Kẻ Trộm Sách

Phần VI - Chương 4

* LSR *

Luftschutzraum:

Hầm tránh bom

Thằng bé quay lại với quả bóng ngay khi Liesel chạy đến, và chúng va vào nhau với một sức mạnh đến mức trận đấu tự động ngừng lại. Khi quả bóng lăn ra, những cầu thủ nhóc con vội vàng chạy tới. Liesel bưng cái đầu gối trầy xước của nó bằng một tay, còn tay kia thì ôm lấy đầu. Klaus Behrig thì chỉ ôm lấy cẳng chân phải của nó, nhăn nhó và chửi rủa ầm ĩ. “Con đó ấy đâu rồi,” thằng này nhổ nước bọt. “Tao sẽ giết nó.”

Sẽ không có vụ giết chóc nào cả. Còn tệ hơn thế nữa cơ.

Một đảng viên Quốc xã có vẻ khá tử tế đã nhìn thấy sự việc và chạy đến chỗ đám trẻ một cách đầy trách nhiệm. “Có chuyện gì xảy ra ở đây vậy?” Ông ta hỏi.

“Con này điên rồi.” Klaus chỉ Liesel, và điều này đã nhắc người đàn ông nọ giúp con bé đứng dậy. Hơi thở nồng nặc mùi thuốc lá của ông ta hình thành một cồn cát bốc khói trước mặt nó.

“Ta không nghĩ là cháu còn có thể chơi tiếp được, cháu gái ạ,” ông ta nói. “Cháu sống ở đâu?”

“Cháu không sao,” con bé trả lời. “Thật đấy, cháu có thể tự đi được.” Buông tôi ra, buông tôi ra đi!

Đó là lúc mà Rudy bước tới, cái thằng này lúc nào cũng nhúng mũi vào chuyện của người khác. Tại sao nó lại không lo chuyện của nó lấy một lần trong đời cơ chứ?

“Thật đấy,” Liesel nói. “Cứ chơi tiếp đi, Rudy. Tớ tự đi được.”

“Không, không.” Thằng bé vẫn khăng khăng. Thật là một thằng nhóc bướng bỉnh. “Chỉ mất vài phút thôi ấy mà.”

Một lần nữa, con bé lại phải suy nghĩ, và một lần nữa nó lại tìm ra cách. Khi Rudy đang đỡ nó đứng dậy, con bé lại tự ngồi phịch xuống đất một lần nữa, lưng chạm đất. “Bố tớ,” con bé nói. Con bé nhận thấy bầu trời khi đó chỉ xanh ngắt một màu. Thậm chí không có một gợn mây nào. “Cậu đi gọi ông ấy ra đây được không, Rudy?”

“Ở yên đấy.” Sau đó thằng nhóc quay sang bên phải và nói,

“Tommy, cậu trông chừng cậu ấy nhé? Đừng để cậu ấy cử động đấy.” Tommy như choàng tỉnh và nhúc nhích chân tay. “Tớ sẽ trông chừng cậu ấy, Rudy ạ.” Nói rồi nó đứng bên cạnh con bé, mặt co rúm lại và cố gắng không cười, khi Liesel để mắt trông chừng người đảng viên Quốc xã.

Một phút sau, Hans Hubermann đã bình tĩnh đứng ở bên cạnh nó.

“Chào Bố.”

Một nụ cười thất vọng như hòa lẫn vào đôi môi ông. “Bố đang tự hỏi khi nào thì điều này sẽ xảy ra.”

Ông đỡ nó dậy và giúp nó đi về nhà. Trận đấu lại tiếp tục diễn ra, và đám đảng viên Quốc xã lại chuẩn bị mở một cánh cửa nữa ra. Không có ai ra mở cửa cả. Rudy lại cất tiếng gọi.

“Ông có cần cháu giúp không, ông Hubermann?”

“Không, không, cứ chơi tiếp đi, ngài Steiner.” Ngài Steiner. Chắc chắn là Ngài Steiner phải yêu quý bố của Liesel thôi.

