Khi Lỗi Thuộc Về Những Vì Sao

CHƯƠNG MƯỜI BỐN

Trên chuyến bay về nhà, ở độ cao sáu ngàn mét trên những đám mây cao ba ngàn mét so với mặt đất, Gus bảo, “Anh từng nghĩ sống trên mây chắc vui lắm.”
“Ừ,” tôi đáp. “Như kiểu sống trong nhà phao, nhưng không phải lúc nào cũng thế.”

“Có lần trong một lớp khoa học ở trường cấp hai, thầy Martinez hỏi cả lớp xem có ai từng tưởng tượng đến việc sống trên mây chưa, tất cả mọi người đều giơ tay. Sau đó thầy Martinez mới nói với bọn anh rằng trên những đám mây gió sẽ thổi với vận tốc một trăm năm mươi dặm một giờ còn nhiệt độ xuống thấp đến ba mươi độ dưới không và chẳng có một chút ôxy nào hết rồi tất cả chúng ta sẽ chết trong vòng một vài giây.”
“Nghe vẻ thầy dễ thương đấy chứ.”

“Ông ấy chuyên đi ám sát những giấc mơ, Hazel Grace, để anh kể em nghe. Em có nghĩ núi lửa rất thú vị không? Thử nói điều đó với mười ngàn thi thể đang gào thét ở Pompeii[111] xem nào? Em vẫn thầm tin có những nguyên tố phép màu trên thế giới này sao? Tất cả đều chỉ là những phân tử vô tri vô giác ngẫu nhiên va đập lẫn nhau. Em có lo lắng xem ai sẽ quan tâm chăm sóc em khi bố mẹ em qua đời không? Em nên nghĩ đi, bởi trước sau gì họ cũng biến thành thức ăn cho giòi bọ cả thôi.”

“Không biết vẫn tốt hơn,” tôi nói.

Một chị tiếp viên đi dọc lối đi với một cái giá đồ uống, khẽ thì thầm, “Ðồ uống không ạ? Ðồ uống không ạ? Ðồ uống không ạ? Ðồ uống không ạ?” Gus nhoài người qua tôi, giơ cánh tay lên. “Chị làm ơn cho bọn em một chút sâm panh được không?”

“Em đã đủ hai mươi mốt tuổi chưa?” chị ấy hỏi ngờ vực. Tôi cố tình chỉnh lại cái ống dẫn trong mũi mình một cách lộ liễu. Chị phục vụ mỉm cười, liếc xuống mẹ tôi đang ngủ. “Bà ấy sẽ không phiền chứ?”

“Không đâu,” tôi đáp.

Chị ấy rót sâm panh vào hai chiếc cốc nhựa. Ðặc Quyền Ung Thư.

Gus và tôi nâng cốc. “Chúc mừng em,” anh nói.

“Chúc mừng anh,” tôi đáp lại, chạm cốc của mình vào cốc của anh.

Chúng tôi nhấp một ngụm. Mờ hơn những ngôi sao chúng tôi thưởng thức ở Oranjee, nhưng uống vẫn ngon.

“Em biết không,” Gus nói với tôi, “mọi điều Van Houten nói đều đúng.” “Có lẽ, nhưng ông ấy không cần phải tỏ ra đốn mạt như thế. Em không thể tin được ông ta nghĩ về tương lai cho Sisyphus chú chuột Hamster mà không nghĩ cho mẹ của Anna.”

Augustus nhún vai. Ðột nhiên anh có vẻ không chú ý. “Ổn chứ?” tôi hỏi.

Anh khẽ lắc lắc đầu. “Ðau quá,” anh nói.

“Ở ngực à?”

Anh gật đầu. Hai bàn tay siết chặt. Một lúc sau anh mới miêu tả cảm giác đó như có một gã béo một chân đi giày cao gót giẫm lên chính giữa ngực anh. Tôi gập khay sau ghế lên, khóa nó lại rồi cúi người xuống lấy thuốc ra khỏi ba lô của anh. Anh uống một viên với rượu sâm panh. “Ổn chứ?” tôi hỏi lại.

Gus vẫn ngồi đó, nắm tay run cầm cập, đợi cho viên thuốc phát huy tác dụng, cái viên thuốc sẽ chẳng giảm bớt được nỗi đau nhiều hơn khoảng cách giữa anh và nó (và cả với tôi.)

