Khi Nghi Lâm Gặp Đông Phương Bất Bại

Chương 4

Edit: Dương Tử Nguyệt

Bộ khinh công sư phụ lưu lại tên là, Nghi Lâm thấy tên này thì cảm thấy loạn vô cùng, cô hối hận, hối hận lúc sư phụ giao quyển bí tịch này lại không thèm nhìn nó một cái!! Lăng Ba Vi Bộ đó!!! Là quyển bí tịch khinh công của phái Tiêu Dao trong truyền thuyết ở của lão Kim đó!!

Trời ạ, đây là mà!!!

Sau khi kích động một hồi, Nghi Lâm tự hỏi, cái Trường Sinh môn này có phải là môn phái nhỏ tách ra từ phái Tiêu Dao không? Nhưng không phải phái Tiêu Dao chỉ giỏi võ công thôi sao? Sao lại có y lý? Dĩ nhiên, bản bí tịch này cũng có thể là do sư phụ lượm được, ông lão không phải nói võ công là do mình tự học sao? Tóm lại đây là khả năng lớn nhất, cô cũng chỉ có thể YY [1] trong đầu một chút.

[1] tự sướng.

Nếu trước khi cô xuyên qua thì sẽ chẳng hiểu cái bí tịch này viết gì, giống kiểu bạn đọc sách trời vậy đó. Nhưng bây giờ, này chẳng qua là một chuyện nhỏ như ăn kẹo, những gì cô học trong hai năm nay cũng có cái này. Huống chi sư phụ cũng dạy cô một bộ nội công tâm pháp, tuy rằng không biết tên gọi của bộ nội tâm công pháp này là gì, nhưng sau khi luyện qua, việc đi đường thoải mái hơn trước rất nhiều, sức cũng có nhiều hơn, tuy chỉ tu luyện hai năm nhưng có thể xứng với kiếm pháp của phái Hằng Sơn, sau này ra ngoài vẫn có thể đánh được đám cướp.


Dĩ nhiên, đợi sau khi cô học xong bộ Lăng Ba Vi Bộ này… Hừ hừ…

Lăng Ba Vi Bộ lấy tám tám sáu bốn quẻ Kinh Dịch [2] làm cơ sở, người tu luyện dựa vào trình tự quẻ mà tăng lên sức mạnh, từ lúc bắt đầu cho tới cuối cùng sẽ tạo một cái vòng lớn. Trang đầu của bí tích có chú giải: [Người luyện Lăng Ba Vi Bộ cũng chính là dùng khí để bay. Không chỉ khinh công bình thường mà cả những khinh công chí thượng cũng chưa chắc sánh bằng. Người biết khinh công chẳng qua là dựa vào lực nhảy à nhảy, nhờ phản lực mà bay về trước, cũng dùng kỹ xảo để giảm trọng lực và âm thanh lúc tiếp đất. Bởi thế, người dùng khinh công thường chẳng qua là dùng lực để tung người. Người có khinh công tối thượng còn phối hợp kỹ xảo đề khí, chạy nhanh hơn, nhảy cũng cao hơn, nó còn được gọi là “Đạp Tuyết Vô Ngân” “Lục Địa Phi” “Thảo Thượng Phi”. Còn Lăng Ba Vi Bộ là dùng khí để bay lên, khoảng cách bay cao xa thì tùy vào trình độ công lực của người luyện, người luyện tới công lực cao thâm có thể bay qua sông núi và khe cố, thậm chí còn có thể bay xa hơn, khi bay toàn thân bất động, hai chân đạp trên không như đi trên mặt đất, tiêu sái không như đi trên không nên bộ công pháp này mới có tên là Lăng Ba Vi Bộ. Người luyện Lăng Ba Vi Bộ phải có công phu cao, có thể tùy thời mà dựa vào tính chất của nơi đó, sau đó phát ra loại khí có cùng tính chất với không khí nơi đó. Hai khí giống nhau sẽ khiến thân thể bay lên. Lại nói về việc đề khí, cơ thể con người tiến tới như đang bơi lội!] – Đây là nguyên văn trong phần miêu tả của Lăng Ba Vi Bộ, Nghi Lâm nhìn mà ngứa lòng, đáng tiếc nội công của cô quá kém, hiệu quả rất thấp, sau khi luyện hai ba tháng, tuy có thể bay trên không nhưng bộ pháp tinh diệu, người thường muốn bắt được cô cũng khó.

