Hầu hết mọi ngày, tôi vào Điện Capitol qua đường tầng hầm. Chuyến tàu điện ngầm nhỏ đưa tôi đi từ văn phòng của tôi ở tòa nhà HartBuilding qua những đường hầm trang trí cờ và biểu tượng của năm mươi tiểu bang nước Mỹ, rồi nó kín kít dừng lại. Trên đường tới dãy thang máy cũ để lên tầng hai, tôi đi ngang qua những nhân viên vội vã, các đội công nhân bảo dưỡng và các nhóm khách du lịch. Bước ra khỏi thang máy, tôi len lỏi giữa đám nhà báo thường tập trung quanh đó. Tôi chào mấy viên cảnh sát bảo vệ khu Capitol, rồi đi qua những cánh cửa đôi uy nghi và tiến vào tầng dành cho Thượng viện Mỹ.
Phòng họp Thượng viện không phải là nơi đẹp nhất Điện Capitol, nhưng nó cũng gây ấn tượng mạnh. Bức tường xám được trang trí nồi bật bằng những khung gỗ màu xanh và cột đá hoa cương với đường vân rất đẹp. Trần nhà tạo thành một hình ô van màu trắng kem và hình con đại bàng biểu tượng nước Mỹ được chạm chính giữa. Phía trên dãy bao lơn dành cho khách là những bức tượng bán thân của hai mươi phó tổng thống đầu tiên, im lặng và trang nghiêm.
Và trên những bậc thang thoai thoải, một trăm chiếc bàn bằng gỗ gụ xếp thành bốn vòng hình móng ngựa vây quanh khu chủ tọa. Một vài chiếc trong số này có từ năm 1819, và trên mỗi bàn có một hộp nhỏ để lọ mực và bút lông. Mở ngăn kéo của bất kỳ bàn nào bạn cũng sẽ thấy tên của thượng nghị sỹ đã từng sử dụng nó, được chính tay những người đó viết hoặc khắc lên: Taft và Long, Stennis và Kennedy.
Đôi khi đứng trong căn phòng này, tôi tưởng như nhìn thấy Paul Douglas hay Hubert Humphrey đang ngồi ở một trong những chiếc bàn, kêu gọi thông qua luật quyền công dân; hoặc Joe McCarthy cách đó vài bàn đang đưa ngón tay dò qua danh sách, chuẩn bị gọi một vài cái tên: hay Lyndon B. Johnson đang đi đi lại lại giữa các dãy ghế, túm cổ áo moi người và đòi phiếu bầu. Thi thoảng tôi đi qua chiếc bàn mà Daniel Webster đã từng ngồi và tưởng tượng ông đứng lên trước căn phòng chật người và đong nghiệp, đôi mắt rực sáng khi ông to tiếng bảo vệ Liên bang trước lực lượng ly khai[4].
Nhưng rồi những khoảnh khắc này tan biến rất nhanh. Trừ vài phút đến để bỏ phiếu thì tôi và các đồng nghiệp không dành nhiều thời gian trong phòng này. Phần lớn các quyết định như nên đề xuất dự luật gì, vào thời điểm nào, cần sửa đổi gì. và làm thế nào để những người bất hợp tác quay sang hợp tác... đều đã được giải quyết ổn thỏa từ trước giữa thủ lĩnh phe đa số, chủ tịch ủy ban liên quan, nhân viên của họ và (tùy thuộc mức độ bất đồng cũng như sự rộng rãi của đảng viên Cộng hòa đang xử lý dự luật này) đồng nhiệm của họ ở đảng Dân chủ. Khi chúng tôi lên đến tầng này và viên thư ký đọc danh sách điểm danh, mỗi thượng nghi sỹ phải quyết định quan điểm của mình sau khi đã tham khảo ý kiến của nhân viên, lãnh tụ phe họ, nhóm vận động hành lang và các nhóm lợi ích, cũng như thư cử tri và khuynh hướng tư tưởng.
Đo là một quá trình hiệu quả, được các thành viên đánh giá cao vì họ đều phải sắp xếp lại lịch làm việc dài mười hai hay mười ba tiếng của họ để đến đây và đang muốn quay lai văn phòng để gặp cử tri hay trả lời điện thoại, đến một khách sạn gần đó để gặp gỡ các nhà tài trợ hay qua trường quay để tham gia một cuộc phỏng vấn trực tiếp. Tuy nhiên, nếu bạn vẫn quanh quẩn trên tầng thì bạn có thể thấy một thượng nghị sỹ đứng một mình tại bàn sau khi những người khác đã về, cố thu hút sư chú ý để phát biểu. Có thể ông muốn trình bày một dự luật do ông đề xuất, hay có thể là bình luận chung chung về một thách thức nào đó đất nước đang phải đối mặt. Giọng nói của ông có thể bùng lên vì đam mê; lý luận về cắt giảm chương trình vì người nghèo, cản trở quyết định bổ nhiệm thẩm phán, hay sự cần thiết phải độc lập năng lượng nghe có vẻ đầy tính xây dựng. Nhưng diễn giả này lại đang trang trọng diễn thuyết trong một căn phòng gần như không có ai ngoài vị chủ tọa, một vài nhân viên, phóng viên Thượng viện và con mắt không chớp của C-SPAN[5]. Khi ông ta kết thúc bài phát biểu, một cậu phục vụ trẻ trong bộ đồng phục xanh dương im lặng thu lại tờ giấy bài phát biểu để lưu trữ. Rồi một thượng nghị sỹ khác bước vào khi người phát biểu trước đi ra, bà này sẽ lại đứng ở bàn của mình, kêu gọi sự chú ý, đọc diễn văn, và cái nghi lễ trên lại lập lại.
Ở cái hội nghị tranh luận lớn nhất thế giới này, không ai là người lắng nghe.
***
TÔI NHỚ NGÀY 4 tháng Một năm 2005 - ngày tôi và một phần ba Thượng viện đọc lời tuyên thệ nhậm chức thượng nghị sỹ khóa 109 - như một hình ảnh mờ ảo đẹp đẽ. Hôm đó mặt trời sáng rực rỡ, không khí ấm áp bất thường. Từ Illinois, Hawaii, London và Kenya, gia đình và bạn bè tôi tụ tập trên dãy bao lơn dành cho khách để chúc mừng khi tôi và các đồng nghiệp mới đứng cạnh bục đá cầm thạch, giơ cánh tay phải đọc lời tuyên thệ. Ở Phòng Thương viện cũ[6], tôi cùng vợ tôi, Michelle, và hai con gái thực hiện lại nghi lễ và chụp ảnh với Phó Tổng thống Cheney (khá giống với nghi lễ thật, sau đó con gái Malia sáu tuổi của tôi e dè bắt tay ngài Phó Tổng thống, rồi Sasha, ba tuổi, quyết định thay vì bắt tay thì đập tay với ông, tiếp đó chúng tôi đi vòng quanh vẫy chào trước các camera). Rồi tôi ngắm các con gái nhảy chân sáo xuống các bậc thang ở mặt đông Điện Capitol, bộ váy màu hồng và màu đỏ tung bay trên không, và hàng cột trắng của tòa nhà Tòa án Tối cao trở thành bức phông tráng lệ cho trò chơi của bọn trẻ.
Michelle và tôi nắm lấy tay hai đứa nhỏ, và bốn chúng tôi tiến về Thư viện Quốc hội, ở đó chúng tôi gặp hàng trăm người có thiện chí đã đến vì ngày này. Vài giờ đồng hồ tiếp đó chúng tôi chỉ liên tục bắt tay, ôm hôn, chụp ảnh và ký tặng.
Một ngày của những nụ cười và lời cảm ơn, của sự lịch thiệp và hào nhoáng - đó là hình ảnh trong mắt những vị khách đến Capitol.
Nhưng nếu như cả Washington có một ngày cư xử tuyệt vời nhất, đồng loạt ngừng mọi việc để khẳng định nền dân chủ vẫn tiếp tục, thì một sự tĩnh tại vẫn tồn tại trong bầu không khí, đó là nhận thức rằng tâm trang hân hoan này sẽ không kéo dài lâu. Sau khi gia đinh và bạn bè đều đã về nhà, sau khi buổi tiếp tân kết thúc và mặt trời lai trốn sau bức màn xám xịt của mùa đông, một sự thực duy nhất, có vẻ như không thể thay đổi, chắc chắn lại lơ lửng trên thành phố này: đất nước chúng ta đang bị chia rẽ, và Washington cũng bị chia rẽ, sự chia rẽ về chinh trị chưa từng có kể từ trước Thế chiến thứ hai.
Cuộc bầu cử tổng thống và các phương pháp thống kê khác nhau đều xác nhận một truyền thống: Người Mỹ bất đồng trên một loạt các vấn đề: lraq, thuế, nạo phá thai, súng. Mười Điều răn của Chúa, hôn nhân đồng giới, nhập cư, thương mại, chính sách giáo dục, quy định về môi trường, quy mô chính phủ và vai trò của tòa án. Chúng ta không chỉ bất đồng mà còn bất đồng kịch liệt với những lời đả kích cay độc những người ủng hộ mỗi bên ném vào đối phương. Chúng ta bất đồng về phạm vi mà chúng ta bất đồng, về bản chất sự bất đồng, và về lý do chúng ta bất đồng. Cái gì chúng ta cũng tranh cãi được, bất kể là nguyên nhân hay thực tế biến đổi khí hậu, quy mô thâm hụt ngân sách hay thủ phạm gây ra thâm hụt đó.Đối với tôi, những chuyện này hoàn toàn không đáng ngạc nhiên. Tôi đã quan sát từ xa những cuộc chiến chính trị leo thang ở Washington: vụ lran-Contra và Ollie North[7]. vụ đề cử Bork và Willie Horton[8], Clarence Thomas và Anita Hill[9], cuộc bỏ phiếu tín nhiệm Clinton và cuộc cách mạng của Gingrich, vụ Whitewater và cuộc điều tra của thẩm phán Starr[10], vụ giải tán và buộc tội chính phủ, lá phiếu chưa bấm lỗ hết và cuộc bầu cử Bush-Gore[11]. Cùng với cả xã hội, tôi thấy văn hóa vận động đã di căn lên toàn bộ cơ thể chính trị khi cả một ngành công nghệ lăng mạ - vừa liên tục vừa thậm chí còn sinh lợi - ra đời và thống trị truyền hình cáp, đài phát thanh và danh mục sách bán chạy nhất của tờ New York Times.
