I Do (Tình Yêu Đích Thực)

Chương 15

Đó! Bài viết thứ hai đã xong. Save lại rồi exit. Giờ tôi đã có hai phiên bản của trận đấu ngày hôm qua, được viết bởi Dr. Jekyll và Ngài Hyde. Tôi liếc nhìn đồng hồ: mới có 3h. Trước khi thử trộn lẫn hai phối cảnh khác nhau lại thành một bài phân tích công bằng, tôi sẽ tự thưởng cho mình một chút giải lao xứng đáng.

Tôi ra ngoài và ném bóng rổ. Ông ngoại đang có hẹn với bác sĩ, mẹ thì đi làm, còn lũ trẻ trong khu dân cư nhà tôi vẫn đang còn ở trường. Không khí thật yên bình ở ngõ sau, không có gì cả ngoài âm thanh líu lo của bọn chim chóc và tiếng bóng đập bình bịch trên sàn bê tông, cùng với tiếng bang và vút thân thiện khi nó lọt qua rổ.

Tôi ném hỏng một quả và quả bóng nảy vào trong sân nhà bà Bean, lăn xuống dưới khóm cây đầu xuân. Tôi đuổi theo vào trong sân, rồi quỳ xuống để lấy lại nó từ bên dưới bụi cây.

“Big Mama!”

Từ phía cành cây phía xa con mèo nhìn tôi chằm chằm với đôi mắt to lờ đờ. Nó đang nằm nghiêng sang một bên, móng vuốt chân trước đang rỉ máu, và còn nhiều máu hơn nữa ở nửa thân sau. Đuôi nó là một đống hỗn độn đen xì, ướt nhẹp. Trông nó như thể đã bị một con gì đó khác tấn công, đuổi và cắn vài nhát. Đầu nó lắc lư khi nó cố ngẩng lên. Nó nhìn tôi một cách bất lực, rồi lại gục cằm xuống đất trở lại.

Hoảng sợ, tôi chạy đến cửa nhà bà Bean và nện thình thình vào cánh cửa, hi vọng là bà có ở nhà, hi vọng bà có thể giúp đưa Mama đến phòng khám thú y. Tôi bấm chuông cửa, rồi gào lên qua cửa sổ. Không có ai trả lời. Huấn luyện viên thì đang trong giờ tập và văn phòng trường thì đã đóng cửa. Marnie lúc này cũng đang ở trên sân bóng. Tôi chạy về nhà và gọi Stacy. Tôi hẳn đã không thể nói rõ ràng mạch lạc, nhưng bằng cách nào đó chị cũng hiểu ra được tôi đang nói cái gì.

Tôi quay lại chỗ bụi cây, dịu dàng nói chuyện với Big Mama khi chiếc Saturn chạy như bay vào khu ngõ. Stacy đã nghĩ đến chuyện mang theo một cái chăn nhẹ, một món quà trưng bày vẫn đang còn nằm trong hộp quà bằng bạc. Chúng tôi luồn chăn xuống bên dưới Big Mama nhẹ nhàng nhất có thể, rồi nhấc nó lên và đặt nó vào trong hộp.

“Nó có mất nhiều máu không?” Stacy hỏi.

“Em không biết. Mèo thì có bao nhiêu máu trong người chứ? Nó thở gấp lắm.”

“Có thể nó bị sốc.” Stacy nói. Chúng tôi nhẹ nhàng quấn chăn quanh con mèo để giữ ấm cho nó.

Tôi leo lên ghế sau với chiếc hộp đặt bên cạnh, cố gắng giữ nó cố định. Stacy vượt một cọc đèn đỏ và gần như tông một chiếc xe hai bánh vào trong bãi đỗ nhưng vẫn đưa được chúng tôi đến phòng khám thú y nguyên vẹn.

Chúng tôi đưa con mèo vào trong lối vào của tòa nhà nhanh nhất có thể mà không làm xóc cái hộp. Tôi đoán vẻ mặt của chúng tôi đã cho anh chàng ở bàn tiếp tân biết tất cả những gì anh ta cần biết. Anh ta đưa chúng tôi thẳng vào phòng khám. “Tôi sẽ gọi Dr. Grefe.” Anh ta nói.

