Hồng Lâu Mộng

Hồi thứ sáu mươi tư

Giả Dung thấy mọi việc thu xếp đã ổn, liền chạy đến chùa trình với Giả Trân. Ngay đêm đó, các người coi việc được cắt đặt, các thứ cần dùng được sắp sẵn như cờ phướn để chọn đến giờ mão ngày mồng bốn là rước linh cữu vào thành; mặt khác cho người đi báo tang các nhà bạn bè thân thích. Hôm ấy đám ma linh đình, khách khứa tấp nập, từ chùa Thiết Hạm đến phủ Ninh, đứng xem ở hai bên đường kể có mấy vạn người. Trong đám, có người than thở; có người khen ngợi; lại có bọn thầy đồ dở hơi, bảo là “lễ nên tiết kiệm hơn là xa xỉ, tang nên thương xót hơn là linh đình”. Trên đường mỗi người bàn mỗi cách. Đến khoảng giờ mùi, giờ thân mới rước linh cữu vào gian giữa. Tế viếng xong, bạn bè dần dần ra về, chỉ còn những người trong họ ở lại tiếp khách. Bà con gần chỉ có ông cậu họ Hình ở lại chưa về.

Giả Trân, Giả Dung bị lễ pháp ràng buộc, cũng phải nằm cỏ, gối đất ở cạnh linh cữu, buồn rầu chịu tang. Nhưng khi vắng người, họ lại lẻn vào trong nhà dan díu với hai dì. Bảo Ngọc ngày nào cũng mặc đồ tang sang phủ Ninh, đến chiều vắng người mới về trong vườn. Phượng Thư tuy người chưa được khỏe, không đến luôn được, nhưng gặp những ngày lập đàn tụng kinh hay bạn bè đến tế viếng, cũng cố gượng đến giúp đỡ công việc cho Vưu thị.

Một hôm, cúng cơm sớm xong, vì ngày dài, Giả Trân mấy ngày nhọc mệt, phải nằm chợp mắt ở cạnh linh cữu. Bảo Ngọc thấy không có khách, muốn về nhà thăm Đại Ngọc, liền đi về viện Di Hồng. Vào đến cửa, thấy trong nhà vắng tanh, có mấy bà già và a hoàn nhỏ ngồi hóng mát ở ngoài hiên, có người nằm ngủ, có người ngủ gật. Bảo Ngọc cũng không muốn gọi họ dậy. Chỉ có con Tư trông thấy vội chạy đến vén rèm. Ngay lúc ấy Phương Quan từ trong nhà cười chạy ra, suýt nữa đâm sầm vào Bảo Ngọc. Vừa trông thấy Bảo Ngọc, Phương Quan mỉm cười đứng lại hỏi:

Sao cậu lại về? Cậu cản ngay chị Tình Văn lại cho tôi. Chị ấy định đánh tôi đấy!

Nói chưa dứt lời, thấy trong nhà có tiếng loảng xoảng, không biết là vỡ cái gì. Sau thấy Tình Văn chạy đến mắng ầm lên:
Tao xem con ranh con này chạy đến đâu nào? Thua mà lại không cho đánh à? Cậu

Bảo không ở nhà, tao xem ai cứu mày?

Bảo Ngọc vội ngăn lại cười nói:

Em chị còn bé, không biết có lỗi gì với chị, thôi hãy nể tôi tha cho nó! Tình Văn không ngờ Bảo Ngọc đã về, trông thấy bật cười, nói:
Phương Quan là con yêu tinh hiện ra đấy! Dù nó biết phù phép hô thần, sai tướng cũng không nhanh được như thế!
Lại cười nói:

Mày có hô thần về đây tao cũng không sợ!

Tình Văn liền giằng tay định túm lấy Phương Quan, nhưng nó đã luồn ra đằng sau,

ôm lấy Báo Ngọc. Bảo Ngọc một tay nắm lấy Tình Văn, một tay giữ Phương Quan.

Lúc đi vào thấy Xạ Nguyệt, Thu Văn, Bích Ngân, Xuân Yến đương ngồi đánh chắt ở

giường bên tây, ai được thì ăn hạt dưa. Vì Phương Quan thua Tình Văn, không chịu

cho đánh và bỏ chạy, Tình Văn chạy đuổi theo Phương Quan, nên những hòn chắt

trong người đều rơi xuống đất.

