chúng tôi đã lên tới đỉnh phía trái của núi Vú nữ hoàng Xava, bên cạnh một mỏm đá khổng lồ bằng phẳng phủ đầy tuyết cứng, vươn lên cao hàng nghìn mét. Dù quá mệt mỏi, chúng tôi vẫn không thể không chiêm ngưỡng cảnh tượng kì diệu đang trải ra trước mắt. Những dòng ánh sáng phát ra từ mặt trời đang lặn càng tăng thêm vẻ đẹp của bức tranh hùng vĩ, nhuộm đỏ tuyết rải rác ở một vài chỗ.
- Này, các ông biết không. - Huđơ bỗng nói, - Chắc chúng ta đang ở gần cái hang núi mà ông già người Bồ Đào Nha đã nhắc tới.
- Vâng, - Tôi đáp, - Nếu quả có một hang núi như thế.
- Này ông Quotécmên, - Henry thở dài nói, - Không nên nói như thế. Tôi hoàn toàn tin vào ông già Bồ Đào Nha ấy. Hãy nhớ lại hồ nước thì biết. Sắp tới, chúng ta sẽ tìm thấy hang núi.
- Nếu từ giờ đến tối không tìm thấy nó, chúng ta có thể coi như mình đã chết, thế thôi, - tôi đáp không lấy gì làm vui vẻ lắm.
Chúng tôi tiếp tục đi thêm mươi phút trong im lặng, Ambov đi cạnh tôi, người quấn chăn, chiếc thắt lưng da thít chặt quanh hông, đến nỗi eo bụng của anh ta thon lại như con gái. Anh ta nói phải thít chặt như thế để “bắt cái rét phải co lại”. Bỗng anh ta túm lấy tay tôi.
- Nhìn kìa! - Anh ta nói, tay chỉ về phía đỉnh núi.
Tôi nhìn theo và thấy cách chúng tôi khoảng hai trăm mét, có một chấm đen trông như lỗ hổng trên nền tuyết trắng bằng phẳng.
- Đấy là hang núi. - Anh ta nói.
Bằng những cố gắng cuối cùng, chúng tôi đi về hướng ấy và thấy đó đúng là cửa dẫn vào hang núi, chắc chắn là cái hang mà Hoxe Xinvext đã nói tới. Chúng tôi đến rất đúng lúc vì ngay lúc đó mặt trời lặn nhanh một cách đáng ngạc nhiên, và tất cả bỗng chìm trong bóng tối. ƠŒ những vùng này hầu như không có hoàng hôn. Hóa ra hang cũng không rộng lắm. Chúng tôi bò vào hang, người này áp sát người kia cho đỡ lạnh, và mỗi người một ngụm chúng tôi đã uống hết số rượu còn lại. Sau đó, chúng tôi cố ngủ để quên hoàn cảnh bi thảm của mình, nhưng vì quá lạnh không ai chợp mắt nổi.
Tôi tin rằng ở đây nhiệt độ không ít hơn 14-15 độ dưới không. Điều ấy nghĩa là gì đối với chúng tôi, những người kiệt sức vì đi đường, thiếu ăn, khô rạc vì cái nắng của sa mạc. Chắc bạn đọc sẽ tự đoán hiểu tốt hơn là tôi nói ra đây. Chỉ cần nói rằng tôi chưa bao giờ cảm thấy cái chết gần mình như thế, là đã quá đủ.
Cái đêm khủng khiếp ấy kéo dài hết giờ này đến giờ khác. Chúng tôi ngồi trong hang và cảm thấy rõ Thần băng tuyết đang đi lại xung quanh, châm muôn ngàn mũi kim vào tay, chân và mặt. Chúng tôi càng ôm chặt nhau hơn, cố gắng sưởi ấm nhau một cách vô ích, bởi vì trong cơ thể thảm hại, gầy gò vì thiếu ăn của chúng tôi đã chẳng còn chút hơi ấm nào.
Thỉnh thoảng có ai đó trong chúng tôi chợp mắt mơ màng được ít phút, nhưng nói chung nằm rất lâu mà không sao ngủ nổi. Cũng có thể như thế là tốt hơn, vì tôi nghĩ nếu ngủ quên, chúng tôi sẽ chẳng còn bao giờ thức dậy nữa.
Tôi tin rằng chính nhờ sức mạnh của ý chí, chúng tôi mới sống qua được đêm ấy.
Gần sáng, tôi bỗng nghe Venfogen thở mạnh một cái rồi im hẳn, dù trước đấy suốt đêm, hai hàm răng của anh ta luôn đập vào nhau vì rét. Lúc ấy, tôi chẳng chú ý nhiều tới điều đó, vì nghĩ anh ta đã ngủ thiếp. Anh ta ngồi quay lưng về phía tôi, và tôi có cảm giác rằng người anh ta đang lạnh dần, lạnh dần, cho đến lúc cứng lại như một tảng băng.
Cuối cùng ánh bình minh xuất hiện thay chỗ bóng tối, sau đó những tia nắng vàng bắt đầu lóe lên trên tuyết trắng, và mặt trời rực rỡ nhô lên sau đỉnh núi, chiếu sáng những hình người buốt lạnh của chúng tôi, soi sáng cả Venfogen lúc này đang ngồi chết cứng. Chẳng trách trước đấy tôi có cảm giác rằng lưng anh ta rất lạnh.
Anh chàng tội nghiệp đã chết khi tôi nghe anh ta thở hắt, còn bây giờ thì hầu như bị đông cứng như một khúc cây.
Vô cùng hoảng sợ, chúng tôi bò ra khỏi xác chết (kể cũng lạ, bao giờ chúng ta cũng sợ hãi khi nhìn thấy xác chết), và để anh ta ngồi đấy một mình, hai tay ôm chặt đầu gối như cũ.
Đến lúc ấy, những tia sáng của mặt trời lạnh lẽo (đúng là chúng lạnh thật) đã chiếu vào sâu trong hang. Tôi bỗng nghe có ai đấy kinh hoàng kêu lên, quay lại nhìn về phía trong hang.
Và sau đây là cái tôi đã nhìn thấy: ƠŒ cuối hang (hang chỉ dài không quá sáu mét) có một hình người khác đang ngồi, đầu cúi xuống ngực, hai cánh tay dài để thõng xuống hai bên. Tôi nhìn kĩ và thấy đó cũng là một xác chết. Hơn thế nữa, một xác chết của người da trắng.
Những người bạn đường của tôi cũng nhìn thấy ông ta, và thần kinh rệu rã của chúng tôi đã không còn chịu đựng nổi cảnh ấy! Cùng có chung một ý nghĩ nhanh chóng thoát khỏi hang núi khủng khiếp này chúng tôi vội bò ra với tốc độ nhanh nhất mà những đôi chân hầu như giá lạnh hoàn toàn của chúng tôi cho phép.