hứ ba, 5 giờ 30 phút chiều.
Vì không có thời gian để sắp xếp chỗ ở an toàn cho đội của Gabriel ở Copenhagen, họ đã nghỉ tại khách sạn D’Anglerterr, một khách sạn nổi tiếng khổng lồ, sang trọng thấp thoáng trên quảng trường King’s New. Chẳng bao lâu sau 5 giờ 30, Gabriel và Sarah đã đến nơi và đi thẳng lên một phòng ở tầng bốn. Trong khi đó Mordecai ngồi tại bàn làm việc, chân đi tất, tai nghe phôn, còn cặp mắt thì dán vào bộ đàm như một vị bác sĩ đang đọc máy quét điện não tìm dấu hiệu sự sống. Gabriel bước vào phòng, chụp tai nghe vào, rồi nhìn Mordecai với vẻ mặt nhăn nhó.
“Nghe như có thằng cha nào đang đóng cọc móng nhà trong phòng vậy”.
“Ừ, tên thằng bé là Ahmed. Nó đang đập mạnh thứ đồ chơi nào đó xuống sàn nhà ở ngay gần điện thoại”, Mordecai nói.
“Sự việc diễn ra trong bao lâu rồi?”.
“Được một tiếng đồng hồ rồi”.
“Tại sao cô ấy không bảo nó dừng lại nhỉ?”.
“Có lẽ cô ấy bị điếc. Thề có Chúa là tôi cũng sẽ bị điếc nếu thằng nhóc ấy không ngừng ngay lại”.
“Có cuộc điện thoại nào diễn ra không?”.
“Chỉ có một cuộc điện thoại gọi ra ngoài thôi. Cô ấy gọi cho Ibrahim ở Amsterdam để phàn nàn về việc Ishad vắng mặt liên tục. Cô ấy không hề biết gì cả trừ phi đây là một mưu kế quá tinh vi”.
Gabriel xem đồng hồ. Đã 5 giờ 37 phút rồi. Anh thầm nghĩ về cuộc đời của một điệp viên. Phút giây chán chường bị phá vỡ bởi một nỗi sợ hãi. Anh đeo nhanh tai nghe vào và chờ tiếng chuông điện thoại của Hanifah.
Họ phải chịu đựng sự im lặng tang tóc thật khó chịu của những người lạ mặt cùng nhau trải qua một buổi chiều vô vị đến đáng sợ. Chỉ có tiếng Ahmed ném mạnh đồ chơi của mình xuống sàn nhà bếp. Rồi tiếng nó giả vờ làm một chiếc máy bay phản lực. Và tiếng nó đá một quả bóng vào tường phòng khách. Vào lúc 8 giờ 15 phút, có một âm thanh ré lên inh tai. Mặc dù họ không thể nào xác định được chính xác sự việc diễn ra như thế nào nhưng họ biết nó cũng đủ làm cho Hanifah điên tiết chửi rủa. Đáp lại sự tức giận của Hanifah, thằng bé hỏi mẹ với giọng đầy hối hận rằng liệu cha nó sẽ gọi vào đêm nay không. Gabriel bước chậm rãi trên sàn nhà như thể đang tìm kiếm những đồ vật quý giá bị mất, rồi đứng yên và chờ câu trả lời. Cha con sẽ gọi ngay khi có thể, Hanifah nói. Ibrahim đã luôn nói sự thật.
8 giờ 20 phút, Ahmed bị bắt đi tắm. Hanifah dọn dẹp lại mớ hỗn độn ở phòng khách, sau đó mở tivi. Cô ta xem ngay kênh đang chiếu về Al-Manar, mạng truyền hình chính thức của Hezbollah. 20 phút sau, trong khi Ahmed bắn tung toé nước trong bồn tắm, họ buộc phải ngồi nghe buổi thuyết giảng của tu sĩ người Libăng, ông ta đang ca tụng sự dũng cảm của Tổ chức Thanh kiếm Allah và kêu gọi thêm nhiều hành động khủng bố để chống lại những người Mỹ vô đạo và những người theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái.
Vào lúc 8 giờ 43 phút, bài thuyết giảng bị cắt ngang bởi một tiếng reo của chuông điện thoại. Hanifah nghe điện thoại ngay lập tức và nói bằng tiếng Arập. “Có phải là anh không, Ishaq?”.
Đó không phải là Ishaq mà là một người đàn ông Đan Mạch đang trong tâm trạng bối rối gọi đến tìm một người tên là Knud. Khi nghe giọng của một người phụ nữ nói tiếng Arập và những lời nguyền rủa của cô ta trong điện thoại, anh ta liên tục nói xin lỗi và vội vàng cúp máy. Hanifah gác điện thoại và bắt Ahmed ra khỏi phòng tắm. Người thuyết giáo Hezbollah hô lớn rằng đã đến lúc những tín đồ của Hồi giáo phải hoàn thành sứ mệnh mà Hitler đã bắt đầu.