Khi chúng tôi hạ cái hộp xuống bàn khám bệnh, Big Mama kêu meo meo rất đáng thương. Stacy luồn một ngón tay ra sau tai nó, cố gắng xoa dịu nó.

“Grizzly đâu?” Chị hỏi tôi.

“Đang luyện tập. Ở trường.”

“Tốt hơn hết chị nên đón anh ấy. Em ở lại đây nhé.”

Khi Stacy trên đường ra ngoài, Dr. Grefe bước vào. Ông ta là một người đàn ông to lớn với hàm râu quai nón và đôi mắt xanh da trời ấm áp. “Để xem chúng ta có gì ở đây nào,” ông ta nói, giọng nói bình tĩnh. “Tên con mèo của cháu là gì?”

“Big Mama.” Tôi ộp oạp.

“Big Mama,” ông ta thủ thỉ, “có vẻ như mày đã bị vướng vào một thứ gì đó bẩn thỉu, Big Mama.” Ông ta kiểm tra nó trong lúc miệng vẫn nói, rồi liếc lên nhìn tôi. “Cháu có biết hôm nay xảy ra chuyện gì không?”

Tôi lắc đầu. “Nó là con mèo của hàng xóm nhà cháu. Anh ấy không có nhà. Cháu tìm thấy nó dưới một bụi cây.”

Dr. Grefe kiểm tra cái đuôi bê bết máu. “Tôi cho rằng Big Mama đã vướng phải một con chó.”

Một trợ lý bước vào và ông ta đưa chỉ thị cho người phụ nữ trẻ đó. Với tôi thì ông nói, “Cháu ra ngoài chờ trong khi chúng tôi rửa sạch nó và kiểm tra kỹ hơn được không? Tôi sẽ gọi cháu nếu như chúng tôi cần cháu - hứa đấy.”

Tôi gật đầu và quay trở lại phòng chờ. Tôi không nhận ra tay tôi đã run rẩy tệ đến mức nào cho đến khi cầm lên một tờ tạp chí.

Khoảng 15 phút sau Huấn luyện viên và Stacy xuất hiện, mặt thầy trông xanh lét bên dưới vẻ dạn dày sương gió. Người ngồi ở bàn tiếp tân dẫn thầy vào gặp bác sĩ.

“Grizzly là một đống đổ nát.” Stacy nói với tôi. “Nếu như có điều gì xảy ra với Big Mama, anh ấy sẽ cần phải được gắn lại.”

“Nó không phải là mèo của em, thế mà em cũng đang cần phải gắn lại đây.” Tôi trả lời.

Chúng tôi ngồi im lặng bên nhau trên những chiếc ghế nhựa, cựa quậy một cách không thoải mái trong lúc chờ đợi. Những cái chuông trên cửa ra vào cứ rung lên mỗi lần một người chủ bước vào hoặc ra cùng với con vật cưng của mình. Đây là một nơi bận rộn với vài bác sĩ thú y, và sau một lát tôi không thèm bận tâm nhìn lên nữa. Thế rồi ai đó ngồi xuống bên cạnh tôi. Tay người đó ngập ngừng phía trên hai nắm tay cuộn lại của tôi, rồi chạm nhẹ vào tôi ở các đốt ngón tay.

“Mama thế nào rồi.” Adam hỏi.

“Bọn em vẫn chưa biết.” Tôi nói. “Bác sĩ nghĩ rằng nó gặp rắc rối với một con chó.”

“Grizzly ở phía sau đó.” Stacy thêm vào.

Adam cọ cọ một ngón tay lên lưng bàn tay tôi. “Tìm thấy nó như thế hẳn là phải kinh hoảng lắm. Em không sao chứ?”

“Okay.”

Thế rồi Huấn luyện viên bước ra, và ba chúng tôi cùng chờ đợi diễn tiến mới.