“Có lẽ vì một lí do riêng tư nào đó,” Gus khẽ khàng nói. “Như thể ông ấy nổi điên với chúng ta vì một vài lí do khác nữa. Anh nói Van Houten ấy.” Anh liên tục uống đến hết nốt chỗ sâm panh còn lại rồi chìm vào giấc ngủ.

Bố đã đợi sẵn chúng tôi trong khu trả hành lí, đứng giữa hàng đống những tài xế xe limo ăn mặc sang trọng cầm biển in tên những hành khách của họ: JOHNSON, BARRINGTON, CARMICHAEL. Bố cũng có một tấm biển cho riêng mình. GIA ÐÌNH THÂN YÊU CỦA TÔI, trên đó ghi như thế, bên dưới là (VÀ GUS).

Tôi ôm bố, ông lại bắt đầu khóc (dĩ nhiên). Trong lúc lái xe về nhà, Gus và tôi kể cho bố nghe chuyến đi Amsterdam, nhưng đợi đến tận khi tôi đã về đến nhà và ôm ấp Philip trong lúc xem kênh truyền hình Mỹ quen thuộc với bố và ăn bánh pizza Mỹ đặt ngay trên giấy ăn đặt trong lòng tôi mới kể với ông chuyện về Gus.

“Bệnh của Gus lại tái phát,” tôi nói.

“Bố biết,” ông đáp. Ông nhích người về phía tôi và tiếp tục nói, “Mẹ cậu ấy nói cho bố mẹ biết trước chuyến đi. Bố rất tiếc cậu ấy đã không nói cho con biết. Bố…bố xin lỗi, Hazel à.” Tôi không nói gì một lúc lâu. Chương trình chúng tôi đang xem nói về những người tham gia đang tìm kiếm ngôi nhà mong ước mà họ dự định sẽ mua. “Trong lúc mẹ con các con đi bố đã đọc Nỗi đau tột cùng,” bố nói.

Tôi quay đầu lại phía ông. “Thật ạ, tuyệt. Bố thấy sao?”

“Rất hay. Hơi quá tầm với bố. Bố học ngành sinh hóa, nhớ không, chứ có phải dân văn đâu. Bố cũng ước gì nó có một đoạn kết.”

“Vâng,” tôi nói. “Ai cũng phàn nàn như thế.”

“Với cả nó có đôi chút tuyệt vọng,” ông nói. “Một chút chủ bại.” “Nếu chủ bại của bố là sự thành thật thì con đồng ý.”

“Bố không nghĩ chủ bại đồng nghĩa với sự thành thật đâu,” bố đáp lại. “Bố từ chối chấp nhận nó.”

“Vậy mọi chuyện đều xảy ra đều là có nguyên do cả và chúng ta đều sẽ lên mây chơi đàn hạc và sống trong những tòa lâu đài?”

Bố cười. Ông vòng cánh tay to lớn của mình qua ôm tôi, kéo tôi về phía ông và đặt một nụ hôn lên trán tôi. “Bố không biết mình tin vào cái gì nữa, Hazel. Bố nghĩ là người lớn nghĩa là biết mình tin vào điều gì, nhưng đó không phải là chuyện mà bố làm được.”

“Dạ,” tôi nói. “Không sao mà.”

Ông nhắc lại với tôi rằng ông rất tiếc về chuyện của Gus, sau đó chúng tôi tiếp tục xem TV, chương trình có những người đang chọn mua nhà, bố vẫn đang ôm tôi còn tôi thì bắt đầu gật gù buồn ngủ nhưng lại không muốn lên giường nằm, rồi ông nói, “Con biết bố tin vào điều gì không? Bố nhớ hồi đại học trong một lớp toán, một lớp toán rất tuyệt vời do một bà giáo nhỏ người đứng tuổi đứng lớp. Bà đang giảng về thuật toán biến đổi Fourier nhanh thì đột nhiên dừng lại giữa chừng và nói, ‘Đôi khi có vẻ như vũ trụ muốn được chú ý tới.’