Tám năm làm lập pháp ở Illinois, tôi biết chút ít về cách thức tham gia cuộc chơi. Khi tôi đến Springfield năm 1997, phe Cộng hòa chiếm đa số trong Thượng viện Illinois đã sử dụng những nguyên tắc mà sau này Chủ tịch Hạ viện Gingrich cũng áp dụng để duy trì quyền kiểm soát tuyệt đối trong Hạ viện Mỹ. Không thể đưa một sửa đổi dù là nhỏ nhất ra thảo luận chứ đừng nói là được thông qua, các đảng viên Dân chủ la hét và nổi giận, rồi sau đó đứng im vô vọng trong khi các đảng viên Cộng hòa thông qua quyết định cắt giảm lớn thu nhập doanh nghiệp, gắn thuế vào lao động, giảm bớt dịch vụ xã hội. Dần dần, thái độ giận dữ lan rộng trong các cuộc họp của đảng Dân chủ, và các đồng nghiệp của tôi cẩn thận ghi sổ tất cả những hành vi xúc phạm và lạm dụng của đối thủ. Sáu năm sau, đảng Dân chủ nắm quyền kiểm soát, ra các đảng viên Cộng hòa được đối xử cũng không khá hơn. Một vài thành viên kỳ cựu sẽ nuối tiếc nhắc lại thời kỳ mà các đảng viên hai đảng Cộng hòa và Dân chủ cùng nhau ăn tối, gỡ rối và thỏa hiệp bên món beefsteak và điếu xì gà. Nhưng cả với những cựu binh này, kỷ niệm tuyệt vời đó cũng nhanh chóng tan biến ngay khi họ trở thành mục tiêu bị tấn công, toàn bộ khu vực cử tri của họ tràn ngập thư từ buộc tội họ đã làm việc phi pháp, tham nhũng, bất tài và sa đọa về đạo đức.
Tôi không định nói mình là người bàng quan bị động trong tất cả những câu chuyện đó. Tôi coi chính trị như một môn thể thao va chạm, và tôi không sợ những cú giật chỏ hay những cú đánh lén bất ngờ. Nhưng nhờ khu vực cử tri của tôi có truyền thống theo đảng Dân chủ nên tôi không phải chịu sư công kích cay độc của đối phương. Thi thoảng tôi và người đồng nghiệp Cộng hòa vào loại bảo thủ nhất cũng gặp nhau để trao đổi công việc, và sau khi chơi một ván poker hay uống một ly bia với nhau thì chúng tôi đi đến kết luận là có lẽ chúng tôi có nhiều điểm chung hơn so với những gì chúng tôi thừa nhận trước mọi người. Có thể đó là lý do tại sao trong suốt những năm làm việc ở Springfield, tôi luôn tin rằng chính trị có thể khác đi, và cử tri muốn cái gì đó khác; họ đã mệt mỏi với việc xuyên tạc sự thật, đả kích cá nhân và những giải pháp quá đơn giản cho những vấn đề phức tạp; và nếu tôi có thể gặp trực tiếp cử tri để trình bày suy nghĩ về từng vấn đề, giải thích một cách trung thực nhất lựa chọn của tôi, thì khi đó bản năng về công bằng và lẽ phải thông thường trong mỗi người sẽ thức tỉnh. Nếu trong chúng ta có đủ người chấp nhận rủi ro đó thì tôi nghĩ không chỉ nền chính trị mà cả chính sách của nước Mỹ cũng sẽ thay đổi theo hướng tốt đẹp hơn.
Tôi tham gia cuộc đua vào Thượng viện năm 2004 với chính suy nghĩ đó. Trong suốt thời gian diễn ra chiến dịch vận động, tôi cố hết sức trình bày những gì tôi nghĩ, một cách rõ ràng và tập trung vào điểm cốt lõi. Khi tôi giành thắng lợi trong cuộc bầu cử sơ bộ của đảng Dân chủ, sau đó là chiến thắng trong cuộc bầu cử, đều với tỷ lệ khá chênh lệch, tôi tin rằng mình đã chứng minh được quan điểm của mình.
Chỉ có một vấn đề. Đó là chiến dịch vận động của tôi diễn ra quá suôn sẻ, đến mức có vẻ như ăn may vậy. Các nhà quan sát hẳn thấy rằng trong cuộc đua giữa bảy ứng viên của đảng Dân chủ, không ai thực hiện chương trình quảng cáo công kích đối thủ, ứng viên giàu có nhất - một người từng là nhà giao dịch chứng khoán có tài sản ít nhất là 300 triệu dollar - đã bỏ ra 28 triệu, chủ yếu chỉ để dựng các quảng cáo tích cực, và chỉ bị thất bại hoàn toàn vào tuần cuối cùng do một vụ ly hôn không hay ho bị báo chí lật tẩy. Đối thủ phía đảng Cộng hòa của tôi, một cựu đối tác đẹp trai, giàu có của Goldman Sachs[12], sau đó làm giáo viên ở khu phố cũ, đã tấn công lý lịch của tôi ngay từ những ngày đầu tiên. Nhưng trước khi chiến dịch của ông này kịp cất cánh thì ông bị đánh gục bởi một vụ bê bối ly hôn của chính ông. Trong suốt thời gian gần một tháng, tôi đi khắp Illinois mà không gặp công kích nào, sau đó tôi được mời đọc bài diễn văn chính trong Đại hội toàn quốc của đảng Dân chủ - được phát sóng mười bảy phút trên truyền hình quốc gia, không qua kiểm duyệt, không bị gián đoạn. Và cuối cùng đảng Cộng hòa bang Illinois đã có một quyết định không thể hiểu nổi, đối thủ họ dành cho tôi là cựu ứng cử viên tổng thống Alan Keynes, một người chưa từng sống ở Illinois, ở địa vị của mình đã thể hiện sự hung tợn và không nhượng bộ đến mức ngay cả những người Cộng hòa bảo thủ nhất từng phát sợ.
Sau này, một số phóng viên tuyên bố tôi là chính trị gia may mắn nhất trên toàn bộ năm mươi bang. Nói nhỏ, một số nhân viên của tôi đã nổi cáu về nhận xét này, họ cảm thấy nó đã không đếm xỉa đến những nỗ lực cũng như thông điệp đầy thu hút của chúng tôi. Tuy nhiên, phủ nhân vận may gần như kỳ lạ của tôi thì cũng không đúng. Tôi chỉ là một kẻ ngoài cuộc, một kẻ lập dị; đối với những người trong nghề chính trị thì thắng lợi của tôi chẳng nói lên điều gì.
Do đó không có gì đáng ngạc nhiên là khi tôi đến Washington vào tháng Một, tôi có cảm giác mình như một anh chàng lính mới, xuất hiện sau cuộc chiến với bộ quân phục sạch bóng, không một hạt bụi, hăm hở được tham gia trong khi đồng đội vấy đầy bùn đang chăm sóc vết thương. Khi tôi đang bận rộn với những buổi phỏng vấn và chụp ảnh, với đầy những ý tưởng cao cả rằng cần giảm bớt tư tưởng đảng phái và thái độ gay gắt thì phe Dân chủ bị đánh bại trên toàn bộ các mặt trận - vị trí tổng thống, số ghế trong Thượng viện và Hạ viện. Các đồng sự Dân chủ đã chào đón tôi một cách không thể nhiệt tình hơn; họ gọi chiến thắng của tôi là "một trong những điểm sáng hiếm hoi của đảng ta". Tuy vậy, ở hành lang hay trong lúc giải lao ngoài cuộc họp, họ kéo tôi lại và nhắc cho tôi nhớ các chiến dịch Thượng viện điển hình là thế nào.
Họ kể về người lãnh đạo đã thất bại của họ. Tom Daschle, đại diện bang South Dakota, người đã phải chịu những cơn bão quảng cáo đả kích trị giá hàng triệu dollar - những bài báo chiếm cả trang và những đoạn quảng cáo trên truyền hình ngày ngày nói với hàng xóm của ông là ông ủng hộ giết hại trẻ em và ủng hộ đàn ông mặc váy cưới, thậm chí còn tuyên truyền là ông đối xử với vợ rất tệ, trong khi sự thực là vợ ông đã đến South Dakota để giúp ông tái đắc cử. Họ nhắc đến Max Cleland, cựu thượng nghị sỹ bang Georgia, một cựu chiến binh đã mất cả hai chân và một cánh tay nhưng đã mất ghế trong cuộc đua trước đó sau khi bị buộc tội thiếu tinh thần yêu nước, và đã hỗ trợ, tiếp tay cho Osama bin Laden.
Và nó đã trở thành chuyện nhỏ đối với nhóm "Cựu chiến binh Giang thuyền vì Sự thật": chỉ một vài quảng cáo phát đúng chỗ, vài khẩu hiệu của các phương tiện truyền thông bảo thủ là có thể biến một vị anh hùng đã được tặng huy chương trong Chiến tranh Việt Nam trở thành một kẻ yếu đuối. Thật hiệu quả một cách đáng kinh ngạc.
Không có gì phải nghi ngờ là có những đảng viên Cộng hòa cũng bị đối xử tồi tệ tương tự. Và có lẽ bài xã luận xuất hiện trong tuần đầu tiên của nhiệm kỳ đó đã đúng; đã đến lúc cho cuộc bầu cử đi vào quá khứ, và hai đảng cần dẹp bỏ sự thù địch và vũ khí, cùng ngồi vào điều hành đất nước ít nhất trong một hoặc hai năm. Điều đó có thể trở thành sự thực nếu như ngày tuyển cử không đến quá gần, nếu như cuộc chiến ở Iraq không tiếp tục diễn ra căng thẳng, hoặc nếu như các phe phái, các nhà phê bình và các phương tiện truyền thông không tiếp tục trục lợi bằng cách khuấy động thù hằn.
Có thể đã có hòa bình nếu có một Nhà Trắng khác, một Nhà Trắng ít cố sống cố chết với chiến dịch tranh cử triền miên, một Nhà Trắng coi tỷ lê chiến thắng 51-48 là một dấu hiệu cho thấy cần có thái độ khiêm nhường và thỏa hiệp, chứ không phải là một thắng lợi không thể chối cãi.
Nhưng dù cần điều kiện gì để giải quyết tình trạng căng thẳng đó đi nữa thì vào năm 2005, chẳng có điều kiện nào trong số đó tồn tại. Không có sự nhượng bộ, không có cử chỉ thiện chí. Hai ngày sau cuộc tuyển cử, Tổng thống Bush xuất hiện trên truyền hình, tuyên bố rằng “vốn chính trị”[13] của ông vẫn còn nhiều và ông sẽ sử dụng nó. Cũng chính hôm đó, nhà hoạt động bảo thủ Grover Norquist, không cần kiểu cách lịch sự của dân chính trị, đã nhận xét về tình thế của đảng Dân chủ như sau: "Bất cứ anh nông dân nào cũng sẽ cho bạn biết rằng có một số con vật chạy lung tung và thấy khó chịu, nhưng khi chúng đã được dồn lại rồi thì chúng sẽ vui vẻ và bình tĩnh lại thôi".