Bảo Ngọc cười nói:

Ngày dài thế này, tôi phải đi vắng, sợ các chị buồn, nếu ăn xong đi ngủ ngay sẽ sinh bệnh. Bây giờ các chị bày ra trò chơi này để tiêu khiển thì hay lắm.
Không thấy Tập Nhân đâu, Bảo Ngọc hỏi:

Chị Tập Nhân đi đâu?

Chị ấy à? Đạo mạo lắm rồi, đương ngồi “nhập định” ở trong nhà đấy. Từ nãy đến giở, chúng tôi không vào, không biết chị ấy làm cái gì, chẳng nghe tăm hơi gì cả. Cậu vào mà xem, hay là đã “ngộ đạo” rồi cũng chưa biết chừng.
Bảo Ngọc nghe nói, vừa cười chạy vào trong nhà, thấy Tập Nhân đương ngồi ở giường trước cửa sổ, tay còn tết một sợi dây đen. Thấy Bảo Ngọc vào, liền đứng dậy cười nói:

Con Tình Văn đã đơm đặt gì tôi đấy? Vì tôi phải tết vội cho xong cái dây này, không có thì giờ đi chơi phiếm với họ, nên nói dối là các chị cứ chơi đi, được lúc cậu Hai đi vắng, tôi muốn ngồi dưỡng thần ở trong này một lúc. Thế mà nó lại lem lém cái mồm những “nhập định” và “ngộ đạo” gì gì ấy. Để lúc nữa tôi sẽ xé miệng nó ra mới được!

Bảo Ngọc cười, ngồi sát vào Tập Nhân xem tết dây, rồi hỏi:

Ngày dài thế này, chị cũng nên nghỉ ngơi, hay là chơi đùa với họ, nếu không cũng nên sang thăm cô Lâm. Trời nóng thế mà ngồi tết cái này, chị định để làm gì đấy?
Tập Nhân nói:

Tôi thấy cái dây quạt cậu đeo vẫn là cái dây tết từ ngày có đám tang mợ Dung bên phủ Đông năm trước. Chỉ người trong họ hoặc bạn thân có tang vào mùa hạ mới đeo cái dây xanh kia, tình cờ gặp việc thì một năm đeo một vài lần thôi, chứ lúc thường không cần đeo. Bây giờ bên phủ ấy lại có việc, cậu ngày nào cũng phải sang, nên tôi mới tết vội cái khác cho cậu đeo. Tết xong sẽ đem thay cái cũ. Cậu thì không hay để ý đến việc này, nhưng sợ khi cụ về trông thấy, lại bảo là chúng tôi lười nhác, đến cả những thứ mặc, thứ đeo của cậu cũng không để ý đến.

Bảo Ngọc cười nói:

Thật chị nghĩ chu đáo quá. Nhưng cũng không nên vội, nếu chị cảm nóng lại ra to việc.
Nói xong Phương Quan bưng đến một chén trà mới ngâm ở trong nước lạnh ra. Vì Bảo Ngọc người vốn yếu, mùa hè cũng không dám dùng nước đá, chỉ lấy nước giếng mới múc lên, đem ngâm cả ấm nước trà vào trong chậu, cứ thế thay đổi để cho có hơi mát thôi. Bảo Ngọc cầm lấy chén nước ở tay Phương Quan uống một nửa rồi quay lại bảo Tập Nhân:

Khi tôi về đã dặn Bồi Dính, nếu bên anh Trân có khách sang đến viếng, phải về báo tôi ngay. Không có việc gì cần, tôi sẽ không sang nữa.
Nói xong ra khỏi buồng, quay lại bảo bọn Bích Ngân:

Có việc gì, sang bên cô Lâm tìm tôi.

Bảo Ngọc đi thẳng đến quán Tiêu Tương thăm Đại Ngọc.

Khi gần đến cầu Thấm Phương, thấy Tuyết Nhạn dẫn hai bà già mang theo củ ấu, ngó sen và mấy quả dưa, Bảo Ngọc hỏi Tuyết Nhạn:
Xưa nay cô Lâm không ăn những thứ mát bao giờ, mang dưa ấu ấy về làm gì? Hay là định mời mợ nào, cô nào đấy?
Tuyết Nhạn cười nói:

Tôi nói cho cậu nghe, nhưng cậu không được kể lại với cô tôi.

Bảo Ngọc gật đầu nhận lời.