“Đó là điều bố tin. Bố tin vũ trụ muốn được chú ý tới. Bố nghĩ vũ trụ có hơi thiên về mặt ý thức, nó tán dương trí tuệ phần nào vì vũ trụ thích thú với việc vẻ thanh nhã của nó được trân quý. Và bố là ai cơ, sống giữa dòng đời lịch sử, để nói rằng cái vũ trụ chỉ là – hay theo góc nhìn của bố – chỉ là tạm thời đấy thôi.”

“Bố quả là thông minh,” một lúc sau tôi nói.
“Con quả là biết nịnh nọt,” ông trả lời.

Chiều ngày hôm sau, tôi lái xe đến nhà Gus và thưởng thức món
[112] bánh sandwich với thạch và bơ lạc cùng bố mẹ anh và kể cho họ nghe về chuyến đi Amsterdam trong khi Gus đang chợp mắt trên chiếc ghế sofa ngoài phòng khách, nơi chúng tôi từng ngồi xem V for Vendetta. Tôi có thể thấy anh từ trong nhà bếp: Anh nằm ngửa, đầu quay ngược với phía tôi, được đặt sẵn một ống truyền PICC. Họ đang tấn công ung thư bằng một loại cocktail mới: hai loại thuốc hóa trị và một loại thụ thể protein mà họ hi vọng sẽ ngăn chặn được gen đột biến gây ung thư cho Gus. Thằng bé thật may mắn mới có mặt trong danh sách thử nghiệm này, họ nói với tôi như vậy. May mắn, tôi biết thừa tên một trong hai loại thuốc kia. Nghe đến tên nó thôi cũng khiến tôi muốn nôn mửa.
Một lúc sau mẹ Isaac đưa cậu ấy sang thăm.
“Isaac, chào, Hazel Nhóm Tương Trợ đây, không phải cô người yêu cũ độc ác của cậu đâu.” Mẹ cậu ấy dẫn cậu ấy lại gần chỗ tôi, tôi nhấc mình khỏi cái ghế phòng bếp để tới ôm cậu ấy, mất một vài giây để cậu ấy định hình xem tôi ở đâu trước khi ôm lại, rất chặt.

“Amsterdam thế nào?” cậu ấy hỏi.

“Tuyệt vời,” tôi đáp.

“Waters,” cậu ấy gọi. “Mày đâu rồi người anh em?”

“Cậu ấy đang ngủ,” tôi nói, giọng tôi đã nói lên tất cả. Isaac lắc đầu, mọi người chẳng ai nói một câu nào.

“Chết tiệt,” Isaac nói sau một giây. Mẹ cậu ấy dắt cậu ngồi xuống chiếc ghế mà cô đã kéo sẵn ra.

“Tao vẫn hạ được mày trong trò Counterinsurgence đấy thằng đít mù,” Augustus nói mà chẳng quay đầu ra phía chúng tôi. Thuốc men làm giọng anh chậm lại, nhưng vẫn bằng với tốc độ nói của một người bình thường.

“Tao dám chắc cái đít nào cũng mù,” Isaac đáp lại, huơ tay về phía trước tìm mẹ. Cô nắm lấy cậu ấy, nhấc cậu ấy dậy rồi họ cùng nhau đi về phía chiếc ghế sofa, sau đó Gus và Isaac vụng về ôm nhau. “Mày thấy sao rồi?” Isaac hỏi.
“Mọi thứ đắng nghét. Không tính chuyện đấy thì tao vẫn đang ở trên cái tàu lượn có mỗi hướng đi lên thôi ấy cu,” Gus đáp. Isaac cười. “Mắt sao rồi?”

“Ồ, xuất sắc,” cậu ấy nói. “Mỗi tội nó không còn dính trên đầu tao nữa thôi.”

“Tuyệt, ờ,” Gus nói. “Không có ý chơi trội gì đâu nhưng người tao giờ toàn ung thư.”

“Tao biết rồi,” Isaac nói, cố gắng để mình không bị ảnh hưởng bởi chuyện đó. Cậu ấy mò mẫm tìm tay Gus nhưng rốt cuộc lại sờ phải bắp đùi.

“Tao có gấu rồi nhé,” Gus kêu lên.

Mẹ Isaac mang hai chiếc ghế từ phòng ăn sang, Isaac và tôi ngồi xuống cạnh Gus.

Tôi nắm tay Gus, mân mê chỗ hõm giữa ngón cái và ngón trỏ của anh.

