Shala nhìn Sky quay người và đổ trứng vào chảo. Mắt cô đưa xuống mông anh, và cô nhớ lại nó trông thế nào khi chỉ có mỗi khố bên ngoài. “Nó ở đâu?” Cô hỏi, quyết tâm không nghĩ về các bộ phận cơ thể anh nữa.
Anh ngó qua vai. “Cái gì ở đâu?”
“Máy ảnh của tôi.”
“Nó được an toàn,” anh nói, và lấy một cái bàn xẻng ra khỏi ngăn kéo.
“Anh nhận ra chuyện này lố bịch đến thế nào chứ.”
Anh quay người. “Sao cô không nướng ít bánh mì cho chúng ta? Máy nướng bánh ở trên kệ bếp.” Anh ra hiệu bằng bàn xẻng. “Bánh mì trên giá.”
Shala nhắm mắt, kìm lại khát vọng muốn hét ầm lên. “Anh hẳn cũng nhận ra là, khi thị trưởng quay lại thị trấn ông ấy sẽ xé xác anh vì chuyện này.”
“Phải, tôi biết điều đó,” anh nói.
“Và ông ấy sẽ bắt anh đưa máy ảnh lại cho tôi.”
“Điều đó thì tôi không biết.” Anh lại ra dấu về giá đựng đồ. “Tôi đang làm trứng. Cô có thể nướng bánh chứ.”
Cô đứng đó nhìn anh trừng trừng, cố quyết định xem mình nên (a) nổi khùng lên với anh, (b) hầm hầm lao ra khỏi nhà anh, hay (c) cố nói lý lẽ với anh. Có lẽ vì cô ngửi được mùi trứng và dạ dày cô đã chán ngấy việc mút xương sống, cô chọn (c). Và có lẽ dù rất điên tiết, nhưng cô cũng đã chấp nhận sự thật: cô có hơi sai. Khi cô cầm máy ảnh của mình vào buổi lễ, cô đã phá luật. Cô chỉ cần khiến anh phá lệ cho tình huống này… và có khi còn thuyết phục anh rằng luật lệ đó cần phải bị xử trảm.
Việc khiến cho thị trấn thêm thân thiện với du khách không phải là một phần công việc của cô sao? Kết bạn với cảnh sát trưởng của thị trấn sẽ rất có ích. Nhưng để làm công việc cô được phái xuống làm, cô cần máy ảnh của mình. Chắc chắn anh có thể hiểu điều đó – hoặc anh sẽ hiểu điều đó một khi cả hai cùng bình tĩnh lại và cô khiến anh hiểu rõ lý lẽ.
Tìm một ổ bánh mì, cô nhét nó vào máy nướng. Mùi thơm làm cô chảy cả dãi, và dạ dày cô sôi sùng sục. Cô nhìn Sky, hy vọng anh không nghe thấy. Anh cười toe toét, khỉ thật.
“Cô thích pho mát, thịt hun khói, và nấm, đúng không?”
“Ừ.”
Anh rút ra một cái thớt và bắt đầu thái. Anh chàng này rất thạo làm bếp. Cô chưa bao giờ biết một người đàn ông có thể hay chịu thú nhận giỏi nội trợ đến thế, đặc biệt là một người nam tính rạng ngời thế kia. Có lẽ đó là lý do anh ta có thể làm điều đấy. Nó chắc chắn không ảnh hưởng gì tới hình ảnh đàn ông của anh ta.
Cô nhìn cách các cơ bắp của anh di động dưới áo sơ mi khi anh băm, rồi dời mắt tới mái tóc đen thẳng dừng trên cổ áo anh. “Anh đã cắt tóc, hay đã đội tóc giả vậy?”
“Nó là một phần của mũ lông,” anh trả lời. “Đĩa trong tủ bát ấy.” Anh chỉ bằng con dao.
Cô mở cửa tủ bát và nhìn hàng đĩa ăn. Giá trên cùng. Cô phải kiễng chân lên để với lấy chúng.
“Được rồi. Để tôi.” Anh bước tới sau cô. “Tôi không nhận ra cô lại lùn đến thế.”
“Tôi không lùn.” Cảm nhận được anh áp vào cô, cô nhìn thẳng vào tủ bát.