Hai ngày sau khi tôi làm lễ tuyên thệ, nữ hạ nghị sỹ Stephanie Tubbs Jones, đại biểu thành phố Cleveland, đã đứng trước Hạ viện phản đối kết quả bầu cử ở Ohio, nhắc lại những điểm bất thường trong bỏ phiếu ở bang này trong ngày bầu cử. Các đảng viên Cộng hòa nổi cáu ("Lũ thất bại đau đớn", tôi nghe thấy một vài người lẩm bẩm), nhưng Chủ tịch Hạ viên Hastert và thủ lĩnh phe đa số DeLay chỉ ngắm nhìn những khuôn mạt đá đặt trên bục cao, điềm tĩnh vì họ biết rằng họ có cả phiếu bầu lẫn cây búa điều khiển. Thượng nghị sỹ Barbara Boxer bang Califomia đồng ý với phản đối của Hạ nghị sỹ Jones, và khi chúng tôi trở lại phòng họp Thượng viện, tôi bỏ lá phiếu đầu tiên với tư cách thượng nghị sỹ, cùng với 73/74 thượng nghị sỹ còn lại bỏ phiếu đưa George W. Bush lần thứ hai trở thành tổng thống Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.
Có khả năng tôi sẽ nhận được rất nhiều điện thoại và thư phản đối sau vụ bỏ phiếu này. Tôi gửi cho một số người ủng hộ đảng Dân chủ đang tức giận, nói với họ rằng: vâng, tôi biết có chuyện ở Ohio, và vâng tôi nghĩ cần có một cuộc điều tra, nhưng vâng, tôi vẫn tin là George Bush đã thắng cử, và không, ít nhất tôi không nghĩ tôi sẽ bị đá ra [nếu bỏ phiếu chống] hay nhận vào chỉ sau hai ngày làm việc.
Cũng trong tuần đó, tôi bất ngờ gặp Thượng nghị sỹ Zell Miller, một đảng viên Dân chủ bang Georgia kín đáo, gầy gò, có cặp mắt sắc, thành viên Hiệp hội Súng trường quốc gia (NRA). Ông này đã từ bỏ đảng Dân chủ, quay sang ủng hộ George Bush, và đã đọc một bài diễn văn chính sắc bén ở Đại hội toàn quốc Đảng Cộng hòa - một bài phát biểu cường điệu rất vô lý về sự xảo trá của John Kerry cũng như nhược điểm của ông này trong vấn đề an ninh quốc gia. Đó là một cuộc gặp gỡ ngắn ngủi, với đầy những mỉa mai câm lặng - một ông già miền Nam trên đường bước ra, một gã da đen miền Bắc trẻ tuổi trên đường đi vào, sự đối lập được báo chí lưu ý trong bài phát biểu của hai chúng tôi. Thượng nghị sỹ Miller tỏ ra rất lịch thiệp, ông chúc tôi may mắn trong vị trí mới. Sau đó, tôi được xuất hiện trong một đoạn trích từ cuốn sách của ông - A Deficit of Decency (Sự thiếu hụt lễ nghi). Trong đoạn trích này ông gọi bài phát biểu của tôi là một trong những diễn văn hay nhất mà ông từng được nghe trước khi chú thích thêm - tôi tưởng tượng ông viết đoạn này với nụ cười ranh mãnh rằng chưa chắc đó đã là một bài phát biểu hiệu quả nhất xét về phương diện giúp giành thắng lợi trong bầu cử.
Nói cách khác: người bên tôi đã thua. Còn người phía Zell Miller đã thắng. Đấy là thực tế khắc nghiệt, lạnh lùng của chính trị. Mọi thứ khác chỉ là tình cảm.
***
THEO VỢ TÔI thì về bản chất tôi không phải người bị tình cảm chi phối. Khi xem Ann Coulter hay Se an Hannity phát biểu trên truyền hình, tôi thấy khó mà cho là họ đang nghiêm túc. Tôi nghĩ họ nói như vậy cơ bản chỉ để tăng số lượng sách bán được hoặc tăng điểm cho chương trình của họ thôi, mặc dù tôi thực sự không hiểu có ai lại dành cả buổi tối quý giá để xem hai bộ mặt khó ưa đó nói. Khi người phe Dân chủ chạy vội đến gặp tôi mỗi khi có chuyện gì đó và tuyên bố rằng chúng ta đang sống trong thời kỳ chính trị tồi tệ nhất, rằng chủ nghĩa phát xít đang dần siết cổ chúng ta, thì tôi sẽ nhắc lai việc giam giữ những người Mỹ gốc Nhật dưới thời Franklin D. Roosevelt[14]. John Adams ban hành Đạo luật Ngoại kiều và chống nổi loạn[15], hay việc giết người da đen kiểu Lynch kéo dài cả trăm năm dưới hàng chục đời tổng thống[16] đã từng tồi tệ hơn thế này. Và tôi nói với họ hãy hít một hơi dài thư giãn đi. Khi những người dự tiệc tối hỏi tôi làm sao tôi có thể làm việc trong môi trường chính trị như hiện tại, với tất cả những quảng cáo đả kích, công kích cá nhân, thì tôi sẽ nhắc đến những cái tên như Nelson Mandela, Aleksandr Solzhenitsyn, hay một vài người khác đang bị giam giữ đâu đó ở Trung Quốc hoặc Ai Cập. Sự thực là việc bị công kích đích danh cũng không phải là cái gì tôi tệ lắm.
Tuy vậy. tôi không thể “miễn dịch” với nỗi lo. Và cũng như đa phần người Mỹ, tôi thấy trong những ngày này khó mà rũ bỏ được cảm giác rằng nền dân chủ của chúng ta đã trở nên lệch lạc một cách cực kỳ nghiêm trọng.
Đó không chỉ đơn giản là những khác biệt giữa lý tưởng của chúng ta về một đất nước chúng ta thực tế đang phải chứng kiến hàng ngày.
Dưới dạng này hay dạng khác, khác biệt đó đã tồn tại từ khi nước Mỹ mới ra đời. Đã có chiến tranh, có nhiều đạo luật được ban hành, nhiều hệ thống được thay đổi, cải cách, nhiều tổ chức được thành lập, đã diễn ra nhiều vụ phản kháng, tất cả để đưa những lời hứa và thực tế đến gần nhau hơn.
Không phải thế, vần đề ở đây là khoảng cách giữa những thách thức rất to lớn mà chúng ta đang đối mặt với sự nhỏ mọn của nền chính trị - là việc chúng ta dễ dàng bị những chuyện vụn vặt, tầm thường thu hút tâm trí, luôn tránh né trước những quyết định quan trọng, và có vẻ không thể xây dựng nền tảng đồng thuận để giải quyết những vấn đề lớn lao.
Chúng ta biết rằng cạnh tranh toàn cầu - chưa nói đến bất cứ một cam kết thực sự nào về những giá trị như cơ hội công bằng và thăng tiến - đòi hỏi chúng ta phải chỉnh đốn lại hệ thống giáo dục từ trên xuống dưới, bổ sung lực lượng giáo viên, bắt tay vào dạy toán và khoa học, và đưa trẻ em ở khu phố cũ thoát khỏi tình trạng thất học. Thế mà cho đến hiện tại, những cuộc tranh luận của chúng ta về giáo dục lại đang mắc kẹt giữa những người muốn bỏ hệ thống trường công và những người bênh vực cái hiện trạng không thể nào bênh vực nổi, giữa những người cho rằng tiền không cải thiện được giáo dục và những người muốn có nhiều tiền hơn nhưng lại không chứng minh được rằng tiền đó sẽ được sử dụng hiệu quả.
Chúng ta biết rằng hệ thống y tế của chúng ta đã sụp đổ: đắt khủng khiếp, cực kỳ không hiệu quả, gần như không phù hợp với một nền kinh tế trong đó mọi người không còn làm việc ở một chỗ cả đời, một hệ thống đẩy những người Mỹ làm việc chăm chỉ vào tình thế bất an cố hữu và có thể rơi vào nghèo túng. Nhưng năm này qua năm khác, tình trạng này vẫn chưa được cải thiện do vấn đề tư tưởng cũng như kỹ năng làm chính trị, trừ năm 2003 khi chúng ta có đạo luật về đơn thuốc, không hiểu sao lại kết hợp được những điểm yếu kém nhất của cả khu vực công và khu vực tư nhân: giá không thật, bộ máy hỗn loạn, không bao phủ hết thị trường và người nộp thuế nhận được hóa đơn đắt muốn nổ mắt.
Chúng ta biết rằng cuộc chiến chống chủ nghĩa khủng bố quốc tế vừa là chiến tranh vũ trang vừa là xung đột tư tưởng, rằng sự an toàn lâu dài của chúng ta phụ thuộc vào kế hoạch đúng đắn để tăng cường sức mạnh quân sự cũng như hợp tác chặt chẽ với các quốc gia khác, rằng giải quyết nghèo đói toàn cầu và giúp đỡ các quốc gia khốn khó là vấn đề sống còn đối với quyền lợi nước Mỹ chứ không đơn thuần chỉ là chuyện từ thiện. Nhưng nếu theo dõi nhiều cuộc tranh luận về chính sách đối ngoại thì bạn sẽ tin rằng chỉ có hai lựa chọn - tham chiến, hoặc rút về với chủ nghĩa biệt lập.
Chúng ta nghĩ về niềm tin như cội nguồn của sự an ủi và thấu hiểu, nhưng cách thể hiện niềm tin của chúng ta lại gây ra sự chia rẽ; chúng ta tin rằng chúng ta là người bao dung mặc dù căng thẳng về chủng tộc tôn giáo và văn hóa đang lan rộng khắp đất nước ta. Và thay vì chấm dứt căng thẳng, hòa giải tranh chấp, nền chính trị của chúng ta lại thổi bùng chúng lên, lợi dụng chúng, và càng làm cho mọi người xa nhau hơn.
Về cá nhân mà nói, chúng tôi, nhưng người làm việc cho chính phủ, phải cảm ơn cái khác biệt giữa thứ chính trị hiện tại và thứ chính trị cần phải có. Rõ ràng những người Dân chủ không thích thú gì tình trạng này vì ít nhất lúc này họ đang thất bại, bị những người Cộng hòa lấn át - những người Cộng hòa nhờ cuộc bầu cử kiểu kẻ-thắng- được-tất-cả mà kiểm soát mọi vị trí trong chính phủ và không có nhu cầu thỏa hiệp. Thật ra những người Cộng hòa thận trọng không nên quá lạc quan vì mặc dù đảng Dân chủ đã thua, nhưng đảng Cộng hòa - phe thắng cử nhờ những cam kết rất phi thực tế (cắt giảm thuế nhưng không giảm phúc lợi, tư nhân hóa bảo hiểm xã hội nhưng chi trả lợi ích không thay đổi, tiến hành chiến tranh không có hy sinh) - có vẻ cũng không biết cách điều hành đất nước.