Mordecai giận dữ nhìn Gabriel. “Cả hai chúng ta đều không cần trải qua chuyện quái quỉ này. Tại sao chúng ta không rời khỏi đây nhỉ?”, Mordecai nói.
“Tôi không muốn bỏ lỡ cuộc gọi của hắn”.
“Máy thu âm sẽ làm việc đó mà”, Mordecai đưa cho Gabriel áo khoác của anh và xô nhẹ anh ra cửa. “Đi kiếm cái gì đó ăn đi. Đưa Sarah đi cùng với. Anh và cô ấy là một cặp xứng đôi đó”.
Một ban nhạc bốn người đang chơi nhạc Bach ở phòng khách dưới lầu. Gabriel và Sarah đi ngang qua họ, không thềm liếc nhìn và đi thẳng tới quảng trường, hướng đến những quán cà phê dọc theo cảng New Harbor. Trời trở lạnh hơn, Sarah đội một chiếc mũ bê-rê, kéo cổ áo khoác lên. Khi Gabriel trêu chọc là cô giống y hệt một điệp viên, cô chụp tay anh và đẩy nhẹ người mình vào vai anh. Họ ngồi dọc theo bến cảng, uống bia Carlberg ướp lạnh, phía dưới là máy sưởi ấm bằng gas đang phát ra tiếng xì xì. Gabriel lấy một đĩa cá thu và khoai tây chiên, trong khi đó thì Sarah nhìn chăm chăm vào ánh đèn đầy màu sắc chiếu trên bề mặt của những ngôi nhà nằm bên bờ bên kia của kênh đào.
“Em cho là ở đây đẹp hơn Langley”.
“Bất cứ cái gì cũng đẹp hơn ở Langley”, Gabriel nói.
Sarah ngước nhìn lên bầu trời tối mịt. “Em nghĩ là số phận của anh giờ đây đang nằm trong tay của NSA và những vệ tinh của họ”.
“Em cũng thế đấy, Sarah ạ”, Gabriel nói. “Nếu khôn ngoan thì em nên đi Luân Đôn với Adrian”.
“Và bỏ lỡ chuyện này sao?”, Sarah nhìn về phía những ngôi nhà ở bên kia kênh đào. “Nếu hắn gọi vào đêm nay thì anh có nghĩ là chúng ta sẽ tìm được cô ấy không?”.
“Nó còn tuỳ thuộc vào NSA xác định được địa bàn của Ishaq như thế nào nữa. Thậm chí nếu NSA có thể xác định được địa điểm của Elizabeth thì Washington cũng sẽ gặp vấn đề khác – làm thế nào để đưa cô ấy sống sót trở vê. Ishaq và đồng bọn của hắn luôn sẵn sàng chết, có nghĩa là bất cứ hành động nào đánh ập vào chỗ trú ẩn của bọn chúng thì cũng sẽ kết thúc bằng vũ lực. Nhưng anh chắc ý kiến của chuyên gia là phải vạch ra một kế hoạch nào đó”.
“Đừng có đóng vai kẻ tử vì đạo bị tổn thương như vậy nữa. Nó không hợp với anh đâu, Gabriel à”.
“Anh không quan tâm đến những gì mà họ đã nói về anh ở Washington ngày hôm nay”.
“Washington là một thành phố không có tình thương”.
“Jerusalem cũng thế”.
“Rồi anh cũng phải cần đến bộ mặt lạnh lùng hơn khi anh trở thành người đứng đầu của Văn phòng”. Cô liếc nhìn anh một cách tinh nghịch qua cổ áo. “Adrian nói nó chỉ là một lời đồn đại thôi, nhưng đánh giá từ phản ứng của anh cho thấy đó là sự thật”. Sarah nâng ly lên và nói. “Mazelton”.
“Sự cảm thông sẽ được đánh giá cao hơn”.
“Anh không thích công việc này à?”.
“Nhiều người luôn có ước mơ vĩ đại thôi thúc bên trong”.
“Anh đang rất cao hứng đấy”.
“Tha lỗi cho anh, Sarah. Cuộc nói chuyện về sự diệt chủng và huỷ diệt sẽ làm hỏng buổi chiều của anh mất”.
“Ồ, đúng đấy”.
Sarah nhấm nháp ly bia của mình và rùng mình vì lạnh.
“Anh biết đấy, nhà hàng này có khu vực riêng ở phía trong”.
“Ừ, nhưng thật khó cho anh để nói rằng liệu chúng ta có bị theo dõi hay không”.
“Chúng ta bị theo dõi ư?”.
“Em đã được huấn luyện trong việc này rồi mà, em thử nói anh nghe xem”.
“Khi chúng ta rời khách sạn có một người đàn ông đang uống ở quầy rượu”, Sarah nói. “Và bây giờ ông ta đang đứng bên kia con kênh với một người phụ nữ già hơn ông ấy ít nhất 15 tuổi”.