“Được rồi, bé nhỏ. Tôi không hề có ý sỉ nhục đâu.” Lời anh ve vuốt sau tai phải của cô, hơi thở nóng ấm phả vào da thịt mềm mại của cô. Anh không hề với tay lấy đĩa.
“Tôi cao một mét sáu. Thế không phải là bé nhỏ,” cô nói, gần như sợ cử động. So với anh sau lưng, cao gần một mét chín, cô cũng cảm thấy mình bé nhỏ… và nữ tính.
“Tôi đang gặp phải hội chứng Napoleon à?” Anh cười khẽ.
“Không phải.” Được rồi, có lẽ hơi hơi thôi, cô thú nhận với bản thân. Cô luôn khao khát vó thêm vài phân chiều cao.
Chống lại cảm giác nhục dục do sự gần gũi của họ gây ra, cô cân nhắc nên bước theo hướng nào để tránh tiếp xúc cơ thể. Rồi ngực anh áp vào vai cô khi anh với lấy đĩa. Hơi ấm từ cơ thể anh xâm chiếm không gian của cô. Cô nín thở, và mùi hương sạch sẽ dễ chịu của anh chọc vào mũi và khiến cô ước rằng mình đã có cơ hội tắm rửa. Chất khử mùi của cô cũng chưa hết tác dụng, nhưng đứng gần thế này khiến cô muốn mình… tươi mát.
Đó là lúc sự ngớ ngẩn của cái tình huống khỉ gió này đập trọn vào mặt cô. Cô đến để lấy lại máy ảnh, không phải để anh ta nấu bữa tối cho cô và chơi trò gia đình. Cô đang làm cái gì thế?
Redfoot với lấy cửa. Khóa đã bị phá. Ông đi vào trụ sở và di chuyển im lặng hết mức có thể trong bóng tối. Hương hoa hồng tràn vào mũi ông. Maria, người làm kế toán cho hội đồng bộ lạc, luôn đốt nến thơm ở bàn của cô. Ông có thể thấy đèn pin di chuyển ngang dọc trên sàn phòng kế bên.
Có phải là một trong những đứa trẻ khó bảo không? Có lẽ là người trong bộ lạc của ông. Trong thời buổi kinh tế khó khăn, con người hay trở nên tuyệt vọng. Tuyệt vọng khiến con người ta làm việc xấu, và lúc ấy mắt Redfoot nhìn thẳng vào két an toàn sau bàn. Một chiếc két an toàn nhìn thấy rõ rành rành. Trông có vẻ nguyên vẹn. Tên trộm đang tìm thứ gì, nếu không phải tiền?
Rút con dao khắc gỗ ra khỏi túi, Redfoot bước thêm một bước. Một tấm gỗ sàn lỏng kêu cọt kẹt. Di chuyển, ông va vào một cái ghế gỗ. Ông tóm được nó, nhưng sách trên ghế đổ xuống sàn. Tia sáng ở phòng kế bên tắt phụt đi. Tên trộm đã nghe thấy.
Nắm tay cầm vũ khí của Redfoot siết chặt. Ông hy vọng kẻ đột nhập là một người cùng tộc với ông, một người ông có thể thuyết phục bỏ đi, không lấy đi thứ gì, không gây tổn hại gì. Nhưng khi đứng thẳng người, chuẩn bị phòng ngự, ông cảm nhận rõ sáu mươi năm tuổi tác của mình.
Kẻ đột nhập lao về phía ông. Redfoot nâng dao lên và nhìn chằm chằm. Tên đàn ông đó đeo mặt nạ trượt tuyết. Cơ thể vạm vỡ của hắn ta có vẻ lạ lẫm, nhưng vì vài lý do kỳ cục nào đó Redfoot lại nhớ đến giấc mơ về con chó bun của mình. Hắn ta di chuyển, và Redfoot nhận thấy làn da trắng bệch ở nơi giao nhau giữa mặt nạ và cổ áo của kẻ đột nhập. Đây không phải người của bộ tộc ông.
Tay hắn ta di chuyển, và Redfoot nhận ra sai lầm của mình: đừng bao giờ mang dao ra chọi với súng. Ông nhớ lại giấc mơ và cảnh máu đổ. Điều ông không nhận ra đêm qua đó là, máu chảy ra có cả máu của chính ông nữa.