Ở cả hai phe, cho đến giờ chúng ta gần như không thấy ai tự vấn lương tâm hay tự nhìn lại chính mình, thậm chí cũng không ai nhận trách nhiệm dù là nhỏ nhất về tình hình hiện tại. Thay vào đó, không chỉ trong các chiến dịch vận động mà trên các trang xã luận, trên giá sách, ngay cả trên thế giới blog đang phát triển chưa từng thấy, chúng ta chỉ thấy các kiểu phê phán và đổ lỗi. Tùy bạn ưa thích phe nào hơn mà tình trạng của chúng ta sẽ là kết quả tự nhiên của chủ nghĩa bảo thủ cực đoan hoặc chủ nghĩa tự do ngang bướng, Tom DeLay hoặc Nancy Pelosi, các tập đoàn dầu lửa[17] hoặc các luật sư tham tiền, kẻ cuồng tín tôn giáo hoặc nhà hoạt động vì người đồng tính, kênh Fox News hoặc tờ New York Times. Mức độ hay ho của các câu chuyện, sự tinh tế của các lý luận, và mức tin cậy của các bằng chứng phụ thuộc vào từng người, và tôi không phủ nhận là tôi thích các câu chuyện do người phe Dân chủ kể hơn, cũng như tôi tin rằng lý luận gia những người theo chủ nghĩa tự do thường dựa trên lẽ phải và thực tế nhiều hơn. Tuy nhiên, nếu xem xét kỹ, ta sẽ thấy lý lẽ của hai phe cánh tả và cánh hữu dần đã trở nên hình ảnh phản chiếu trong gương của nhau. Đó đều là các câu chuyện về âm mưu, về việc nước Mỹ đang bị một liên minh ma quỷ tấn công. Cũng như mọi giả thuyết về âm mưu hay ho khác, cả hai phe đều chỉ đưa vào câu chuyện của mình một hàm lượng sự thực đủ để làm hài lòng những người được dẫn dắt để tin vào họ, và không thừa nhận bất cứ mâu thuẫn nào có thể làm lung lay giả thuyết đó. Mục tiêu không phải là thuyết phục phe đối lập mà là làm cho các giả thuyết đó trở nên kích động, giải thích được sự nghiệp của họ là đúng đắn, và thu hút đủ tín đồ mới gia nhập phe họ.
Tất nhiên, còn có một câu chuyện khác cần được nhắc đến, bởi hàng triệu người Mỹ đang phải lo cuộc sống của họ hàng ngày. Những người đó đang làm việc hoặc đang tìm việc làm, đang khởi sự kinh doanh, đang giúp con cái làm bài tập về nhà, và đang phải đối mặt với hóa đơn khí đốt tăng cao, bảo hiểm y tế không đầy đủ. không được chi trả lương hưu do phán quyết của một tòa phá sản[18] nào đó. Họ đều hy vọng và sau đó lo sợ về tương lai. Cuộc sống của họ đầy rẫy nhưng mâu thuẫn và mơ hồ. Và vì chính trị đề cập quá ít đến những gì họ đang phải trải qua - vì họ hiểu rằng ngày nay chính trị là một nghề kinh doanh chứ không phải sứ mạng, và những thứ được gọi là cuộc tranh luận thực chất cũng chỉ hơn biểu diễn chút ít - nên họ quay đi, tránh xa sự ồn ào và những lời nói huyên thuyên hùng hổ, liên tục không ngừng.
Một chính quyền, nếu thực sự đại diện cho người Mỹ - và thực sự phục vụ người Mỹ - sẽ đòi hỏi phải có một nền chính trị kiểu khác. Nền chính trị đó cần phản ánh cuộc sống thực tế của chúng ta, chứ không phải là loại sản phẩm đã được đóng gói và chỉ việc lấy ra khỏi giá. Nó phải được dựng nên từ những gì là truyền thống tốt đẹp nhất và phải nhìn nhận đến cả những phần tối trong lịch sử của chúng ta.
Chúng ta cần hiểu chính xác vì sao chúng ta đi đến chỗ này - xung đột phe phái và hằn thù sắc tộc. Và chúng ta cần tự nhủ rằng mặc dù có rất nhiều điều khác biệt, nhưng chúng ta có hy vọng giống nhau, có giấc mơ giống nhau, đó là một mối ràng buộc không thể bị phá vỡ.
***
MỘT TRONG NHỮNG điều đầu tiên tôi nhận thấy ở Washington là mối quan hệ khá thân mật giữa các thượng nghị sỹ lớn tuổi: sự nhã nhặn tin cậy chi phối mọi hành vi giữa John Warner và Robert Byrd, hay tình bạn chân thành giữa đảng viên Cộng hòa Ted Stevens và đảng viên Dân chủ Daniel Inouye. Mọi người thường nói rằng những thượng nghị sỹ này là đại diện cuối cùng của một kiểu người sắp tuyệt chủng, đó là những người không chỉ có tình yêu với Thượng viện mà còn là hiện thân của một kiểu chính trị ít tính bè phái. Và trong thực tế, đây là một trong ít điểm mà các nhà bình luận bảo thủ và tự do đồng ý với nhau, đó là về thời kỳ trước suy thoái, thời đại vàng ở Washington khi dù đảng nào nắm quyền thì bầu không khí vẫn lịch sự, và chính phủ vẫn hoạt động tốt.
Vào một buổi tiếp tân tối nọ, tôi tiến đến nói chuyện với một ông già người Washington, người đã làm việc ở Capitol gần năm mươi năm. Tôi hỏi xem theo ông thì cái gì đã làm cho không khí bây giờ khác trước.
“Vấn đề thế hệ thôi”, ông trả lời không hề do dự. "Hồi ấy, hầu hết những người có quyền lực ở Washington đều đã từng cống hiến trong Thế chiến thứ hai. Chúng tôi có thể đấu nhau dữ dội về mọi chuyện. Chúng tôi hầu hết có hiểu biết khác nhau, quê quán khác nhau, triết lý chính trị khác nhau. Nhưng nhờ có chiến tranh nên chúng tôi thấy có vài điểm chung. Quá khứ chung đem lại niềm tin và sự tôn trọng nhất định. Vì thế chúng tôi vượt qua được khác biệt và giải quyết được mọi chuyện".
Khi nghe ông già hồi tưởng về Dwight Eisenhower và Sam Raybum, Dean Acheson và Everett Dirksen, khó mà không mường tượng thấy những gương mặt mờ ảo đó lướt qua, một thời kỳ trước khi có những bản tin 24 giờ và hoạt động gây quỹ bất tận, đó là thời kỳ của những người nghiêm túc làm những việc nghiêm túc. Tôi phải tự nhắc mình rằng tình cảm yêu mến của ông già đối với quá khứ ấy hẳn chỉ chứa đựng một vài kỷ niệm nhất định. Ông đã quên đi hình ảnh phe miền Nam bác bỏ đề xuất các luật bảo vệ quyền công dân ngay ở Thượng viện, quyền lực quỷ quyệt của chủ nghĩa Mccarthy[19], thực trạng dân cư nghèo đói được Bobby Kennedy phơi bày trước khi ông chết; và trong bộ máy chính quyền thiếu vắng phụ nữ và người thiểu số.
Tôi cũng nhận thấy còn nhiều tình huống độc nhất vô nhị khác mà ông già cũng từng tham gia, chúng giúp bào đảm cho chính phủ đồng thuận một cách ổn định: không chỉ là kinh nghiệm cùng trải qua chiến tranh mà còn là sự nhất trí gần như hoàn toàn mà họ có được nhờ cuộc Chiến tranh lạnh và mối đe dọa từ Liên Xô cũ, và có lẽ đóng vai trò quan trọng hơn cả là sự thống trị không có đối thủ của kinh tế Mỹ trong suốt thập niên 1950 và 1960 vì cả châu Âu và Nhật Bản đều đang bận tự cứu tránh khỏi đống đổ nát sau chiến tranh.
Tất nhiên, không thể phủ nhận là nền chính trị Mỹ trong những năm sau Thế chiến thứ hai có tính ý thức thấp hơn nhiều - và ý nghĩa của liên minh đảng phái lại kém rõ ràng hơn nhiều so với ngày nay. Liên minh Dân chủ nắm quyền kiểm soát Quốc hội trong suốt những năm ấy là hỗn hợp của nhưng người theo chủ nghĩa tự do miền Bắc như Hubert Humphrey, những đảng viên Cộng hòa miền Nam như James Eastland, và bất cứ một nhân vật trung thành nào mà cỗ máy chính trị[20] ở các thành phố lớn muốn đưa lên. Chất keo liên kết liên minh này là chủ nghĩa dân túy kinh tế của Chính sách Kinh tế xã hội mới[21] - giấc mơ về mức lương và lợi ích công bằng, về chính sách bảo trợ và công trình công cộng, về mức sống tăng cao chưa từng có. Ngoài ra, đảng Dân chủ còn đề ra một triết lý kiểu dĩ hòa vi quý: thứ triết lý ngầm thừa nhận, khuyến khích áp bức chủng tộc ở miền Nam; thứ triết lý phụ thuộc vào một nền văn hóa rộng lớn, trong đó các quy ước xã hội - ví dụ như bản chất của tình dục, hay vai trò của phụ nữ - được chấp nhận rộng rãi; một nền văn hóa chưa có những từ ngữ gây bực dọc, ít có tranh chấp chính trị quanh những quy ước đó hơn.
Trong suốt thập kỷ năm mươi và những năm đầu thập kỷ sáu mươi, đảng Cộng hòa cũng bỏ qua những rạn nứt trong triết lý - giữa chủ nghĩa tự do phương Tây của Barry Goldwater và chủ nghĩa gia trưởng kiểu phương Đông của Nelson Rockerfeller; giữa những người tái hiện chủ nghĩa cộng hòa của Abraham Lincoln và Teddy Roosevelt khi đi theo chủ nghĩa tích cực liên hang và những người theo chủ nghĩa bảo thủ của Edmund Burke khi ưa thích truyền thống cũ hơn thử nghiệm xã hội. Việc đưa những khác biệt vùng miền và tính cách đó vào quyền công dân, luật liên bang, thậm chi các đạo luật thuế không hề dễ đàng, nhanh chóng. Nhưng cũng như đảng Dân chủ, đảng Cộng hòa đoàn kết được chủ yếu nhờ quyền lợi kinh tế. Triết lý về thị trường tự do và thắt chặt tài khóa giúp liên kết mọi thành phần cử tri của đảng, từ người bán hàng ở Main Street[22] đến chủ doanh nghiệp vùng nông thôn.
Chính vào thập kỷ 60, mối liên kết chính trị này kết thúc với lý do và tiến trình đúng như được ghi trong lịch sử. Trước hết là phong trào quyền công dân mà ngay vào những ngày yên ả ban đầu, nó đã là thách thức đối với cơ cấu xã hội lúc đó và buộc người Mỹ phải lựa chọn phe phái. Cuối cùng Lyndon Johnson đã chọn cánh hữu, nhưng là người con của vùng miền Nam, ông hiểu rõ hơn ai hết cái giá phải trả cho lựa chọn đó: khi ký Đạo luật Quyền công dân vào năm 1964, ông đã nói với viên sỹ quan hầu cận Bill Moyers rằng chỉ với một nét bút, ông đã đặt miền Nam vào tay đảng Cộng hòa với tương lai có thể dự đoán trước.