Tuyết Nhạn bảo hai hà già:

Mang những thứ dưa ấu này đi trước, giao cho chị Tử Quyên, nếu chị ấy hỏi, thì bà bảo tôi còn bận một tý, rồi về ngay.
Bà già nhận lời đi. Tuyết Nhạn mới nói:

Hai hôm nay cô tôi mới thấy người dễ chịu. Hôm nay ăn xong, cô Ba đến rủ đi thăm mợ Hai, cô tôi không đi. Sau không thiết nghĩ đến việc gì, ngồi khóc một lúc, rồi cầm bút viết khá nhiều, không biết là thơ hay từ. Lúc sai tôi đi lấy dưa lấy ấu lại thấy sai chị Tử Quyên cất những thứ ở trên cái bàn nhỏ trong nhà đi, đem bàn bày ra phía ngoài. Rồi lại sai bày cái đỉnh Long Văn lên bàn, chờ khi mang dưa ấu về sẽ dùng. Nếu bảo là để mời khách, thì không lẽ lại bày lư hương ra trước. Nếu bảo là để thắp hương thì trong nhà cô tôi xưa nay trừ những khi có hoa quả mới ra, cũng vẫn không thích xông quần áo. Dù có thắp hương cũng phải thắp ở nơi mình thường nằm ngồi chứ. Chẳng lẽ vì các bà già nặng hơi, sặc sụa cả nhà mà phải đốt hương xông để át mùi đi hay sao? Rút cục chính tôi cũng chẳng hiểu tại sao cả. Cậu Hai thử đến mà xem.

Bảo Ngọc nghe xong, tự nhiên cúi đầu, trong lòng ngẫm nghĩ: “Cứ theo như lời Tuyết Nhạn, chắc có duyên cớ gì đây. Nếu có chị em nào đến chơi, cũng không cần phải bày biện như thế. Hay là gặp ngày giỗ chú, giỗ cô nào cũng nên? Nhưng mình vẫn nhớ hàng năm đến ngày giỗ ấy, cụ vẫn sai làm cỗ bàn riêng, mang sang cho cô Lâm làm lễ. Những ngày đó thì đã qua rồi. Có lẽ giờ là tháng bảy, mùa có dưa ấu và sen, nhà nào cũng ra mộ làm lễ cúng mùa thu, chắc cô Lâm trong lòng cảm động, nên đặt lễ riêng ở trong nhà, theo ý sách lễ ký “đến mùa xuân mùa thu thì dâng lễ vật trong mùa ấy” cũng chưa biết chừng. Bây giờ ta đến ngay, thấy cô ấy thương cảm, tất phải hết sức khuyên ngăn, sợ cô ấy trong bụng buồn rầu uất ức; không đến lại sợ cô ấy thương cảm quá không có người khuyên ngăn. Cả hai đều có thể làm cho cô ấy sinh ốm. Chi bằng hãy đến thăm chị Phượng, ngồi một lúc rồi về. Nếu thấy cô Lâm thương cảm, sẽ nghĩ cách khuyên giải. Như thế đã không để cho cô ấy đau khổ quá mà lại được hả nỗi đau thương ít nhiều, cũng không đến nỗi đau buồn thành bệnh.

Bảo Ngọc nghĩ xong, cáo từ Tuyết Nhạn, ra ngoài cửa vườn, đi thẳng đến nhà Phượng Thư. Bấy giờ nhiều bà già đến trình việc xong, lần lượt ra về. Phượng Thư đương

đứng dựa cửa nói chuyện với Bình Nhi.

Trông thấy Bảo Ngọc, Phượng Thư cười nói:

Chú đã về đây à? Tôi vừa dặn vợ Lâm Chi Hiếu, sai người đến bảo đứa hầu của chú, nếu không có việc gì thì mời chú về nhà nghỉ. Bên ấy đông người, chú chịu sao được những hơi hướng ấy? Không ngờ chú đã về rồi.
Cám ơn chị nghĩ đến em. Vì hôm nay em rỗi việc, lại thấy hai ngày vừa rồi chị không sang phủ bên kia, không biết chị đã khỏi hẳn chưa, nên đến thăm chị.
Bệnh chị nó cứ lằng nhằng thế thôi, ba ngày khỏe lại hai ngày ốm. Nhân lúc cụ và bà Hai đi vắng, các bà già không người nào chịu yên phận cả. Ngày nào không đánh nhau cũng cãi nhau, và đã xảy ra hai ha việc cờ bạc trộm cắp rồi đấy! Tuy cô Ba có giúp việc, nhưng lại là một cô gái chưa chồng, có việc nói cho cô ấy biết, cũng có việc không thể cho cô ấy biết, đành phải cố gượng làm lấy vậy. Không được một lúc nào trong bụng yên ổn! Đừng nói mong khỏi bệnh, chỉ mong đừng ốm thêm là được rồi.