Khi đã vào đến trong nhà, Liesel nói cho ông biết chuyện gì đang xảy ra. Con bé cố gắng tìm ra điểm đồng quy giữa sự câm lặng và trạng thái tuyệt vọng. “Bố ơi.”

“Đừng nói gì cả.”

“Đảng Quốc xã,” con bé thì thầm. Bố dừng lại. Ông cố gắng gạt bỏ cái thôi thúc mở cửa ra và nhìn ra ngoài đường. “Họ đang kiểm tra những tầng hầm để làm chỗ tránh bom.”

Ông đặt nó xuống. “Thông minh lắm,” ông nói, sau đó ông gọi Rosa.

Họ có một phút để đưa ra được một kế hoạch. Một đống suy nghĩ lộn xộn.

“Chúng ta sẽ đưa anh ấy vào phòng của Liesel,” là ý kiến của Mẹ.

“Chúng ta sẽ giấu anh ấy dưới gầm giường.”

“Thế ư? Thế nếu họ quyết định kiểm tra cả phòngcủa chúng ta nữa thì sao?”

“Thế ông có kế hoạch nào hay hơn à?”

Chính xác: họ không có đến lấy một phút.

Một tràng gõ bảy tiếng đập vào cánh cửa nhà số 33 phố Thiên Đàng, và đã quá trễ để chuyển bất cứ ai đến bất cứ nơi nào.

Giọng nói.

“Mở cửa ra.”

Những tiếng tim đập của họ như đang vật lộn với nhau, một loạt những giai điệu lộn xộn. Liesel cố gắng nuốt những nhịp tim của mình xuống. Vị của trái tim con bé không lấy gì làm ngon lành cho lắm.

Rosa thì thầm. “Lạy các đấng Jesus, Maria và...”

Lần này Bố là người phản ứng với sự việc. Ông lao tới cánh cửa dẫn xuống tầng hầm và ném xuống những bậc cấp một lời cảnh báo. Khi quay lại, ông nói rất nhanh và trôi chảy. “Nghe này, chúng ta không có thời gian để dùng mánh khóe. Chúng ta có thể làm ông ta mất tập trung bằng một trăm cách khác nhau, nhưng chỉ có một giải pháp mà thôi.” Ông nhìn cánh cửa và kết luận. “Đó là chẳng có cách nào cả.”

Đó không phải là câu trả lời mà Rosa muốn. Mắt bà mở to.

“Không có cách nào cả sao? Ông điên đấy à?”

Những tiếng gõ cửa lại vang lên.

Bố vẫn hết sức cứng rắn. “Chẳng có cách nào cả. Thậm chí chúng ta cũng sẽ không xuống đó - không thèm quan tâm mảy may đến nó.”

Mọi thứ dường như chậm lại. Rosa chấp nhận điều đó.

Môi mím chặt lại vì đau đớn, bà lắc đầu và đi ra mở cửa.

“Liesel.” Giọng nói của Bố như muốn chẻ con bé ra làm đôi. “Hãy bình tĩnh, verstehst!”

“Vâng thưa Bố.”

Con bé cố gắng tập trung vào cái chân đang chảy máu của nó.

“A ha!”

Ở chỗ cửa, Rosa vẫn đang hỏi xem sự viếng thăm này có nghĩa là sao thì người đảng viên có vẻ tử tế nọ nhận ra Liesel.

“Cầu thủ điên loạn!” ông ta cười. “Đầu gối cháu sao rồi?” Bạn không thường hình dung ra những người đảng viên Quốc xã quá vui vẻ hoạt bát, nhưng người đàn ông này chắc chắn là một người đảng viên như thế. Ông ta bước vào và làm như thể muốn ngồi xuống để xem xét vết thương.

Liệu ông ta có biết không? Liesel nghĩ thầm. Liệu ông ta có đánh hơi được rằng gia đình nó đang che giấu một người Do Thái hay không?