Tiếp sau đó là những cuộc biểu tình của sinh viên phản đối Chiến tranh Việt Nam và các ý kiến cho rằng nước Mỹ không phải lúc nào cũng đúng, hành động của chúng ta không phải lúc nào cũng hợp lý - và thế hệ sau sẽ không trả bất cử giá nào hay chịu bất cứ gánh nặng nào mà thế hệ trước đòi hỏi.
Và rồi khi những bức tường bảo vệ hiện trạng lúc đó bị chọc thủng, rất nhiều dạng “người ngoài” tràn qua cánh cổng, các nhà hoạt động nữ quyền, người Latin, dân hippie, thành viên Báo Đen[23], các bà mẹ nhận trợ cấp xã hội[24], người đồng tính, tất cả đều đòi quyền lợi, tất cả đều muốn được khẳng định, tất cả đều đòi có một vị trí trên bàn ăn và một phần trong miếng bánh.
Mất đến vài năm logic của những thay đổi đó mới cho thấy hợp lý. Với chiến lược miền Nam, thái độ thách thức lệnh tòa án về xóa bỏ phân biệt chủng tộc trong nhà trường và chống lai phe đa số ôn hòa, Nixon đã có lợi thế trong kỳ bầu cử ngay tức khắc. Nhưng triết lý của ông chưa bao giờ là một hệ tư tưởng vừng chắc, thống nhất - vì cuối cùng, chính ông lại là người đã đề xuất ra những chính sách vì cộng đồng người thiểu số đầu tiên và đã ký quyết định thành lập Cơ quan Bảo vệ môi trường và Ban Quản lý sức khỏe và an toàn lao động. Jimmy Carter đã cho thấy có thể kết hợp ủng hộ quyền công dân với thông điệp truyền thống của đảng Dân chủ; và mặc dù có người đào ngũ, nhưng đa số nghị sỹ Dân chủ miền Nam quyết định ở lại trong đảng vẫn tiếp tục nhiệm kỳ của họ, giúp đảng Dân chủ tiếp tục kiểm soát ít nhất là Hạ viện.
Nhưng phiến đá kiến tạo nên đất nước cũng đã dịch chuyển. Chính trị không còn là một chuyên nhỏ mà đã trở thành vấn đề đạo đức, tuân theo yêu cầu và chân lý đạo đức. Chính trị cũng tồn tại trong mọi cá nhân khi nó len lỏi vào mọi chuyện - dù là giữa người da trắng và người da đen hay giữa đàn ông và phụ nữ - và nó bộc lộ rõ trong mọi thái độ dù là ủng hộ hay phản đối chế độ cầm quyền.
Do đó, trong suy nghĩ chung của mọi người, chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa bảo thủ được xác định bởi thái độ hơn là bởi giai cấp - thái độ của bạn về văn hóa truyền thống và phản văn hóa. Vấn đề không chỉ là bạn nghĩ thế nào về quyền đình công hay thuế thu nhập doanh nghiệp mà còn là quan điểm của bạn về tình dục, ma túy và nhạc Rock "n" roll, lễ Mi-xa (Mass) của người Latin và tiêu chuẩn của nền văn hóa phương Tây là gì. Các cử tri da trắng là thiểu số ở miền Bắc và người da trắng nói chung ở phía Nam không đánh giá cao phong trào tự do mới. Bạo lực đường phố và nguyên nhân gây ra bạo lực trong giới trí thức, người da đen chuyển đến cạnh nhà, trẻ con da trắng lang thang khắp thành phố trên xe buýt, hành động đốt cờ và phỉ nhổ vào các cựu chiến binh - tất cả những hành động đó đều xúc phạm và hạ thấp, nếu không muốn nói là phá vỡ những giá trị quan trọng nhất đối với họ: gia đình, niềm tin, quốc kỳ, tình hàng xóm, và đối với một số người ít nhất là đặc quyền của người da trăng. Giữa thời kỳ hỗn loạn đó, nối tiếp những vụ ám sát, những vụ cháy ở thành phố và thất bại cay đắng ở Việt Nam, tăng trưởng kinh tế nhường chỗ cho khủng hoảng dầu, lạm phát, đóng cửa nhà máy, và đề xuất hay ho nhất của Jimmy Carter chỉ là hãy văn nhỏ máy sưởi, trong khi đó nhóm cấp tiến người Iran tiếp tục làm vết thương của OPEC[25] trầm trọng hơn - một đám người thuộc liên minh Chính sách Kinh tế xã hội mới[26] bắt đầu đi tìm một ngôi nhà chính trị khác.
***
TÔI LUÔN CÓ cảm giác có một mối liên hệ kỳ lạ với thập niên 60. Về nghĩa nào đó tôi là một sản phẩm thuần túy của thời kỳ này: là một người lai hai màu da, cuộc đời tôi có thể trở nên tuyệt vọng, mọi cơ hội của tôi có thể hoàn toàn bị tước bỏ nếu không có sự thay đổi đột ngột trong xã hội lúc đó. Nhưng tôi còn quá trẻ để có thể hiểu rõ bản chất nhưng thay đổi đó, và ở quá xa để có thể nhìn thấy tinh thần Mỹ bị sa sút (hồi đó tôi sống ở Hawaii và lndonesia). Phần lớn những gì tôi nhận được từ thập kỷ 60 đều được tinh lọc qua mẹ tôi - một người mà cho đến cuối đời hẳn vẫn tự hào vì mình theo chủ nghĩa tự do. Đặc biệt phong trào quyền công dân được bà đánh giá cao, bất cứ khi nào có cơ hội, bà đều gieo vào đầu tôi những giá trị bà tìm thấy ở đó: sự bao dung, công bằng, không gục ngã khi thất bại.
Tuy nhiên, hiểu biết về thập kỷ 60 của mẹ tôi vẫn hạn chế, cả vì khoảng cách địa lý (bà rời nước Mỹ lục địa từ năm 1960) lẫn tính lãng mạn, ngọt ngào của bà. Về mặt lý trí, bà phải cố hiểu "Sức mạnh người da đen", “Hội sinh viên vì xã hội dân chủ” (SDS) hay các bạn gái của bà - những người ngừng không cạo lông chân nữa; nhưng về mặt tâm lý bà không giận dữ, phản kháng như họ. Về mặt tình cảm, chủ nghĩa tư do của bà luôn mang tính chất cổ điển rõ nét của thời kỳ trước năm 1967. Trái tim của bà trong một thời gian tràn ngập hình ảnh của các chương trình không gian, của Tổ chức Hòa bình Mỹ, cuộc vận động chống phân biệt chủng tộc, Mahalia Jackson và Joan Baez[27].
Chỉ khi nhiều tuổi hơn, vào những năm 70, tôi mới hiểu khả năng kiểm soát mọi việc của những người từng trực tiếp trải qua những sự kiện đáng nhớ của thập niên 60 có giá trị thế nào. TôI biết được một phần qua lời phàn nàn của ông bà ngoại, những đảng viên Dân chủ lâu năm nhưng thừa nhận đã bỏ phiếu cho Nixon vào năm 1968 - một hành động phản bội mà mà tôi không bao giờ bỏ qua. Còn phần lớn là do tôi tự tìm hiểu, vì tính nổi loạn thời trẻ của tôi xuất phát từ những thay đổi về chính trị và văn hóa mà sau đó bắt đầu tàn lụi dần. Khi đến tuổi thiếu niên, tôi rất say mê thời kỳ này vì phong cách phóng khoáng, luôn-có-đủ-cho-mọi-người; nhờ sách vở, phim ảnh và âm nhạc, thập kỷ 60 ngấm rất sâu vào tôi với một cách nhìn hoàn toàn khác những gì mà tôi thường mô tả: hình ảnh của Huey Newton[28], Đại hội đảng Dân chủ năm 1968, cuộc di tản bằng máy bay khỏi Sài Gòn và đêm nhạc rock ở Altamont của ban nhạc Rolling Stones[29]. Tôi không có lý do trực tiếp theo đuổi cuộc cách mạng, nhưng tôi quyết định rằng về phong cách và thái độ sống, tôi cũng là một kẻ nổi loạn, bất kể đám đông ngoài ba mươi tuổi kia nhận xét gì về tôi.
Sau cùng, sự nổi loạn của tôi chuyển thành cuộc sống bê tha, tự phá hoại bản thân, nhưng khi vào đại học, tôi bắt đầu thấy mọi sự thách thức truyền thống đều có thể chứa đựng cả sự quá đà lẫn tính chính thống. Tôi xem xét lại các giả định của mình, và nhớ lại những giá trị mà mẹ và ông bà đã dạy tôi. Trong suốt quá trình sắp xếp, lựa chọn lại niềm tin - một cách chậm chạp, thất thường, tôi bắt đầu lặng lẽ nhận ra thời điểm trong những cuộc nói chuyện trong phòng ký túc xá của đám sinh viên khi tôi và bạn bè phản đối chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa đế quốc Mỹ quá dễ đàng, tuyên bố không chấp nhận ràng buộc hôn nhân một vợ một chồng và tín ngưỡng mà không hiểu gì về giá trị của những điều đó, sẵn lòng tự cho mình là nạn nhân của thời thế để rũ bỏ trách nhiệm, hoặc đòi quyền lợi, hoặc khẳng định mình có đạo đức vượt trội so với những người không phải gánh chịu thiệt thòi như mình.
Tất cả những điều đó giải thích tại sao tôi hiểu được sự hấp dẫn của Reagan mặc dù tôi thấy khó chịu với cuộc bầu cử năm 1980, mặc dù tôi không thấy bộ điệu cao bồi kiểu John Wayne, tác phong kiểu “Bố biết hết mọi thứ”[30] hay nhưng giai thoại về chính sách và sự công kích vô lý vào người nghèo của ông có tính thuyết phục chút nào. Nó cũng giống như hồi còn nhỏ tôi luôn cảm thấy căn cứ quân sự ở Hawaii - với những đường phố sạch sẽ và thiết bị bóng loáng, với hộ đồng phục bảnh bao và động tác chào còn tranh hơn nữa - rất hấp dẫn.
Nó cũng giống như sự thích thú mỗi khi tôi được xem một trận bóng chày tuyệt hay, hay khi vợ tôi được xem phát lại bộ phim truyền hình cô ấy thích: The Dick Van Dyke Show[31]. Reagan khẳng định người Mỹ mong muốn có trật tự, người Mỹ cần tin rằng cuộc sống của chúng ta không bị chi phối bởi một sức mạnh mơ hồ, bâng quơ nào đó, ngược lại chúng ta có thể tạo ra cả vận mệnh cho cá nhân và cho cả đất nước nếu chúng ta tìm lại được được những giá trị truyền thống như sự chăm chỉ, lòng yêu nước, trách nhiệm cá nhân, tinh thần lạc quan và niềm tin tôn giáo.