“Liệu ông ta có phải là an ninh của Đan Mạch không?”.
“Ông ta nói tiếng Đức ở quầy rượu”.
“Vậy thì sao?”.
Sarah lắc đầu. “Không, em nghĩ ông ta không phải là an ninh Đan Mạch. Còn anh nghĩ thế nào?”.
“Anh nghĩ hắn là một gã trai bao người Đức, sẽ lừa hết từng đồng tiền của người đàn bà tội nghiệp đó”.
“Chúng ta có nên cảnh báo bà ấy không?”.
“Anh thấy đêm nay chúng ta có nhiều chuyện để bận tâm rồi”.
“Lúc nào anh cũng có được cuộc hẹn hò thú vị như lúc này sao?”.
“Anh đã không nhận ra đây là một cuộc hẹn hò”.
“Đây gần như là một cuộc hẹn hò mà lâu rồi em mới có được”.
Gabriel nhìn cô với ánh mắt kinh ngạc và bỏ một miếng cá vào miệng mình. “Em có thật sự mong anh tin rằng em gặp khó khăn trong việc hấp dẫn đàn ông?”.
“Có lẽ anh đã quên mất rằng ngay lúc này đây em phải sống với việc che giấu tung tích và giữ vai trò trong hoạt động Al-Bakari. Chính vì vậy em khó mà tiếp xúc được với đàn ông. Thậm chí những cộng sự ở CTC cũng không biết tên thật hoặc bất kỳ điều gì về quá khứ của em. Em nghĩ rằng như vậy là hay nhất. Nhưng dù cho em có gặp bất kỳ ai vào thời điểm này thì người ấy cũng không có cơ hội đến với em. Vì em e rằng trái tim của em đã bị người khác giữ mất rồi”. Sarah ngắm nhìn Gabriel thật kỹ qua cái ly trước mặt mình. “Bây giờ là lúc anh nên hỏi tên người đàn ông đã đánh cắp trái tim em”.
“Có những câu hỏi tốt hơn hết là không nên hỏi, Sarah à”.
“Gabriel à, anh thật là cứng nhắc”. Cô uống một ngụm bia và tiếp tục nhìn về phía những ngôi nhà bên kia con kênh. “Nhưng trái tim anh đã thuộc về người khác rồi phải không?”.
“Hãy tin anh, Sarah. Em có thể làm tốt hơn là tìm kẻ hận đời đến từ thung lũng Jezreel”.
“Em luôn luôn bị hấp dẫn bởi những người đàn ông hận đời, đặc biệt là những người có tài. Nhưng em e rằng sự chọn lựa của em lúc nào cũng tệ hại. Đó là lý do tại sao em học nghệ thuật thay vì nên học âm nhạc”.
Cô nhìn anh cười buồn vui lẫn lộn. “Đó có phải là Chiara không?”.
Gabriel gật đầu một cách chậm rãi.
“Em biết mà”, Sarah nói. “Cô ấy thật may mắn”.
“Anh cũng thấy mình may mắn”.
“Anh có biết là cô ấy quá trẻ so với anh không?”.
“Nhưng cô ấy lớn hơn em đấy, dù sao cũng cám ơn em vì đã nhắc nhở anh”.
“Nếu có khi nào cô ấy bỏ anh để theo một gã trẻ hơn…”, giọng cô nhỏ dần. “À, anh biết tìm em ở đâu mà. Em sẽ làm công việc quản lý bảo tàng trực đêm ở tổ chuyên trách về Arập của trung tâm chống khủng bố”.
Gabriel đưa tay sờ mặt Sarah. Cái lạnh đã làm đôi má của cô thêm hồng.
“Anh xin lỗi”.
“Vì cái gì?”.
“Bọn anh không nên lợi dụng em, mà nên tìm người khác”.
“Không có ai giống như em đâu. Nhưng em đoán là anh biết điều đó mà”.
Một đoàn du lịch người Trung Quốc, đi du lịch châu Âu mà như thể đi xâm chiếm đất, đang chụp ảnh ở ngay giữa quảng trường King’s New. Gabriel khoác tay Sarah và đưa cô đi một vòng, trong khi đó anh cũng cảm thấy thú vị với sự mỉa mai của một dân tộc thể hiện trên mái vòm nơi linh thiêng của một văn minh vào lúc chạng vạng tối. Họ đi vào hành lang của D’Angleterre dưới cái nhìn đầy ngưỡng mộ của người giữ cửa và đi lên cầu thang dẫn đến Pachelbel’s Canon. Mordecai đang bước đều với vẻ lo lắng khi hai người bước vào phòng. Anh ta dúi cặp tai nghe vào tay Gabriel và để anh nghe máy thu âm. “Hắn đã gọi đến”, Mordecai thì thầm. “Hắn đã gọi đến rồi, vậy là chúng ta tóm được hắn được rồi. Gabriel, anh đã thành công”.