Bố bước ra từ chỗ bồn rửa với một tấm giẻ ướt và đắp nó vào đầu gối của Liesel. “Có nhức không?” Đôi mắt màu bạc của ông ánh lên vẻ quan tâm và sự bình tĩnh. Nỗi sợ hãi trong mắt ông có thể dễ dàng bị nhầm lẫn với sự quan tâm lo lắng đến vết thương của con bé.

Rosa nói vọng ra từ nhà bếp. “Thế thì ăn đã thua gì? Có thể vết thương đó sẽ dạy cho con bé một bài học.”

Người đảng viên Quốc xã đứng dậy và cười. “Tôi không nghĩ là cô bé này đã học được bất cứ bài học nào ngoài đó đâu, thưa bà…?”

“Hubermann.” Tấm giấy các-tông nhăn nhó trả lời.

“A... Bà Hubermann - tôi cho là cháu đang dạy cho những đứa khác một bài học kia.” Ông cười với Liesel. “Dạy cho tất cả đám con trai đó một bài học. Tôi nói có đúng không, cô bé?”

Bố đắp tấm giẻ vào những vết trầy xước và Liesel nhăn mặt thay vì trả lời. Hans là người mở miệng nói. Một câu xin lỗi khẽ thay cho đứa bé gái.

Sau đó là một khoảng thời gian im lặng khó chịu, và người đảng viên nhớ ra mục đích của mình. “Nếu ông bà không phiền ” ông ta giải thích, “tôi cần phải kiểm tra tầng hầm nhà ông bà, chỉ trong vài phút thôi, để xem nó có phù hợp làm chỗ tránh bom không.”

Bố vỗ nhẹ vào đầu gối của Liesel một lần cuối cùng. “Con sẽ có một vết sưng rất đẹp ở chỗ này nữa, liesel ạ.” Ra vẻ thản nhiên, ông nói với người đàn ông đang đứng bên cạnh họ. “Dĩ nhiên là được rồi. Cánh cửa đầu tiên bên tay phải. Hãy thứ lỗi vì dưới đó lộn xộn lắm.”

“Không sao đâu - nó không thể tệ hơn một vài căn hầm mà tôi đã nhìn thấy ngày hôm nay được. Có phải cửa này không?”

“Đúng rồi, nó đấy.”

* BA PHÚT DÀI NHẤT TRONG LỊCH SỬ GIA ĐÌNH HUBERMANN *

Bố ngồi trên bàn. Rosa cầu nguyện ở góc nhà, miệng lẩm nhẩm những gì không rõ. Liesel thì bị nấu chín nhừ: đầu gối nó, ngực nó, những cơ bắp trên cánh tay nó. Tôi ngờ rằng sẽ không có bất cứ ai trong số họ có gan nghĩ xem họ sẽ làm gì nếu căn hầm được chỉ định làm chỗ tránh bom. Trước hết họ phải vượt qua được đợt kiểm tra này cái đã.

Họ lắng nghe tiếng những bước chân Quốc xã trong căn hầm. Có tiếng thước dây kêu loẹt quẹt. Liesel không thể không nghĩ đến việc Max đang ngồi dưới những bậc cấp, mân mê quyển sổ phác thảo của anh, ôm ghì nó vào ngực anh.

Bố đứng dậy. Một ý tưởng khác.

Ông bước đến chỗ hành lang và cất tiếng gọi. “Mọi thứ dưới đó ổn cả chứ?”

Câu trả lời bước lên những bậc cấp, ngay trên đầu của Max Vandenburg. “Có thể là thêm một phút nữa thôi.”

“Ông có muốn dùng chút trà hay cà phê không?”

“Không, cảm ơn ông.”

Khi Bố quay lại, ông ra lệnh cho Liesel lấy một quyển sách ra đọc và Rosa thì bắt đầu nấu ăn đi. Ông đã quyết định rằng điều cuối cùng mà họ nên làm là ngồi thừ ra đó đầy vẻ lo lắng. “Coi nào, ông nói to, “nhúc nhích đi, Liesel. Bố không quan tâm đến việc đầu gối của con bị đau đâu. Con phải đọc xong quyển sách đó, như con đã nói.”