Việc thông điệp này của Reagan có được một đội ngũ thính giả lắng nghe không chỉ cho thấy khả năng giao tiếp, truyền đạt của ông mà nó còn chứng tỏ trong suốt thời kỳ kinh tế đình trệ, chính phủ tự do đã thất bại trong việc tạo cho tầng lớp cử tri trung lưu một cảm giác rằng chính phủ đang làm việc vì họ. Vì thực tế chính quyền ở các cấp đã tiêu tiền thuế của người dân quá thoải mái. Bộ máy quan liêu quá thường xuyên quên đi chi phí cho việc thực hiện nhiệm vụ của họ.
Trong phe tư do có nhiều lập luận coi trọng quyền lợi và quyền lực hơn trách nhiệm và nghĩa vụ. Reagan có thể đã thổi phồng quá mức những lỗi lầm của hệ thống phúc lợi xã hội, và có lẽ những người tự do đã đúng khi phê phán chính sách của Reagan quá nghiêng về tầng lớp giàu có khi các công ty hàng đầu kiếm được lợi nhuận khá lớn trong suốt thập kỷ 80, trong khi các hiệp hội ngành bị phá sản và thu nhập của tầng lớp lao động trung bình thì không hề thay đổi.
Nhưng bằng cách hứa hẹn sẽ đứng về phía những người làm việc chăm chỉ, tuân thủ luật pháp, quan tâm chăm sóc gia đinh và có tinh thần yêu nước, Reagan đem lại cho người Mỹ cảm giác chung là phe tự do không còn đoàn kết nữa. Nên khi đội quân phê bình ông càng chê bai nhiều thì họ càng lún sâu vào vai diễn ông dành cho họ - một nhóm thượng lưu chính trị xa cách, chỉ thích đánh thuế và chi tiêu và luôn đổ lỗi cho đất nước.
***
ĐIỀU ĐÁNG CHÚ Ý với tôi không phải là hiệu quả tức thời của công thức chính trị mà Reagan tạo ra, mà là hiệu ứng lâu dài từ những bài phát biểu của ông. Mặc dù đã 40 năm trôi qua, nhưng sự hỗn loạn của thập kỷ 60 và hậu quả dữ dội của nó vẫn còn ảnh hưởng đến các diễn văn chính trị ngày nay. Phần nào đó nó cho thấy nhưng người trưởng thành vào thập kỷ 60 có ấn tượng rất sâu sắc về mâu thuẫn xã hội lúc đó, và họ coi cuộc tranh luận trong thời kỳ này không chỉ đơn giản là xung đột chính trị mà còn là sự lựa chọn của mỗi cá nhân, qua đó hình thành cá tính riêng biệt và quan điểm về đạo đức của mỗi người.
Tôi nghĩ nó cũng cho ta thấy rõ một sự thật là những vấn đề bức bối nhất của thập kỷ 60 đã không bao giờ được giải quyết triệt để. Cơn thịnh nộ phản văn hóa đã dần dần biến thành chủ nghĩa tiêu dùng, lựa chọn phong cách sống, sở thích âm nhạc chứ không phải thành những cam kết chính trị. Những vấn đề về sắc tộc, chiến tranh, nghèo đói, vai trò của đàn ông và phụ nữ vẫn còn y nguyên.
Có lẽ điều này có liên hệ gì đó với thế hệ Bùng nổ dân số[32] - một lực lượng dân số khổng lồ đã tạo ra lực đẩy đối với chính trị không thua gì lực đẩy trong các lĩnh vực khác, từ thi trường thuốc Viagra cho đến số lỗ để các (ly) mà các nhà sản xuất ô tô chế tạo thêm vào trong mỗi chiếc xe.
Dù lý do gì đi nữa thì sau nhiệm kỳ tổng thống của Reagan, ranh giới tư tưởng giữa đảng Dân chủ và đảng Cộng hòa, giữa phe tự do và phe bảo thủ ngày càng rõ nét. Tất nhiên, điều này hoàn toàn đúng với những vấn đề nóng bỏng như chính sách vì người thiểu số, tội phạm, phúc lợi, nạo phá thai và cầu nguyện trong trường học[33] - những vấn đề có nguồn gốc từ cuộc xung đột thời kỳ trước. Không chỉ thế, giờ đây nó còn đúng với mọi vấn đề khác, dù lớn hay nhỏ, đối nội hay đối ngoại, tất cả đều được quy thành phải lựa chọn quan điểm bên này hay bên kia, phản đối hay ủng hộ, rất ngắn gọn. Chính sách kinh tế không còn là đánh đổi giữa hai mục tiêu đối lập: hiệu quả hay công bằng, tức là vấn đề tăng quy mô cái bánh và phân chia từng miếng bánh. Giờ đây bạn phải là người ủng hộ tăng thuế hay giảm thuế, thích chính phủ gọn nhẹ hay chính phủ cồng kềnh. Chính sách môi trường không còn là cân bằng hoạt động khai thác hợp lý tài nguyên thiên nhiên với nhu cầu của nền kinh tế hiện đại, bạn phải ủng hộ tự do phát triển kinh tế, khoan thăm dò, khai thác mỏ v.v... hoặc bạn phải ủng hộ thói quan liêu làm ngăn cản quá trình phát triển. Thái độ đơn giản, thẳng thắn là ưu điểm trong chính trị, nếu không muốn nói là cả trong chính sách.
Đôi khi tôi nghi ngờ rằng ngay cả nhưng người lãnh đạo đảng Cộng hòa - những người kế nhiệm của Reagan - cũng không hoàn toàn thoải mái với con đường chính trị lúc đó. Những bài phát biểu chia rẽ và quan điểm chính trị giận dữ của George H. W. Bush và Bob Dole luôn có vẻ gượng gạo - đó chỉ là cách họ cắt bớt lực lượng bỏ phiếu của đảng Dân chủ, nhưng hoàn toàn không phải là cách quản lý đất nước.
Nhưng đối với thế hệ những người bảo thủ trẻ hơn và sớm có quyền lực sau này, đối với Newt Gingrich và Karl Rove, Grover Norquist và Ralph Reed, những bài phát biểu hung hăng không đơn thuần là một chiến dịch vận động thông thường. Họ là những người thực sự tin vào những gì họ nói, dù là "không đề xuất thêm thuế mới" hay "chúng ta là một quốc gia Thiên chúa giáo". Trong thực tế. với triết lý cứng rắn, phong cách phá-và-đốt và thái độ cường điệu quá mức những quan ngại, những nhà lãnh đạo bảo thủ mới gợi nhớ rất nhiều đến những vị lãnh đạo Cánh tả mới của thập niên 60. Và cùng với các đồng nhiệm cánh tả những nhân vật hàng đầu mới trong cánh hữu cũng coi chính trị như một cuộc đấu, không chỉ là giữa các quan điểm chính trị mà còn là giữa cái thiện và cái ác. Thành viên cả hai đảng bắt đầu đưa ra những bài kiểm tra quan điểm, xây dựng danh mục những thứ được coi là chính thống. Tất cả những điều này khiến cho một thành viên đảng Dân chủ còn đang băn khoăn về nạn phá thai trở nên ngày càng đơn độc và bất cứ đảng viên Cộng hòa nào còn ủng hộ kiểm soát súng cũng hoàn toàn bị bơ vơ. Trong cuộc chiến kiểu Mani[34] này, thỏa hiệp lại trở thành nhu nhược và sẽ bị trừng phạt hoặc thanh trừng. Hoặc anh ủng hộ chúng tôi, hoặc anh chống lại chúng tôi. Anh phải chọn một trong hai phía.
Đóng góp nổi bật của Clinton là ông đã cố gắng vượt qua sự bế tắc về tư tưởng, ông nhận thấy việc dán mác “bảo thủ” hoặc “tự do” không chỉ có lợi cho đảng Cộng hòa mà việc phân chia như vậy cũng không giúp giải quyết được nhưng khó khăn mà chúng ta đang gặp phải.
Đôi khi trong chiến dịch vận động đầu tiên của ông, những cử chỉ của ông đối với những cử tri Dân chủ ủng hộ Reagan[35] có vẻ rất rõ ràng và khó coi (điều gì đã xảy ra với Sister Souljah[36]?) hoặc máu lạnh một cách đáng sợ (cho phép tiến hành án tử hình đối với một tù nhân đã bị tổn thương não ngay vào đêm có một cuộc bầu cử sơ bộ quan trọng). Trong hai năm đầu làm tổng thống, hẳn ông đã bị buộc phải từ bỏ một số nội dung hành động cơ bản trong cương lĩnh của mình như chăm sóc y tế cho mọi người, đầu tư mạnh mẽ vào giáo dục đào tạo - do đó hướng đi trong dài hạn hoàn toàn bị đảo lộn, khiến cho nhưng gia đình lao động ngày càng khó khăn.
Nhưng về bản năng ông vẫn hiểu sai lầm của những lựa chọn đưa ra cho người Mỹ, ông thấy các quy định luật pháp và chi tiêu của chính phủ, nếu được xây dựng một cách đúng đắn, thì sẽ đóng vai trò quan trọng giúp tăng trưởng - chứ không cản trở kinh tế, đồng thời quy luật thị trường và tài khóa có thể giúp nâng cao công bằng xã hội. Ông nhận thấy để chống nghèo đói thì không chỉ cần trách nhiệm của toàn xã hội mà còn phải có cả trách nhiệm của từng cá nhân. Trong cương lĩnh - nếu chưa muốn nói là trong quan điểm chính trị hàng ngày của ông - thì quan điểm Con đường thứ ba[37] đã vượt ra ngoài sự thỏa hiệp. Nó đánh thẳng vào thái độ thực dụng, phi chính trị của đa phần người Mỹ.
Thực tế là các chính sách của Clinton vào cuối nhiệm kỳ tổng thống - là những tiến bộ đáng kể nếu căn cứ trên mục tiêu khiêm tốn của chúng - đã được sự ủng hộ rộng rãi của xã hội. Xét về chính trị, ông đã loại bỏ một số sự thái quá của phe Dân chủ khiến cho đảng này không thể thắng cử. Mặc dù kinh tế tăng trưởng vượt bậc, nhưng ông đã không thể chuyển những chính sách được ưa chuộng thành một cái gì đó tương tự như liên minh cầm quyền. Điều đó chứng tỏ rằng đảng Dân chủ đang phải đối mặt với những khó khăn liên quan đến vấn đề nhân khẩu (cụ thể là dân số tăng chủ yếu ở các bang theo đảng Cộng hòa thủ cựu ở miền Nam), còn đảng Cộng hòa thì đang có lợi thế về cơ cấu ở Thượng viện, với hai phiếu của hai Thượng nghị sỹ Cộng hòa của bang Wyoming - dân số 493.782 người - cũng có giá trị ngang bằng với hai phiếu của hai Thượng nghị sỹ Dân chủ của bang California, bang có số dân lên tới 33.871.648 người[38].
