ai giờ 15 phút sáng thứ sáu.
Con đường từ cảng Baltic của Frederikshavn tới Skagen bị bỏ từ lâu và ít người qua lại. Gabriel ngồi khom mình trên vô lăng, lái xe hết đoạn này đến đoạn khác, đi ngang qua các thị trấn dọc theo các con đường phủ tuyết. Những cái tên của chúng là sự kết hợp của những phụ âm lạ lùng và thậm chí ngay cả Gabriel – người nói tiếng Đức như tiếng mẹ đẻ - cũng không thể hiểu được. Tiếng Đan Mạch không phải là một ngôn gnữ. Gabriel đắm mình vào suy nghĩ, tiếng Đan Mạch chỉ là những âm thanh cọ sát trong cổ họng. Sau khi rời khỏi thị trấn Alback, hình ảnh những cồn cát có vẻ như đang dần hiện ra trước mắt họ … Khu nghỉ mát mùa hè của thị trấn Kandestederne nằm cuối phía bắc của khu đất hoang dần hiện ra phía trước. Sau khi Gabriel quay đầu xe, anh phát hiện ra vết bánh xe trên tuyết. Anh ngờ ngợ đây là chiếc xe được dùng tại nghĩa trang đêm trước ở Lindholm.
Họ đi qua vài khu nông trại nhỏ, sau đó gặp phải vài cồn cát khác – lần này là những cồn cát lớn như những cái chân đồi. Gabriel thoáng thấy vài cái chòi xung quanh. Nơi đây không có đèn, cũng không có một bóng xe, hay bất kỳ dấu hiệu nào của sự sống.
Dấu bánh xe hướng về phía bên phải, đi vào một con đường nhỏ và mất dạng trong màn tuyết rơi. Gabriel tiếp tục đi thẳng và sau đó ngừng lại một lúc trong một bãi đổ xe nhỏ nhìn ra biển, cạnh đó là một quán cà phê được đóng bằng ván. Anh nghĩ tốt hơn hết là nên tắt máy. “Chờ ở đây”. Anh nói. “Sau khi tôi xuống xe thì khoá cửa lại. Không được mở cửa cho bất kỳ ai ngoại trừ tôi”.
Gabriel cầm theo một khẩu súng lục và một cây đèn pin rồi đi vào quán cà phê. Xung quanh đó có rất nhiều dấu giày còn mới và dính cát, ít nhất là của hai người hoặc có thể của nhiều hơn nữa. Một trong số đó dẫn thẳng xuống biển. Chúng giống hệt những dấu giày Gabriel thấy ở Lindholm. Đó là dấu giày của phụ nữ.
Anh quay lại liếc nhìn chiếc Audi rồi đi theo dấu chân hướng ra biển. Chúng biến mất ngay tại vũng nước đông đá. Anh nhìn mọi phía nhưng không thấy gì khả nghi nên quay trở về xe. Khi đi đến gần chiếc Audi của mình, Gabriel thấy Ibrahim đang ngồi trong xe, hơi ngả người về phía trước, nhấn vào đồng hồ một cách lúng túng. Anh nhìn thấy những dấu giày mới xung quanh xe. Đột nhiên kính cửa sổ hạ xuống và một bàn tay đeo găng thò ra từ bên trong ra hiệu cho anh đi tới. Gabriel lưỡng lự một hồi rồi làm theo. Trong khi bước đến, anh nhận biết được đó là dấu giày thể thao cỡ 6 của hãng Adidas hoặc Nike. Đó là giày nữ.
Anh đã nhầm về hãng giày. Chúng được hãng Puma sản xuất. Người phụ nữ mang chúng không quá 25 tuổi. Cô ta mặc một chiếc áo khoác xanh nước biển kiểu hải quân và đội mũ len, chiếc mũ được kéo xuống để che đôi mắt đen huyền. Người phụ nữ bịt mặt này ngồi ngay bên cạnh Ibrahim và chĩa một khẩu Makarov vào sườn ông. Tay cô run lên vì lạnh.
“Tại sao cô không chĩa súng xuống dưới trước khi làm cho người khác bị thương?”, Gabriel nói.
“Câm mồm và đặt tay lên vô lăng”.
Cô ả nói một cách điềm tĩnh. Gabriel làm theo những gì được bảo.
“Ishaq đâu?”.
“Ishaq nào?”.
“Đừng đùa nữa. Đêm nay dài và lạnh lắm”, Gabriel nhìn ả từ gương chiếu hậu. “Chỉ cần nói nơi có thể tìm thấy Elizabeth, chúng tôi sẽ đi ngay”.
“Mày là người Do Thái, đúng không? Mày chính là thằng khốn Do Thái đã giết những đồng đội của bọn tao ở Hyde Park?”.
“Không, tôi là thằng khốn người Mỹ”.
“Một thằng khốn người Mỹ nói tiếng Arập khá đấy”.
“Cha tôi là một nhà ngoại giao và tôi lớn lên ở Beirut”.
“Thật sao? Vậy thì nói chuyện với tao bằng tiếng Anh đi, thằng chó Mỹ”.
Gabriel do dự. Người phụ nữ che mặt chĩa súng vào đầu Ibrahim.
Ả chĩa mũi súng vào Gabriel và nói. “Tao nên giết mày ngay bây giờ. Nhưng mày may đấy. Mày sẽ không chết đêm nay. Có những kẻ khác sẵn sàng chết để giết mày”.