[2] Kinh (經 jīng) có nghĩa là một tác phẩm kinh điển, trong tiếng Hoa có gốc gác từ “quy tắc” hay “bền vững”, hàm ý rằng tác phẩm này miêu tả những quy luật tạo hóa không thay đổi theo thời gian.

Dịch (易 yì) có nghĩa là “thay đổi” hay “chuyển động”.

Khái niệm ẩn chứa sau tiêu đề này là rất sâu sắc. Nó có ba ý nghĩa cơ bản có quan hệ tương hỗ như sau:

Giản dịch– thực chất của mọi thực thể. Quy luật nền tảng của mọi thực thể trong vũ trụ là hoàn toàn rõ ràng và đơn giản, không cần biết là biểu hiện của nó là khó hiểu hay phức tạp.

Biến dịch– hành vi của mọi thực thể. Vạn vật trong vũ trụ là liên tục thay đổi. Nhận thức được điều này con người có thể hiểu được tầm quan trọng của sự mềm dẻo trong cuộc sống và có thể trau dồi những giá trị đích thực để có thể xử sự trong những tình huống khác nhau.

Bất dịch– bản chất của thực thể. Vạn vật trong vũ trụ là luôn thay đổi, tuy nhiên trong những thay đổi đó luôn luôn tồn tại nguyên lý bền vững – quy luật trung tâm – là không đổi theo không gian và thời gian.


Nghi Lâm đã đốt bộ bí tích khinh công mà sư phụ đưa cho cô, về phần hai bản bút ký, sau khi hiểu đạo lý xong cô cũng đốt, mặc dù có chút tiếc nuối nhưng lại sợ tương lai có vấn đề gì, dù sao sư phụ cũng đã nói, cô cũng đồng ý, cho nên chỉ có thể làm theo.

Tháng sáu đang dần tới, cũng tới lúc cô cần xuống núi lịch lãm. Đi vào thế giới này bốn năm, đây là lần đầu cô xuống núi, Nghi lâm vừa chờ mong lại có chút lo lắng, may lúc sư phụ gần đi có để lại ít đồ tốt cho cô, có đan dược luyện chế để cô cứu người, lại có tiền tài xa xỉ, hai vạn ngân phiếu cùng với một đống bạc vụn, số tiền này ở thời đại này chắc chắn là một số tiền lớn. Đồng thời Nghi Lâm cũng cảm thán sư phụ mình thật giàu, Nghi Lâm cảm kích sư phụ cẩn thận, ngay cả đều này cũng nghĩ cho cô, người sống trên đời, không tiền không làm được gì. Đời trước cô không thiếu tiền, đời này không có tiền mà ở bên ngoài nữa, chắc cô bị tra tấn mà chết mất.

Cô không biết cách chi tiêu ở bên ngoài nên Định Dật sư thái để hai vị sư tỷ Nghi Quang, Nghi Mẫn đi xuống núi cùng cô để chăm sóc lẫn nhau. Nghi Lâm cảm thấy lời đề nghị này rất bình thường nên đồng ý. Việc cô học y và khinh công từ một cao nhân không còn là chuyện bí mật gì ở phái Hằng Sơn, thứ nhất, chuyện này giấu không tốt, sau này bị người khác phát hiện sẽ trở nên khó coi, không bằng nói trước, huống chi trên dưới phái Hằng Sơn không phải chỉ có ni cô mà còn có các tục gia đệ tử ở đây từ bé, tính cách đơn thuần thiện lương, không bao giờ nói bậy sau lưng đồng môn, các sư tỷ cũng biết kỳ ngộ [3] của cô nên tất cả đều chúc mừng, cô không phát hiện ai có cái gọi là ghen tị cả. Thứ hai, tính tình của cô nàng kiểu quái đãn tùy tính, cái gọi là ẩn dấu không phải là phong cách làm việc của cô, có thể tương lai sẽ chịu thiệt nhưng ít ra trước mắt, cô thấy tính cách này rất tốt.

[3] cuộc gặp gỡ kỳ diệu.

Ở trên đường xuống núi, Nghi Mẫn hỏi Nghi Lâm “Sư muội, hôm qua tỷ và Nghi Quang sư tỷ đã bàn bạc với nhau, chúng ta tới dưới núi cứu người trước, sau đó đi về phía Nam được không?”