Nhưng thất bại đó cũng chứng minh được năng lực của Gingrich, Rove, Norquist và những người khác, họ đã củng cố và thể chế hóa được xu hướng bảo thủ. Họ huy động được nguồn tài chính không giới hạn của các doanh nghiệp và nhà tài trợ giàu có, xây dựng được một mạng lưới các chuyên gia cố vấn và phương tiện thông tin đại chúng. Họ sử dụng những công nghệ hiện đại để thu hút cử tri, và tập trung quyền lực ở Hạ viện để tăng sức mạnh của đảng.
Và họ hiểu rằng Clinton sẽ đe dọa vị thế đa số của phe bảo thủ ở Thượng viện trong dài hạn, điều đó giải thích tại sao họ nhiệt tình bám sát ông. Đó cũng là nguyên nhân khiến họ bỏ rất nhiều thời gian để chỉ trích đạo đức của Clinton vì nếu như các chinh sách của ông ít mang tính cấp tiến thì cuộc sống riêng của ông (bản thảo cuốn tự truyện, hút cần sa, sùng bái lvy League[39], người vợ không ở nhà làm nội trợ, và nhất là vụ bê bối tình ái) lại là một mớ những bằng chứng hoàn hảo đối với phe bảo thủ. Với sai lầm cá nhân lặp lại nhiều lần, lối sống phóng túng và cuối cùng là những bằng chứng sa ngã không thể chối cãi, Clinton mang đầy đủ những nét tiêu biểu của phong trào tự do thập kỷ 60 - những đặc trưng đã góp phần đưa xu thế bảo thủ lên vị trí thượng phong. Clinton có thể đã cầm hòa được trong cuộc chiến với phe bảo thủ[40], nhưng rồi chủ nghĩa bảo thủ lại trở lại mạnh mẽ hơn - và trong nhiệm kỳ đầu của George W. Bush, nó đã chi phối toàn bộ chính phủ Mỹ.
***
TÔI BIẾT LÀ tôi đã mô tả lịch sử quá tóm tắt. Tôi đã bỏ qua những điểm then chốt như sự suy giảm của ngành chế tạo và việc Reagan sa thải các kiểm soát viên không lưu[41] đã làm tôn thương nghiêm trọng người lao động Mỹ; sự ra đời của khu vực bỏ phiếu đa số - thiểu số ở các bang miền Nam giúp đảm bảo có thêm người da đen có thêm đại diện, đồng thời từng làm giảm số ghế của đảng Dân chủ ở những bang này ; việc các đảng viên Dân chủ trong Quốc hội - những người đã trở nên béo ú, tự mãn, không biết mình đang tham gia một cuộc chiến chính trị - không chịu hợp tác với Clinton. Câu chuyện của tôi cũng không nói đến sự gia tăng gian lận phiếu bầu đã gây phân hóa Quốc hội đến mức nào, hay tiền và các quảng cáo đả kích trên truyền hình đã đầu độc bầu không khí xã hội nhanh chóng ra sao.
Nhưng mỗi khi nghĩ đến những lời nói của ông nghị sỹ già ở Washington tối hôm đó, những gì George Kennan hay George Marshal đã làm, hay khi đọc lại những bài diễn văn của Bobby Kennedy hoặc Everett Dirksen, tôi không khỏi có cảm giác nền chính trị hiện tại đang rơi vào bế tắc. Với những nhân vật này, những vấn đề mà nước Mỹ từng gặp phải không hề trừu tượng, và do đó không bao giờ đơn giản.
Chiến tranh có thể là địa ngục, nhưng vẫn cần phải tiến hành. Nền kinh tế có thể sụp đổ cho dù kế hoạch đưa ra rất hay. Con người có thể làm việc vất vả cả đời rồi lại mất tất cả.
Thế hệ lãnh đạo tiếp sau đó, lớn lên trong điều kiện tương đối sung sướng hơn, có kinh nghiệm sống khác, do đó cũng có thái độ khác đối với chính trị. Trong cuộc đối đầu giữa Clinton và Gingrich cũng như hai cuộc bầu cử năm 2000 và 2004, đôi khi tôi có cảm giác mình đang chứng kiến một vở kịch tâm lý của thế hệ Bùng nổ dân số - một câu chuyện bắt nguồn từ những mối thù cũ và âm mưu trả thù diễn ra ở một số trường đại học từ đã rất lâu - nay lại được tái diễn trên vũ đài quốc gia. Những thắng lợi mà thế hệ thập niên 60 giành được như thừa nhận quyền công dân đầy đủ của người thiểu số và phụ nữ, mở rộng quyền tự do cá nhân, mong muốn chất vấn giới cầm quyền đã khiến cho nước Mỹ trở nên tốt đẹp hơn nhiều. Nhưng trong quá trình đó, có những điều bị mất đi, bị thay thế - đó là niềm tin và tình đồng đội, những giá trị kéo chúng ta lại gần nhau với tư cách cùng là công dân Mỹ.
Thế kết quả là chúng ta đang ở đâu? Về lý thuyết, đảng Cộng hòa cũng có thể có một người như Clinton - một lãnh tụ trung hữu cũng theo quan điểm tài khóa bảo thủ của Clinton, nhưng sẽ hăng hái chấn chỉnh bộ máy quan liêu của liên bang, tiến hành thử nghiệm giải pháp dựa vào thị trường hoặc tín ngưỡng cho các chính sách xã hội. Và thực tế một người như vậy có thể sẽ xuất hiện. Không phải tất cả những quan chức được bầu của đảng Cộng hòa đều tán thành các nguyên lý của phong trào bảo thủ hiện nay. Ở cả Thượng viện, Hạ viện và các thủ phủ bang trên cả nước, luôn có nhưng người trung thành với giá trị truyền thống của tính ôn hòa và thận trọng - họ hiểu rằng cắt giảm thuế đối với người giàu là vô trách nhiệm, không thể giảm tâm hụt ngân sách trên lưng người nghèo, tách biệt nhà thờ và nhà nước sẽ tốt cho cả hai, bảo vệ môi trường và chủ nghĩa bảo thủ không xung đột với nhau, và các chính sách ngoại giao nên dựa trên thực tế thay vì mơ tưởng.
Nhưng những người Cộng hòa này không phải là người dẫn dắt cuộc tranh luận trong sáu năm qua. Đặc trưng của ý thức cốt lõi của đảng Cộng hòa ngày nay không phải “chủ nghĩa bảo thủ nhân ái” mà George Bush hứa hẹn trong chiến dịch tranh cử năm 2000 mà là chủ nghĩa chuyên chế. Đó là tư tưởng tôn sùng thị trường tự do, không thuế, không luật pháp, không mạng lưới an sinh xã hội - thực chất là không có chính phủ, chỉ có những gì cần thiết để bảo vệ tài sản cá nhân và bảo đảm an ninh quốc gia.
Đó còn là tư tưởng tôn sùng Thiên chúa giáo, một phong trào gây thu hút nhờ gắn với vấn đề vô cùng phức tạp là nạo phá thai, nhưng chẳng bao lâu mở rộng ra nhiều vấn đề khác; phong trào này không chỉ khẳng định Thiên chúa giáo là tín ngưỡng chủ đạo của nước Mỹ mà còn cho rằng quan điểm Thiên chúa giáo bảo thủ cực đoan[42] nên đóng vai trò định hướng chính sách công. Quan điểm này không đếm xỉa đến bất cứ phương pháp tri giác nào khác, dù đó là tác phẩm của các nhà thần học phe tự do, thành tựu của Học viện Khoa học quốc gia hay những điều Thomas Jefferson đã nói.
Và đó còn là niềm tin tuyệt đối vào quyền lực của ý chí đa số, hay ít nhất là của những người đòi quyền lực nhân danh đa số - khinh thường các thế lực cản trở (tòa án, Hiến pháp, báo chí, Hiệp định Geneva, các quy định của Thượng viện hay những truyền thống đang chi phối việc phân chia lại khu vực bầu cử) có thể khiến cho cuộc hành hương kiên quyết của chúng ta về New Jerusalem bộ chậm lại.
Dĩ nhiên, cũng có những người thuộc đảng Dân chủ có xu hướng quá khích tương tự. Nhưng nhưng người đó chưa bao giờ có được quyền lực như Rove hoặc DeLay. Đó là thứ quyền lực có thể chi phối toàn bộ đảng, đưa vào đảng toàn những người trung thành, biến những ý tưởng cực đoan của họ thành luật. Khác biệt về vùng miền, sắc tộc và kinh tế trong nội bộ đảng, bản đồ bầu cử, cơ cấu Thượng viện, nhu cầu vận động các đại gia kinh tế tài trợ cho chiến dịch tranh cử - những điều này làm cho các đảng viên Dân chủ trong Thượng viện không đi quá xa khỏi mục đích chính. Trong thực tế, tôi chỉ biết một vài Thượng nghị sỹ Dân chủ hoàn toàn giống với nhưng bức biếm hoạ về phe tự do - những người gần nhất tôi biết, đó là John Kerry tin vào việc duy trì sức mạnh vượt trội của quân đội Mỹ, Hillary Clinton tin vào ưu điểm của chủ nghĩa tư bản, và gần như tất cả các thành viên của Khối Dân biểu da đen đều tin là chúa lesus đã chết để cứu rỗi cho họ.
Chúng tôi, những đảng viên Dân chủ, ngược lại, chỉ thấy bối rối. Vẫn có những người đấu tranh cho tôn giáo cũ, bảo vệ chương trình Chính sách Kinh tế xã hội mới và Chương trình Xã hội[43] trước sự tấn công của đảng Cộng hòa, và được các nhóm tự do có lợi ích liên quan ủng hộ hoàn toàn. Nhưng các nỗ lực này có vẻ ngày càng suy giảm, nó như một cuộc chiến tự vệ dài vô tận, ngày càng mất dần đi năng lượng và ý tưởng mới trước những thay đổi liên tục trong môi trường toàn cầu hóa hoặc ở một khu phố cũ biệt lập. Những người khác theo đuổi một thái độ ôn hòa hơn vì họ thấy rằng chừng nào còn muốn thỏa hiệp với lãnh đạo phe bảo thủ thì họ cũng phải cư xử có chừng mực - và họ không nhận thấy rằng cứ sau một năm họ lại từ bỏ đi thêm vài nguyên tắc của mình. Từng người một, các đại biểu lập pháp cũng như các ứng cử viên thuộc đảng Dân chủ đưa ra một loạt các ý tưởng mới nhưng thận trọng, về năng lượng, giáo dục, y tế, quốc phòng, kỳ vọng rằng tất cả các ý tưởng đó hợp lại sẽ tạo thành một thứ gần như là một triết lý cầm quyền.