“Họ đang khâu nó sau kia,” Thầy nói, “Có thể nó sẽ mất đuôi - điều này còn phải chờ xem đã. Họ hi vọng là sẽ không có vết thương bên trong nào hay có gì phức tạp, nhưng họ vẫn chưa chắc chắn gì cả.” Giọng thầy nghe có vẻ lạc quan, nhưng khi thầy ngồi xuống bên cạnh Stacy thì cơ thể thầy xụm xuống.

Stacy rụt rè đặt tay lên tay Huấn luyện viên. Thầy xoay tay lại, lòng bàn tay ngửa lên, rồi họ đan các ngón tay lại với nhau. Tôi lén nhìn tay họ, nhìn bàn tay thanh mảnh của chị được bao bọc trong tay thầy, nhìn họ trao cho nhau sự an ủi trấn tĩnh.

Adam bắt được ánh mắt của tôi, và trong một giây mắt chúng tôi gắn chặt vào nhau. Nhìn vào trong mắt anh, tôi tự hỏi liệu có bao giờ tôi có thể quên được anh không. Thế rồi tôi ngồi lại và xếp hai tay trước mặt. Mỗi lần cánh cửa giữa khu vực phòng khám và phòng chờ mở ra, cả bốn chúng tôi lại ngẩng lên, hi vọng nhận được tin tốt. Nhưng sự chờ đợi cứ kéo dài mãi. Vào khoảng 5h kém 15, những cái chuông của cửa ra vào rung lên và Travis xông vào. Tôi đoán là tất cả chúng tôi đều đang ngó trân trân xuống sàn nhà lát gạch bởi vì không ai trông thấy anh ta lúc đầu cả.

“Travis!” Stacy kêu lên khi anh ta đến đứng trước mặt chị.

Tôi liếc nhanh sang bên trái và nhìn thấy chị và Huấn luyện viên thả tay nhau ra.

“Làm thế nào anh biết được em ở đâu?”

“Lúc đầu anh không biết,” Travis trả lời, giọng anh ta thấp và bình tĩnh, “anh bắt đầu thắc mắc khi salon váy cưới gọi đến văn phòng anh. Hai lần. Lẽ ra em phải đến lấy mạng và khăn trùm đầu. Thế rồi bên khách sạn gọi, muốn biết số lượng khách cuối cùng - rõ ràng là em quên thông báo cho anh ta. Thế rồi mẹ kế của anh gọi và nói rằng Adam đã theo em đến một phòng khám thú y trên Đường York, vì thế nó sẽ không đi lấy được đống quà cho những người dẫn chỗ cho đến tận tối muộn hôm nay. Đây là phòng khám thứ ba anh vào trên Đường York.”

“Vì sao?” Stacy hỏi.

“Vì sao ư?” Anh ta gần như nổ tung lên. “Chúng ta có một số việc phải làm. Chúng ta sẽ làm đám cưới vào thứ 7, hay điều đó biến mất khỏi đầu em rồi?”

Vài người trong phòng chờ, bao gồm cả người ngồi ở bàn tiếp tân, ngẩng đầu lên nhìn, lắng nghe với vẻ thích thú.

“Tối mai là bữa tiệc độc thân,” anh ta tiếp tục, “tối ngày kia là buổi tổng duyệt. Em nghĩ là chúng ta sẽ hoàn thành những việc này vào lúc nào chứ?”

“Đây là một trường hợp khẩn cấp,” Stacy giải thích. “Con mèo của Grizzly bị một con chó tấn công. Một khi biết được Big Mama không sao, em sẽ đi lấy mọi thứ.”

“Đó không phải khẩn cấp gì cả, Stacy, chỉ là một con mèo. Và nó thậm chí còn không phải là mèo của em nữa!”

Mắt Stacy long lên. “Làm sao là của em được chứ?” Chị đáp trả. “Anh bảo rằng em không thể nuôi mèo.”

Tất cả những người đem theo hộp đựng mèo đều quay lại nhìn Travis với vẻ chỉ trích.

“Anh bảo rằng chúng không thân thiện và hay ăn vụng.”

Những ánh mắt trở nên kinh khủng.