Những người lớn kéo nhau xuống dưới tầng hầm để cùng chia sẻ nỗi đau gì đó, để ba đứa tôi lại một mình trong phòng khách. Một lúc sau Augustus quay đầu về phía chúng tôi, vẫn chưa tỉnh hẳn. “Monica sao rồi?” anh hỏi.

“Vẫn chẳng nói gì,” Isaac trả lời. “Không thiệp; chẳng email. Tao có cái máy này để đọc email. Hay phết. Tao có thể chọn giọng nam hay nữ hoặc đổi giọng nói từ các vùng khác nhau.”

“Thế là tao có thể gửi truyện người lớn cho mày rồi sẽ có một lão già người Đức đọc nó cho mày nghe hả?”

“Chuẩn luôn,” Isaac đáp. “Nhưng tao vẫn phải nhờ mẹ chỉnh giúp nên cứ hoãn vụ truyện khiêu dâm người Đức một hai tuần đã đi.”

“Cô ấy vẫn không, ừm, nhắn tin hay hỏi thăm cậu chút nào à?” tôi hỏi. Tôi cảm giác chuyện này như một nỗi bất công không thể lí giải nổi.

“Hoàn toàn ngoài vùng phủ sóng,” Isaac đáp.

“Buồn cười thật đấy,” tôi nói.

“Tớ thôi nghĩ về chuyện đó rồi. Tớ không có thời gian để có bạn gái nữa. Tớ đang bận công việc Học Cách Làm Người Mù.”

Gus quay đầu đi, chăm chú nhìn ra khoảnh sân sau vườn. Anh nhắm mắt lại.

Isaac hỏi thăm xem tôi thế nào, tôi trả lời rằng mọi chuyện đều ổn, rồi cậu ấy kể chuyện mới có một cô bé ở Nhóm Tương Trợ có giọng rất dễ thương và nhờ tôi đến xem cô ấy có thật xinh xắn lắm không. Đột nhiên Gus nói, “Không thể cứ thế đi mà chẳng nói gì với bạn trai cũ sau khi hai mắt nó bị khoét khỏi cái đầu chết dẫm như vậy.”

“Chỉ một trong –” Isaac mở miệng định nói. “Hazel Grace, em có mang bốn đô la đấy không?” “Ừm,” tôi nói. “Có?”

“Xuất sắc. Em sẽ thấy cái chân anh ở dưới bàn uống cà phê,” anh nói. Gus nhấc mình dậy và nhích người ra rìa ghế. Tôi đưa anh cái chân giả; anh chậm chạp gắn nó vào.

Tôi đỡ anh đứng dậy và đưa tay cho Isaac, dẫn cậu ấy qua những đồ đạc bỗng vẻ vướng víu, lần đầu tiên trong nhiều năm tôi nhận ra mình là người khỏe mạnh nhất trong căn phòng này.

Tôi lái xe. Augustus lái ghế trước. Isaac ngồi đằng sau. Chúng tôi dừng lại ở một cửa hàng tạp hóa, nơi theo chỉ dẫn của Augustus tôi đã mua một tá trứng trong khi anh và Isaac ngồi đợi trong xe. Sau đó Isaac chỉ đường cho chúng tôi đến nhà Monica theo trí nhớ của cậu ấy, một ngôi nhà hai tầng ảm đạm phát chán gần

JCC[113]. Chiếc Pontiac Firebird thập niên 1990 màu xanh mạ của Monica đậu ngay lối vào, lốp căng phồng.

“Đến rồi à?” Isaac hỏi lúc cậu ấy cảm thấy tôi như đang chuẩn bị dừng xe.

“Ồ nó đây rồi,” Augustus nói. “Mày biết trông nó thế nào không Isaac? Nó trông như tất cả những sự hi vọng mà ta đã ngu ngốc hi vọng vào.”

“Cô ấy ở nhà không?”

Gus chậm chạp ngoái đầu lại nhìn Isaac. “Ai quan tâm nó ở đâu? Chuyện này không phải vì nó. Chuyện này vì chính mày.” Gus ôm hộp trứng vào lòng, mở cửa và nhấc chân ra khỏi xe bước xuống lòng đường. Anh mở cửa cho Isaac, tôi nhìn họ trong gương, Gus đỡ Isaac ra khỏi xe, hai người dựa vai vào nhau, giống như hai bàn tay đang chắp lại cầu nguyện nhưng hai lòng bàn tay không chạm vào nhau.