Tuy chị nói thế, nhưng chị cũng nên giữ gìn sức khỏe đừng lo nghĩ nhiều.

Rồi lại nói mấy câu chuyện phiếm, mới cáo từ Phượng Thư, đi về trong vườn. Khi đến

cửa quán Tiêu Tương, thấy khói hương nghi ngút, rượu lễ sặc mùi. Tử Quyên đương

đứng trông cho người thu dọn bàn và đồ lễ. Bảo Ngọc biết là đã lễ xong, liền chạy vào

trong nhà, thấy Đại Ngọc nằm ngoảnh mặt vào trong, người mệt lử đi, có dáng khó

chịu lắm. Tử Quyên vội nói:

– Cậu Bảo đã đến đấy.

Đại Ngọc mới uể oải ngồi dậy, mỉm cười mời Bảo Ngọc ngồi.

Bảo Ngọc hỏi:

Mấy hôm nay em đã khỏe chưa! Thần sắc xem cũng tỉnh táo đấy, nhưng tại sao lại thương cảm như thế?
Sao anh lại nói như vậy! Tự nhiên vô cớ khi nào em lại thương cảm?

Mặt em hãy còn ngấn nước mắt, sao lại nói dối anh thế? Vì anh nghĩ, thường ngày em vốn là người lắm bệnh, việc gì cũng nên bỏ qua, đừng buồn rầu vô ích. Nếu cứ hủy hoại thân thể như thế, làm cho anh…
Vừa nói đến đấy, thấy khó nói được nữa, liền ngừng lại. Vì Báo Ngọc và Đại Ngọc tuy từ bé đến lớn cùng ở một chỗ với nhau, tính tính cũng hợp nhau, lại muốn sống chết

cùng nhau, điều này chỉ biết riêng trong bụng, chưa từng nói hẳn ra mặt. Xưa nay Đại Ngọc tính hay chấp nhặt, nhỡ mình hấp tấp nói nhầm câu gì sợ lại mang lỗi với cô ta. Hôm nay cốt đến để khyên giải, không ngờ lại nói hấp tấp quá, thành ra không nói được nữa, trong bụng bối rối, lại sợ Đại Ngọc giận. Rồi lại nghĩ bụng, mình cốt cho Đại Ngọc được vui, vì thế lại đâm buồn rầu, ứa nước mắt ra.

Lúc đầu Đại Ngọc giận Bảo Ngọc nói không biết cân nhắc, nhưng trông thấy quang cảnh ấy, lòng cũng cảm động, và xưa nay tính vẫn hay khóc, nên bây giờ cũng lại nhìn nhau mà khóc.

Tử Quyên bưng nước đến, trong bụng đoán hai người này lại có chuyện gì cãi nhau đây, liền nói:
Cô tôi vừa mới hơi đỡ, cậu Bảo lại đến trêu tức rồi. Lại vì chuyện gì như thế? Bảo Ngọc lau nước mắt, cười nói:
Ai dám trêu tức cô em?

Rồi đứng dậy dạo chơi, bỗng thấy dưới nghiên lòi ra một mảnh giấy, liền giơ tay cầm lấy. Đại Ngọc định đứng dậy giật lại, nhưng Bảo Ngọc đã giấu vào trong người, cười nói:

Em ơi, để cho anh xem đã!

Chẳng cứ cái gì, hễ đến là lục bừa ra!

Đại Ngọc vừa nói dứt lời, thì Bảo Thoa chạy đến cười nói:

– Cậu Bảo định xem cái gì đấy!