Nghi Lâm hỏi “Hà Bắc gần chúng ta hơn, sao không đi ạ?” Nói thẳng ra, cô muốn đi Bắc Kinh nhìn một chút, trước khi xuyên qua cô là người Bắc Kinh, mà Hằng Sơn lại ở chỗ giao nhau giữa Hà Bắc và Sơn Tây, đi lại cũng tiện.

Nghi Quang đứng ở cạnh nói “Hà Bắc là địa giới của ma giáo, chúng ta cẩn thận một chút vẫn hơn”

“Ma giáo?” Nghi Lâm làm vẻ không biết. Cô suýt nữa đã quên trong còn có một Nhật Nguyệt Thần Giáo, giáo chủ bây giờ hẳn là Đông Phương Bất Bại rồi ha.


Nghi Quang giải thích “Người Ma giáo làm việc tàn nhẫn, không có nhân tính, hơn nữa, ma giáo là tà ma ngoại đạo, chúng ta và bọn họ là kẻ địch”

Nghi Mẫn gật đầu đồng ý, Nghi Lâm mở to mắt, ngoan ngoãn nói “Vậy nghe theo sư tỷ, chúng ta đi phía Nam cũng tốt” Ma giáo ấy à, cô tuyệt đối không tính đụng vào!

Cước bộ của ba người không chậm, chỉ đi hơn hai canh giờ đã tới dưới núi.

Thôn ở dưới núi tên là thôn Lê Hoa, trong thôn có rất nhiều cây lê, bây giờ là tháng sáu, đã sớm qua mùa hoa, Nghi Lâm cảm thấy tiếc nuối vì xuống núi không đúng lúc.

Có bốn mươi lăm hộ người ở thôn này, nhà làm bằng ngói và gạch mộc là chính, giống như những gì trên TV từng chiếu, cô là con gái độc nhất nên được nuông chiều từ nhỏ, chưa từng tới nông thôn, huống chi đây là nông thôn ở cổ đại, Nghi Lâm cảm thấy mới mẻ, nhìn quần áo của người trong thôn lại vừa kinh ngạc vừa phiền muộn, nơi này không phải là xã hội hiện đại.

Nghi Quang và Nghi Mẫn đã quen thuộc với nơi này, hai người thường xuống núi hóa duyên, người trong thôn thấy hai người đều tới chào hỏi. Nghi Lâm năm nay chín tuổi, thân thể yếu đuối, ăn uống không tốt nên bộ dạng không cao, miễn cưỡng cũng được một mét ba, nhìn qua càng giống đứa trẻ sáu bảy tuổi, may bộ dạng xinh đẹp, tóc đen da trắng, vô cùng đáng yêu cộng thêm hai má vừa nhìn đã muốn nhéo.

“Sư tỷ, làm phiền tỷ hỏi người trong thôn có ai bị bệnh cần trị liệu không giúp muội với!” Nghi Lâm ngẩng đầu nhìn Nghi Quang nói. Nghi Quang năm nay hơn ba mươi tuổi, là đệ tử thứ bảy của Định Dật sư thái, mắt to mày rậm, khuôn mặt chữ điền, võ công cao, bình thường nói năng cẩn thận nhưng luôn chăm sóc các sư muội, Nghi Lâm rất thích vị sư tỷ này.


Nghi Quang gật đầu “Chúng ta tới chỗ thôn trưởng hỏi xem” Thôn không lớn, nhà ai có bệnh hoạn cũng không cần phải tới tìm thôn trưởng hỏi. Có điều, năm nay Nghi Lâm mới chín tuổi, người bình thường hẳn không đồng ý để cho đứa nhỏ chữa bệnh, nếu như xảy ra cái gì thì chẳng ai làm được gì, nhưng nếu có thôn trưởng ở cạnh nhìn, hẳn cũng tốt hơn nhiều.