Liesel cố gắng không vỡ tan ra thành từng mảnh. “Vâng, thưa Bố.”

“Thế thì con còn chờ gì nữa.” Hẳn phải mất rất nhiều nỗ lực thì ông mới nháy mắt được với nó, con bé có thể nói như vậy.

Trong hành lang, nó gần như đã đâm sầm vào người đảng viên Quốc xã nọ.

“Đang gặp rắc rối với bố cháu đấy hả? Đừng lo. Bác cũng vậy với mấy đứa con của mình thôi.”

Họ đi theo những con đường riêng của mình và khi Liesel về đến được phòng nó, nó đóng cửa lại và quỳ gối phịch xuống đất mặc cho cơn đau đang nhói lên chỗ đầu gối nó. Trước hết, con bé lắng nghe cái kết luận là căn hầm này quá nông, sau đó là lời tạm biệt, một trong những lời tạm biệt đó được gửi dọc xuống hành lang. “Tạm biệt, nữ cầu thủ điên loạn!”

Nó nhớ rằng mình đã trả lời lại. “Auf Wiedersehen! Tạm biệt!”

Quyển Người mang giấc mơ như bị ninh nhừ trong tay nó.

Theo lời Bố, Rosa như đã tan chảy ra bên cạnh bếp lò ngay cái khoảnh khắc mà đảng viên Quốc xã ra đi. Họ gọi Liesel ra và đi xuống tầng hầm, lấy những tấm che bụi và những thùng sơn được sắp xếp rất khéo ra. Max Vandenburg đang ngồi bên dưới bậc cấp, tay nắm chặt lấy cái kéo hoen gỉ của anh như một con dao. Nách anh sũng mồ hôi, và những từ ngữ rơi ra khỏi miệng anh như những vết thương vậy.

“Lẽ ra cháu không nên đụng đến cây kéo,” anh khẽ nói. “Cháu...” Anh nắm chặt lấy những lưỡi kéo hoen gỉ, ép chặt vào trán mình. “Cháu rất tiếc vì đã khiến cả nhà mình phải gánh chịu việc này.”

Bố châm một điếu thuốc. Rosa thì cầm lấy cây kéo.

“Cháu vẫn còn sống,” bà nói. “Tất cả chúng ta đều vẫn còn sống.” Lúc này đã quá trễ để nói những lời xin lỗi.

NGƯỜI MỈM CƯỜI RANH MÃNH

Nhiều phút sau, một tràng gõ cửa thứ hai vang lên.

“Lạy Chúa, lại nữa!”

Sự lo lắng quay lại ngay lập tức. Max lại được che giấu đi.

Rosa chậm chạp bước lên những bậc cấp tầng hầm, nhưng lần này khi bà mở cửa thì không phải là những đảng viên Quốc xã nữa. Người đó không ai khác ngoài Rudy Steiner. Thằng nhóc đứng đó, với mái tóc vàngvà có ý tốt. “Cháu chỉ ghé xem Liesel thế nào rồi.”

Khi nghe thấy giọng nói của thằng bạn, Liesel bắt đầu đi lên những bậc cấp. “Con có thể giải quyết được người khách này.”

“Bạn trai nó,” Bố nói với những cái thùng sơn. Ông lại thổi ra một miệng đầy khói nữa.

“Nó không phải là bạn trai của con,” Liesel phản bác lại, nhưng con bé không có vẻ tức giận. Không thể tức giận sau một nguy hiểm lớn đến như thế. “Con chỉ đi lên vì Mẹ sẽ la hét ầm ĩ bất cứ giây phút nào.”

“Liesel!”

Con bé đã ở trên bậc thang thứ năm rồi. “Đấy, thấy chưa?”