“Và chúng ta cũng không thể nuôi chó,” Stacy tiếp tục, “bởi vì nó hôi xì.”

Những người chủ của chó bắt đầu quắc mắt nhìn anh ta.

Tôi nghiêng người về phía Adam. “Travis tốt hơn hết nên ra khỏi nơi này trong khi vẫn còn thời gian.”

“Thôi nào, Travis,” Adam nói và đứng dậy, “Anh đi lấy nối ống tay. Em sẽ lấy khăn trùm đầu. Salon nằm ở chỗ nào thế Stacy?”

Stacy bảo với Adam, rồi anh đẩy ông anh kế của mình ra khỏi cửa, theo sau đó là những ánh mắt ghê tởm của tất cả mọi người trong phòng chờ.

Tôi liếc nhìn đồng hồ. 5h15. Tôi không thể rời khỏi đó mà không biết liệu Mama có làm sao không, nhưng tôi cũng phải hoàn thành bài viết trước 6h kém 15.

Mười phút sau trợ lý của Dr. Grefe xuất hiện ở cửa và gọi chúng tôi vào. Vì Grizzly, tôi hi vọng họ không phát hiện ra điều gì nghiêm trọng.

Vị bác sĩ mỉm cười với chúng tôi khi chúng tôi bước vào. “Nó là một cô gái già kiên cường.” Ông nói.

Mama trông vô cùng chắp vá, cái đuôi trụi lông và bé như đuôi chuột, lông của nó bị cạo sạch nhẵn từ một điểm trên lưng sau cũng như một chân, nơi họ đã khâu nó lại.

“Như tôi nói với cậu trước đó, nó bị một vết cắn kinh hoàng ở đuôi, và chúng ta sẽ phải chờ xem tình hình thế nào. Tôi muốn giữ nó ở lại đây 24h để quan sát, nhưng tôi nghĩ vật nuôi sẽ lành vết thương tốt nhất ở nhà. Mai gọi cho tôi để kiểm tra nhé. Nếu như nó ổn cả, cậu có thể đón nó về lúc 5h. Tôi sẽ chỉ cho cậu cách mặc đồ và băng bó cho nó, và chúng ta sẽ hẹn gặp tái khám sau.

“Tôi có thể đến muộn hơn một chút được không?” Grizzly hỏi, “Tôi huấn luyện một đội bóng, sau đó còn lên lớp vào tối thứ 5 đến tận 7h30.”

“Rất tiếc. Chúng tôi đóng cửa lúc 7h.”

“Tôi sẽ đón Mama cho, Grizzly.” Stacy đề nghị, “và ở lại với nó cho đến khi anh về nhà. Tôi sẽ học cách làm gì với nó và dạy lại anh.”

“Nhưng cô không phải... những thứ gì đó mà cô dâu phải làm sao?”

“Tôi sẽ đến đây lúc 5h.” Stacy nói với ông bác sĩ. “Nhớ đấy.”

Stacy cứ khăng khăng đòi đưa tôi về nhà. Nhưng điều mà chị thực sự muốn là đảm bảo rằng Huấn luyện viên không sao. Chị thả tôi ở ngõ sau, rồi đỗ xe và gặp Grizzly trong sân nhà bà Bean. Tôi để hai người họ nói chuyện và phóng ngay vào nhà đến trước máy tính.

Với chỉ 5 phút nữa là hết hạn, tôi không còn thời gian trộn lẫn hai cái nhìn tương phản của hai bài viết và viết một bài cân bằng nữa. Và không đời nào tôi gửi đi phiên bản châm biếm trào phúng với những lời chỉ trích gay gắt, có phần nào không công bằng về đội bóng. Điều đó để lại cho tôi bài viết tích cực, bài viết mà đọc lên như thể Kelly đã viết nó vậy. Tôi đính kèm file của mình, gõ địa chỉ email vào, rồi bấm nút send.

Whew!

Khi tôi đẩy ghế ra sau, tôi tự hỏi ai trong đội bóng sẽ nhận ra giọng điệu mới của Jane Hardy đây. Quá tệ là tôi lại không nhận ra mình đã gửi file nào.