Ban đầu Nghi Lâm không hiểu tại sao phải tới nhà thôn trưởng, tới khi Nghi Mẫn nhỏ giọng giải thích hai câu mới hiểu, trong nhất thời không biế nói gì, chỉ có chút bất đắc dĩ, kiếp trước cô sống tới hai mươi hai tuổi, đã tới tuổi cần kết hôn, lúc thực tập cũng thường bắt mạch cho bệnh nhân, tuy rằng cuối cùng đều do thầy chỉ dạy – cũng chính là bố Hàn xác nhận, nhưng cô chưa từng chẩn sai, lại không gặp chuyện gì khó khăn nên luôn tự tin, có điều, bây giờ đã quên mình là một đứa trẻ.

Người Trung Quốc xem bệnh luôn nhìn y sư, khi chọn thầy thuốc, mặc kệ người đó cao bao nhiêu, trước tiên phải xem tuổi tác, tuổi càng lớn người ta càng cho rằng y thuật càng cao, ngược lại họ thấy không tin tưởng. Ở xã hội hiện đại đã vậy, ở cổ đại càng xem trọng tuổi tác.

Cái gọi không thể nhìn mặt bắt hình dong, ở trong trường hợp này không dùng được.

Nhà thôn trưởng ở phía Đông, lúc ba người tới, ông lão đã qua tuổi sáu mươi vô cùng hoan nghênh. Thôn Lê Hoa bọn họ luôn rất an bình, không có kẻ ác vào cướp của, tất cả đều do phái Hằng Sơn giúp đỡ, đương nhiên bọn họ không dám đắc tội với người của phái Hằng Sơn. Biết ý đồ của ba người, thôn trưởng đánh giá cô gái nhỏ xinh đẹp ở đối diện, tuổi đúng là quá nhỏ, nếu là người khác ông lão đã từ chối, nhưng mà ông rất tin phái Hằng Sơn, nghĩ tới người xuất gia luôn từ bi tốt bụng, cho nên tin tưởng bọn họ không nói đùa, cô gái nhỏ này hẳn có bản lĩnh, suy nghĩ một hồi mới gật đầu đồng ý.

Thấy trời sắp trưa, thôn trưởng đề nghị bọn họ ở lại dùng cơm, buổi chiều mở buổi chẩn bệnh. Nghi Lâm muốn gật đầu đồng ý, từ lúc trên núi xuống, đi lâu như thế, cô cảm thấy đói khát nhưng lại không thể làm chủ, nghiêng đầu nhìn về phía Nghi Quang. Hai tay Nghi Quang chấp thành chữ thập nói “Làm phiền thí chủ”. Nghi Lâm nghe xong thì vui vẻ khôn cùng.

Đây là lần đầu tiên cô ăn cơm ngoài phái Hằng Sơn, dĩ nhiên không mong thịt gà thịt vịt thịt bò, cho dù có cô cũng không dám ăn trước mặt Nghi Quang Nghi Mẫn, huống chi là không có! Thức ăn đều là đồ ăn chay, rau xanh, đậu cove, bánh bao, Nghi Lâm không ăn nhiều bởi vì không thể ăn, ở đây nấu không ngon bằng các sư tỷ ở phái Hằng Sơn, ăn rồi mới biết, có vẻ thức ăn mấy năm nay cô ăn đều rất đáng giá để nhớ lại.

Hai sư tỷ Nghi Quang Nghi Mẫn ăn giống bình thường, Nghi Lâm cảm thấy mình quá yếu ớt, nhưng cô thật sự chịu không nổi, hơn nửa trên đũa còn có mùi lạ khiến cô không thoải mái. Nói thẳng ra, cô gái nhỏ chính là người có bệnh sạch sẽ và rất thích soi mói.


Sau khi ăn xong, thôn trưởng đem ba người tới nhà của người thợ săn, ông nghĩ tới, hai ngày trước, thằng cháu Trương Nhị của ông lên núi săn thú bị thương chân, việc trị liệu cái này cũng không có kiêng kị gì nhiều, cho dù trị không được cũng không chết người, chẳng qua nghiêm trọng hơn một chút, đến lúc đó ông nhờ người trên trấn về trị lại cũng được. Dù sao, so với việc đắc tội đệ tử phái Hằng Sơn cũng tốt hơn. Huống chi, ông là chú của Trương Nhị, thân thích nhà mình cũng dễ hơn.

Nghi Lâm mà biết ý nghĩ của thôn trưởng có vẻ chất phác thành thật đi trưởng, hẳn không nói gì mà bỏ đi luôn, lòng tự trọng của cô gái này rất mạnh đó!