Khi nó ra đến cửa, Rudy đang di chuyển từ chân này sang chân kia. “Tớ chỉ ghé qua để xem...” Nó ngừng lại. “Mùi gì thế?” Nó khịt khịt mũi. “Cậu đang hút thuốc trong đó à?”

“Ô. Tớ đang ngồi với Bố ấy mà.”

“Cậu có điếu thuốc nào không? Có thể chúng ta sẽ bán được vài điếu đấy.”

Liesel chẳng còn lòng dạ nào nghĩ đến điều này. Nó nói khẽ để Mẹ không nghe thấy. “Tớ không ăn trộm thứ gì từ Bố mình.”

“Nhưng cậu vẫn ăn trộm từ những chỗ khác đấy thôi.”

“Tại sao cậu không nói to lên tí nữa đi?”

Rudy mỉm cười ranh mãnh. “Đã thấy việc trộm cắp làm cho cậu cảm thấy thế nào chưa? Cậu thật lo lắng.”

“Cứ làm như cậu chưa từng ăn trộm thứ gì ấy.”

“Phải, nhưng người cậu bốc mùi ăn trộm nồng nặc.” Lúc này Rudy đã thật sự nóng người lên. “Có thể xét cho cùng thì đó chẳng phải là mùi khói thuốc láđâu.” Nó rướn người tới gần hơn và nở một nụ cười. “Tớ có thể ngửi thấy mùi tội phạm. Cậu nên đi tắm đi.” Nó quay lại hét lên với Tommy Muller. “Này, Tommy, cậu nên đến đây và ngửi cái mùi này mới được.”

“Cậu nói gì kia?” Tommy tội nghiệp đáp. “Tớ không thể nghe được cậu nói gì cả!”

Rudy quay lại nhìn Liesel và lắc đầu. “Thật là đồ vô dụng.”

Con bé bắt đầu khép cửa lại. “Biến đi, đồ con lợn, cậu là điều cuối cùng mà tớ cần lúc này.”

Rất đỗi hài lòng với bản thân mình, Rudy quay lại con phố, ở chỗ hòm thư có vẻ như nó sực nhớ ra điều mà nó muốn xác định rõ từ nãy đến giờ. Nó bước lại vài bước. “Mọi chuyện vẫn ổn cả chứ, đồ con lợn? Ý tớ là vết thương của cậu ấy.”

Khi đó là tháng Sáu. Nơi đó là nước Đức. Mọi thứ đang sắp sửa bị mục ruỗng.

Liesel không nhận thấy được điều này. Phần nó, người Do Thái trong tầng hầm nhà nó vẫn chưa bị phát hiện. Bố mẹ nuôi của nó không bị bắt đi, và bản thân nó đã đóng góp rất nhiều vào cả hai thành quả trên.

“Mọi thứ ổn cả,” con bé nói, và nó không hề nói đến chấn thương xảy ra trong trận bóng.

Con bé ổn cả.

NHẬT KÝ CỦA THẦN CHẾT: NHỮNG NGƯỜI PARIS

Mùa hè đến.

Khi cơ thể họ đã kết thúc cái việc tẩy sạch những khoảng hở trên cửa, thì linh hồn của họ trỗi dậy. Móng tay họ đã cào cấu vào gỗ và trong một vài trường hợp là đã bị đóng đinh vào đó bởi cái sức mạnh của sự tuyệt vọng, và linh hồn của họ tìm đến với tôi, trong tay tôi. Chúng tôi trèo ra khỏi những căn phòng tắm đó, lên đến mái nhà và lên cao nữa, vào cái bề rộng vĩnh cửu ấy. Họ liên tục nuôi dưỡng tôi. Hết phút này sang phút khác. Hết buổi tắm này sang buổi tắm khác.

Tôi sẽ không bao giờ quên ngày đầu tiên ở Auschwitz, lần đầu tiên ở Mauthausen. Ở nơi đó, khi thời gian trôi đi, tôi cũng nhặt họ lên từ dưới đáy vực thẳm, khi những cuộc tẩu thoát của họ thất bại một cách thảm hại. Có những thân người vỡ nát và những xác chết, những người yêu dấu. Dù vậy, vẫn còn tốt hơn những người chết vì hơi ngạt.