Tôi hạ cửa sổ xuống và ngồi trong xe nhìn ra, chuyện đi phá hoại làm tôi lo lắng. Họ tiến mấy bước lại gần chiếc xe, Gus mở hộp trứng ra lấy một quả đưa cho Isaac. Isaac ném nó, cách cái xe những mười hai mét.

“Sang trái một chút,” Gus nói.

“Tao vừa ném lệch sang trái một chút hay tao phải nhắm sang trái một chút?”

“Nhắm sang trái.” Isaac xoay đôi vai cậu ấy. “Trái nữa,” Gus nói. “Rồi. Được lắm. Ném mạnh vào.” Gus đưa cho cậu ấy một quả khác, Isaac ném, quả trứng bay vòng qua chiếc xe vỡ nhoe nhoét trên mái nhà hơi nghiêng. “Trúng phóc!” Gus nói.

“Thật à?” Isaac phấn khích hỏi.

“Trượt rồi, mày ném cao hơn nóc xe khoảng sáu mét. Xem nào, ném mạnh vào, nhưng thấp thôi. Ném qua phải một chút so với quả lần trước.” Isaac với sang và tự lần được một quả trứng trong cái hộp Gus đang bê. Cậu ấy ném nó, trúng cái đèn chiếu hậu. “Trúng rồi!” Gus hét lên. “Trúng rồi. ĐÈN CHIẾU HẬU!”

Isaac với một quả nữa, trượt qua phải, một quá khác, lại thấp quá, rồi một quả nữa, trúng kính chắn gió đằng sau. Sau đó cậu ném trúng ba quả liên tiếp vào cốp xe. “Hazel Grace,” Gus gọi với lại cho tôi. “Chụp ảnh lại đi để Isaac còn thấy cảnh này khi người ta phát minh ra mắt rô-bốt.” Tôi nhoài người ra ngồi dựa trên cái cửa xe đã hạ kính xuống, chống khuỷu tay lên nóc xe và chụp một bức ảnh bằng điện thoại của tôi: Augustus, một điếu thuốc chưa cháy trên miệng, điệu cười nửa miệng đáng yêu, giơ hộp trứng màu hồng sắp hết trên đầu. Tay kia của anh choàng qua vai Isaac, cặp kính râm của cậu ấy quay không trúng cái máy ảnh. Đằng sau họ, lòng trứng chảy xuống dưới kính chắn gió và thanh chắn xe của chiếc Firebird xanh. Và đằng sau nữa, một cánh cửa đang mở ra.

“Gì thế này,” một phụ nữ khoảng trung niên thốt lên ngay sau khi tôi chụp được bức hình, “lạy Chúa tôi –” và rồi im bặt.

“Thưa bà,” Augustus nói, gật đầu về phía bà ấy, “chiếc xe của con gái bà vừa được ăn trứng một cách thích đáng bởi một kẻ mù. Xin bà vui lòng đóng cửa lại và trở vào trong nếu không chúng tôi sẽ buộc lòng phải gọi cảnh sát.” Sau một lúc do dự, mẹ Monica đóng chiếc cửa lại và biến mất. Isaac liên tục ném nốt ba quả trứng còn lại trong tích tắc rồi Gus dẫn cậu trở lại xe. “Thấy chưa, Isaac, nếu mày lấy đi – sắp đến lề đường – cảm giác hợp lẽ từ họ, nếu mày đổi ngược lại tình thế khiến họ cảm thấy họ đang phạm một tội ác bởi việc đứng nhìn – mấy bước nữa thôi – xe của họ ăn trứng, họ sẽ thấy bối rối và sợ hãi và lo lắng và họ chỉ đơn giản là quay lại cái – mày sẽ thấy cái tay nắm cửa ngay đằng trước – cuộc sống lặng lẽ tuyệt vọng của họ.” Gus vội vàng vòng qua mũi xe và chui vào ghế trước. Cửa xe đóng lại, tôi rồ máy, phóng đi được vài chục mét mới nhận ra tôi đang lao thẳng vào một con đường cụt. Tôi quay xe lại chỗ cuối đường và phi ngược qua nhà Monica.

Tôi không bao giờ chụp bức hình nào của anh nữa.