“May cho tôi làm sao”
Ả dùng cáng súng đập vào đầu Gabriel mạnh đến nỗi khiến anh choáng váng. Khi anh chưa kịp phản ứng lại thì ả đập thêm một cái mạnh hơn và bắt anh đặt hai tay trở lại vô lăng. Ngay sau đó, anh thấy có một dòng chảy âm ấm ở sau gáy mình.
“Cô hài lòng chứ?”.
“Ừ”.
“Hãy kết thúc gọn vụ này, được chứ?”.
“Quay đầu xe lại”, ả nói. “Chậm thôi”.
Gabriel nhấn ga sang số ba rồi từ từ đi vào sâu bên trong.
“Rẽ trái ngay ở những cồn cát”, người phụ nữ che mặt nói. “Rồi đi theo dấu xe trên đó”.
Gabriel làm theo những gì ả nói. Con đường đó chỉ đủ rộng cho một chiếc xe và nó dẫn thẳng đến những cái chòi trên cồn cát. Đó là những cái chòi nhỏ được đóng bằng gỗ và bị bỏ hoang vào mùa đông. Vài cái được sơn màu vàng Skagen, và những cái khác lại có cỏ mọc trên nóc nhà một cách kỳ lạ. Gabriel lần theo ánh đèn ở bãi đổ xe. Máu càng lúc càng chảy thấm ướt cổ áo anh.
Gabriel theo những vết xe đến một ngọn đồi nhỏ và nhìn thấy một cái gò nhỏ ở phía bên kia. Để khỏi bị đâm sầm vào tuyết, anh phải nhấn ga và tiếng lách cách vang lên rất lớn. Anh lại chạy lên ngọn đồi tiếp theo, vòng về bên trái, lướt xuống lối vào một cái chòi xa nhất. Một chiếc xe tải vận chuyển màu bạc của hãng LDV Maxus đỗ ngay bên ngoài. Gabriel dừng xe lại và nhìn lên gương chiếu hậu chờ lệnh. Người phụ nữ chĩa nòng khẩu Makarov vào lưng Ibrahim và bảo ông ta mở cửa xe. Khi Gabriel định mở cửa thì lại bị nện thêm một cú vào đầu.
“Mày ở lại trong xe!”, ả la lên cộc cằn. “Chúng tao sẽ trả người phụ nữ đó cho Ibrahim chứ không phải mày, đồ chó Do Thái”.
Ibrahim tháo dây an toàn và mở cửa.
Đèn ở phía trên đột nhiên sáng lên. Gabriel níu lấy tay Ibrahim và nói.
“Đừng đi. Hãy ở lại đây”.
Ibrahim nhìn anh đầy ngờ vực. “Anh đang nói gì thế, anh bạn? Chúng ta đi đến đây vì mục đích này mà”.
“Đó chỉ là một trò chơi để kéo dài thời gian. Con gái của ngài đại sứ không có ở đây. Con trai ông định lừa ông đến đây để giết ông đấy”.
“Tại sao con trai tôi lại muốn giết cha của nó?”.
“Bởi vì ông đã phản bội lại hắn để về phe người Cơ Đốc và người Do Thái”, Gabriel nói. “Bởi vì hắn là một kẻ cuồng đạo Hồi và trong mắt hắn, ông giờ đây là một kẻ phản đạo đáng chết. Ông không bằng một người Cơ Đốc hay một người Do Thái – là vì ông đã từ bỏ cuộc chiến thần thánh chống lại những kẻ báng bổ đạo Hồi. Người đàn bà này mang ông vào trong để giết ông đấy, Ibrahim. Đừng đi với ả”.
“Con trai tôi không bao giờ làm hại tôi đâu”.
“Hắn không còn là con của ông nữa”.
Ibrahim cười và gỡ tay Gabriel ra khỏi tay mình. “Anh phải biết tin tưởng chứ, anh bạn. Hãy để tôi đi và tôi sẽ mang cô gái ấy ra như những gì tôi đã hứa với anh”.
Gabriel thấy nòng súng của khẩu Makarov kê vào sau gáy mình. “Hãy nghe theo ông Ibrahim, đồ chó Do Thái. Ông ấy nói đúng sự thật đấy. Bọn tao không giết bố mẹ của mình. Chỉ có mày mới là kẻ sát nhân, chứ không phải bọn tao. Để ông ấy mang cô gái ra và mày có thể đi”.
Ibrahim bước ra khỏi xe và đi về căn nhà trước khi Gabriel kịp ngăn ông lại. Người phụ nữ che mặt chờ đến khi Ibrahim đi cách vài dặm mới bắt đầu nhấc súng ra khỏi đầu Gabriel và đi theo sau ông. Khi họ tiến tới gần lối vào, một người đàn ông xuất hiện ngay cửa. Trong màn đêm tuyết rơi dày đặc, Gabriel chỉ nhìn thoáng thấy mái tóc của người đàn ông đó – nó có màu bạch kim. Hắn chào Ibrahim một cách trịnh trọng, hôn lên hai má và kính cẩn hôn lên tay ông rồi dẫn Ibrahim vào bên trong. Ngay sau đó, khi người phụ nữ vừa đóng cửa lại thì căn nhà nổ tan tành ngay trước mặt Gabriel.