Tuy nhiên, đảng Dân chủ nhìn chung đã trở thành một đảng chỉ có hành động mang tính phản ứng. Trước một cuộc chiến tranh đang ngày càng tồi tệ, đảng chúng ta tỏ ra nghi ngờ tất cả những gì quân đội làm. Trước lời tuyên bố của một số người là thị trường sẽ giải quyết được hết mọi vấn đề, đảng chúng ta liền chống lại những nỗ lực sử dụng các nguyên lý thị trường để khắc phục các vấn đề đang cấp bách.
Trước sự quá đà của tôn giáo, đảng chúng ta đánh đồng lòng khoan dung với chủ nghĩa thế tục và đánh mất thứ ngôn ngữ đạo đức đem lại ý nghĩa rộng hơn cho các chính sách. Chúng ta đã thua trong cuộc bầu cử và hy vọng tòa án sẽ ngăn chặn kế hoạch của phe Cộng hòa.
Chúng ta thua tiếp ở tòa án và lại chờ đợi sẽ có bê bối ở Nhà Trắng, và càng ngày chúng ta càng cảm thấy có nhu cầu gắn phe Cộng hòa với những âm mưu hết sức ghê gớm. Cách lý giải được thừa nhận, chi phối rất nhiều nhóm ủng hộ và các nhà hoạt động của đảng Dân chủ hiện nay thường tương tự như sau: Đảng Cộng hòa có thể liên tục giành được chiến thắng trong các cuộc bầu cử không phải nhờ mở rộng lực lượng ủng hộ mà bằng việc gièm pha phe Dân chủ, chia rẽ cử tri, kích động phe cánh hữu của mình và trừng phạt những người đi quá xa quan điểm của đảng. Nếu đảng Dân chủ muốn lấy lại quyền lực thì sẽ phải làm những việc tương tự mới thành công.
Tôi hiểu sự thất vọng của những người đó. Khả năng giành thắng lợi liên tục chỉ nhờ những chiến dịch chia rẽ của đảng Cộng hòa thật quá ấn tượng. Tôi nhận thấy sự nguy hiểm từ tính xảo quyệt, tinh vi trên gương mặt nhiệt tình của phong trào bảo thủ. Và ít nhất là đối với tôi có thể dẫn ra một loạt chính sách của chính quyền Bush để chứng minh thái độ phẫn nộ này là chính đáng.
Tuy nhiên, tôi tin là mọi nỗ lực xây dựng một tính đảng phái rõ nét hơn và chiến lược có ý thức hơn của đảng Dân chủ đều là sự nhầm lẫn về hoàn cảnh hiện tại của chúng ta. Tôi nghĩ rằng mỗi khi chúng ta đánh giá tình trạng này một cách quá cường điệu hay quá bi quan, quá đơn giản hay quá phức tạp, chúng ta đều thất bại. Mỗi khi chúng ta in lặng trong cuộc tranh luận chính trị, chúng ta đều thất bại. Chính vì chúng ta chỉ cố gắng hướng tới một cuộc tranh luận chính trị thuần túy về ý thức, chính thống một cách cứng nhắc và hoàn toàn có thể dự đoán được nên chúng ta không tìm ra được cách nào mới mẻ để giải quyết những khó khăn mà đất nước dang gặp phải. Vì thế, chúng ta bị giam hãm trong cách nghĩ "cái này hay cái kia": quan điểm hoặc có một chính phủ rất lớn, hoặc không có chính phủ; giả định hoặc bỏ mặc 46 triệu người không có bảo hiểm y tế, hoặc phải thực hiện “y tế cho mọi người”.
Cách suy nghĩ giáo điều và tính đảng phái cứng nhắc đó đã khiến người Mỹ quay lưng với chính trị. Đối với cánh hữu đó không phải vấn đề khó khăn; một đội ngũ cử tri bị chia rẽ - dễ dàng phản đối cả hai đảng vì thái độ tranh luận khó chịu, thiếu trung thực - rất hợp với những người đang tìm cách bác bỏ vai trò của chính phủ. Nói cho cùng những cử tri hoài nghi chính là những cử tri ích kỷ.
Còn với chúng ta, nhưng người tin rằng chính phủ đóng vai trò nhất định trong việc mở rộng cơ hội và tăng thu nhập cho mọi người dân Mỹ, thì một lực lượng cử tri riêng biệt là chưa đủ. Cần phải có một đa số đông đảo hơn - phe Dân chủ, phe Cộng hòa, phe trung lập có thiện chí - những người đang trở lại với công cuộc đổi mới đất nước, những người nhận thấy rằng lợi ích của họ không thể tách rời khỏi lợi ích của những người xung quanh.
Tôi không hề có ảo tưởng rằng xây dựng một nhóm đa số như vậy sẽ dễ dàng. Nhưng đó là việc chúng ta phải làm, chính vì giải quyết những khó khăn của nước Mỹ là một nhiệm vụ rất gian nan. Nó đòi hỏi phải đưa ra những lựa chọn khó khăn, nó đòi hỏi chúng ta phải hy sinh. Nếu các nhà lãnh đạo chính trị không cởi mở lắng nghe cả những ý tưởng mới chứ không chỉ những đề nghị mới thì chúng ta sẽ không thể thuyết phục được đủ người có tâm huyết để đưa ra một chính sách tích cực hay giải quyết được những thiếu hụt. Chúng ta sẽ không có được sự ủng hộ rộng rãi để theo đuổi một chính sách đối ngoại đáp ứng được những thách thức của toàn cầu hóa hay chống chủ nghĩa khủng bố mà không bị rơi vào chủ nghĩa biệt lập hay làm xói mòn quyền tự do của công dân. Chúng ta sẽ không có khả năng chỉnh đốn hệ thống y tế. Và chúng ta sẽ không có sự ủng hộ rộng rãi về mặt chính trị hay những chiến lược hiệu quả để đưa được nhiều người ra khỏi tình trạng đói nghèo.
Tôi đã viết những điều này trong bức thư gửi Daily Kos - một blog có xu hướng cánh tả - vào tháng 9/2005, sau khi nhiều nhóm ủng hộ và các nhà hoạt động đã chĩa mũi dùi vào một số đồng nghiệp Dân chủ của tôi vì đã bỏ phiếu ủng hộ bổ nhiệm thẩm phán Tòa án Tối cao John Roberts. Nhân viên của tôi hơi lo lắng về ý tưởng này; vì tôi đã bỏ phiếu phản đối bổ nhiệm Roberts nên họ nghĩ rằng không có lý gì tôi lại động vào phe to mồm trong đảng Dân chủ. Nhưng tôi đánh giá cao tính cho-và-nhận của blog đó, và sau khi bức thư của tôi được đăng hơn sáu trăm người đã để lại lời bình luận - rất đúng kiểu dân chủ. Có người đồng ý với tôi. Những người khác cho rằng tôi lý tưởng hóa quá, rằng kiểu làm chính trị mà tôi đưa ra sẽ không thể chống lại được cổ máy vận động của đảng Cộng hòa. Có khá nhiều ý tưởng hay ho cho rằng tôi được nhóm thượng lưu ở Washington cử đến để giải quyết bất đồng trong đội ngũ lập pháp, hoặc tôi đã ở Washington quá lâu, một thời gian dài không tiếp xúc với những người Mỹ bình thường, hoặc - như một blogger nhận xét sau đó - tôi đơn giản là một kẻ ngu ngốc.
Cũng có thể những người phê bình đó đã đúng. Có lẽ không có cách nào giải quyết được chia rẽ sâu sắc về chính trị, va chạm bất tận giữa các nhóm người, và mọi nỗ lực để thay đổi quy tắc ràng buộc đều là vô nghĩa. Hoặc cũng có thể chính trị đã bị tầm thường hóa đến mức không thể trở lại được như cũ, vì thế đa phần mọi người bây giờ đều xem chính trị như một trò tiêu khiển, một môn thể thao, trong đó các chính trị gia là các đấu sỹ bụng phệ, còn những người vẫn duy trì mối quan tâm đến họ thì là cổ động viên của mỗi bên. Chúng ta vẽ lên mặt màu đỏ hoặc màu xanh, hò hét cổ vũ bên này, la ó chế giễu bên kia, và nếu cần cản người trái phép hay giả vờ ngã để đánh bại bên kia thì cứ làm, không cần do dự, vì quan trọng nhất là giành được chiến thắng.
Nhưng tôi không nghĩ thế, tôi tự nhủ, ngoài kia là những công dân bình thường, lớn lên giữa những cuộc chiến chính trị và văn hóa, nhưng đã tìm ra cách - ít nhất là cho riêng họ - để chung sống hòa bình với hàng xóm và với chính bản thân. Tôi tưởng tượng có một người da trắng miền Nam lớn lên với câu chuyện của bố rằng bọn da đen thế này thế nọ, nhưng lại kết bạn với những người da đen ở nơi làm việc, và dạy con trai anh ta khác những điều anh ta được bố dạy, anh ta nghĩ kỳ thị chủng tộc là sai, nhưng không hiểu tại sao con trai của một vị bác sỹ da đen lại được nhận vào trường luật trước con trai mình. Hoặc một cựu thành viên đảng Báo đen quyết định bước vào ngành bất động sản, anh ta mua một vài ngôi nhà gần nhau rồi sau đó cảm thấy ngán ngẩm bọn bán ma túy ngay trước nhà mình y hệt như anh ta đã ngán ngẩm mấy tay chủ ngân hàng không cho anh ta vay tiền để mở rộng kinh doanh. Còn có một nhà hoạt động nữ quyền ở tuổi trung niên vẫn đau khổ vì cô ta đã nạo thai khi ở tuổi thiếu niên, và có hàng triệu những nữ nhân viên phục vụ bàn, thư ký tạm thời, hộ lý, nhân viên thu ngân ở siêu thị Wal-Mart hàng tháng vẫn ním thở hy vọng rằng họ kiếm được đủ tiền để nuôi những đứa con do chính họ sinh ra.
Tôi tưởng tượng ra cảnh họ đang chờ đợi một nền chính trị chín chắn, cân bằng giữa lý tưởng và thực tế, để phân biệt được vấn đề gì có thể thỏa hiệp được và vấn đề gì không thể, để biết thừa nhận rằng đôi khi phe đối lập cũng đúng. Không phải lúc nào họ cũng hiểu những lý lẽ của cánh tả và cánh hữu, phe bảo thủ và phe tự do, nhưng họ lại biết sự khác biệt giữa tín điều và lẽ phải, giữa có trách nhiệm và vô trách nhiệm, giữa những điều sẽ tồn tại mãi mãi và những thứ chỉ lướt qua.
Đám đông đó vẫn ở ngoài kia, chờ đợi đảng Cộng hòa và đảng Dân chủ biết được mong muốn của họ.