Tôi đã bắt được vài người khi họ mới rơi xuống được nửa chừng. Anh đã được cứu, tôi nghĩ thế, tay giữ linh hồn họ lơ lửng giữa không trung khi phần còn lại của con người họ - vỏ bọc thể xác của họ - lao thẳng xuống mặt đất. Tất cả bọn họ đều nhẹ, như những cái vỏ bọc rỗng của quả cây óc chó. Ở nhữngnơi đó có bầu trời đầy khói. Mùi của nó như cái lòbếp, nhưng vẫn rất lạnh.

Nhớ lại, tôi vẫn còn run rẩy - khi tôi cố gắng xóa nó ra khỏi nhận thức của mình.

Tôi thổi những luồng khí ấm vào lòng bàn tay mình, để làm họ ấm lên.

Nhưng thật khó để giữ ấm cho họ khi những linh hồn vẫn còn run rẩy.

“Lạy Chúa.”

Tôi luôn nói cái tên đó ra khi tôi nghĩ về điều này.

“Lạy Chúa.”

Tôi nói cái tên ấy lần thứ hai.

Tôi nói tên Người ra trong một cố gắng vô ích để thấu hiểu mọi sự. “Nhưng việc của anh không phải là thấu hiểu.” Tôi luôn là người trả lời cho chính mình. Chúa không bao giờ nói điều gì cả. Bạn nghĩ bạn là người duy nhất mà ông ta không bao giờ đáp lại ư? “Việc của anh là...” và tôi không lắng nghe mình nói nữa, vì nếu nói huỵch toẹt ra, thì tôi đã ngấy bản thân mình đến tận cổ rồi. Khi bắt đầu suy nghĩ như thế, tôi rất mệt mỏi, và tôi không có quyền hoang phí sức lực của mình. Tôi buộc phải tiếp tục, bởi vì mặc dù điều này không đúng với từng con người trên trái đất này, thì nó vẫn đúng với đa số - rằng thần chết không chờ đợi ai cả - và nếu lão ta có chờ đợi đi nữa, thì thường là lão ta không chờ được lâu.

Vào ngày 23 tháng Sáu năm 1942, có một nhóm những người Pháp gốc Do Thái trong một nhà tù Đức, trên đất Ba Lan. Người đầu tiên mà tôi sẽ rước đi đang ở gần chỗ cánh cửa, tâm trí anh đang phi nước đại, sau đó giảm tốc độ xuống còn phi nước kiệu, sau đó chậm dần, chậm dần...

Làm ơn hãy tin tôi khi tôi nói với bạn rằng tôi đã nhặt từng linh hồn lên ngày hôm đó như thể nó vừa mới ra đời. Thậm chí tôi còn hôn lên vài gò má đã bị nhiễm độc, úa tàn. Tôi lắng nghe những tiếng khóc hổn hển cuối cùng của họ. Những từ tiếng Pháp của họ. Tôi nhìn những ảo ảnh về tình yêu của họ và giải thoát họ khỏi nỗi sợ hãi của mình.

Tôi mang tất cả đi, và nếu có lúc nào tôi cần phải xao lãng, thì đấy chính là lúc này. Trong sự cô độc hoàn toàn, tôi nhìn thế giới trên đầu mình. Tôi quan sát bầu trời khi nó chuyển từ màu bạc sang màu xám, rồi sang màu của mưa. Thậm chí những đám mây cũng cố gắng để trông khác đi.

Đôi khi, tôi tưởng tượng ra mọi thứ sẽ trông như thế nào bên trên những đám mây ấy, biết ngay mà không chút thắc mắc rằng mặt trời có màu vàng chói của tóc, và bầu không khí vô cùng vô tận là một con mắt màu xanh khổng lồ.

Họ là người Pháp, họ là người Do Thái, và họ là chính bạn.