Bảo Ngọc chưa nhìn thấy trong giấy viết những gì, lại không biết bụng Đại Ngọc thế nào, nên không dám hấp tấp trả lời, chỉ nhìn Đại Ngọc mà cười. Đại Ngọc vừa mời Bảo Thoa ngồi, vừa cười nói:

Tôi từng xem trong sử chép những người con gái có tài, có sắc mà cảnh ngộ suốt đời có nhiều điều làm cho người ta đáng vui, đáng khen, đáng thương, đáng tiếc. Hôm nay ăn cơm xong, rỗi việc, muốn chọn ra mấy người làm mấy bài thơ nhảm để bày tỏ nỗi lòng, vừa hay cô Thám lại đến rủ tôi đi thăm chị Phượng, nhưng tôi thấy người uể oải, không đi với cô ấy. Vừa làm xong được năm bài thơ, mệt quá vứt ra đấy, không ngờ anh Bảo đến trông thấy. Thực ra thì cho anh ấy xem cũng chẳng sao, nhưng tôi chỉ sợ anh ấy lại viết cho người ngoài xem thôi.

Bảo Ngọc vội nói:

Tôi đã đưa cho ai xem bao giờ đâu. Hôm nọ vì tôi thích mấy bài thơ “Bạch hải đường”, nên có viết theo lối chân phương vào cái quạt, cốt để cầm luôn tay xem cho tiện. Tôi lại không biết bút tích thi từ trong khuê các không được tự tiện đem truyền ra ngoài. Từ khi em bảo tôi, không bao giờ tôi mang quạt ra ngoài vườn nữa.
Bảo Thoa nói:

Cô Lâm nghĩ thế cũng phải. Cậu đã viết vào quạt, lỡ quên đi, mang để ở ngoài thư phòng, các ông nhà nho trông thấy, lẽ nào họ không hỏi ai làm? Lỡ họ đồn đại ra ngoài lại càng không hay. Người xưa nói: “Con gái không có tài ấy là đức” đấy! Con gái cần phải lấy trinh tĩnh làm chủ, nữ công cũng chỉ là việc cần thiết thứ hai. Còn như thi từ, chẳng qua là để chơi đùa trong khuê các, biết cũng được mà không biết cũng được. Chúng tôi là con gái trong những nhà thế này, không cần đến tiếng khen ngợi tài hoa ấy.

Rồi lại cười nói với Đại Ngọc:

Cô cứ cho tôi xem không hại gì, chỉ không để cho cậu Bảo mang ra ngoài là được rồi.
Đại Ngọc cười nói:

Chị đã nói thế, thì chính chị cũng không nên xem nữa.

Rồi trỏ vào Bảo Ngọc cười nói:

– Anh ấy đã cướp đi mất rồi.

Bảo Ngọc nghe nói, lấy ở trong người ra một tờ giấy, đến cạnh Bảo Thoa cùng xem,

thấy viết:

TÂY THI(1)

Trôi theo hoa sóng ngán cho đời,

Luống để vua Ngô nhớ thiếp hoài.

Đừng bảo Đông Thi nhăn mặt vụng,

Bạc đầu mà vẫn giặt bên khơi.

NGU CƠ(2)

Gió thét chim kêu ruột rối ghê,

Nhìn ai buồn hát khúc “ngu hề”.

Kình, Bành(3) sau chịu thân làm mắm,

Thua kẻ trong màn tuốt kiếm kia.

MINH PHI(4)

Người tiên ra khỏi Hán cung,

Mỏng manh là kiếp má hồng xưa nay.

Quân vương dù rẻ thân này,

Trọng khinh thợ vẽ hỏi bay quyền gì?

LỤC CHÂU(5)

Hạt châu viên ngói quăng bừa,

Thạch Lang nào biết đẹp là gì đâu?

Cũng vì nợ trước duyên sau,

Kiếp này sống thác cùng nhau đỡ buồn.

HỒNG PHẤT(6)

Chống gươm tỏ vẻ anh hùng,

Mắt xanh biết kẻ đường cùng là ai?

Già Dương thoi thóp cầm hơi,

Dây nào mà buộc được người anh thư?

Bảo Ngọc xem xong, khen không dứt lời, nói:

– Thơ của em vừa đúng năm bài, sao không đặt tên là “Ngũ mỹ ngâm”?(7)

Rồi không chờ nói lại, Bảo Ngọc cầm bút viết ngay đằng sau. Bảo Thoa cũng nói:

Làm thơ không kể là đầu bài gì, cốt khéo lật lại cái ý của cổ nhân là được. Nếu cứ theo dấu vết người trước mà làm, dù chữ có hay, câu có khéo thế nào đi nữa, cũng là kém, không gọi thơ hay được. Người xưa có rất nhiều thơ vịnh Chiêu Quân, có bài thương tiếc Chiêu Quân, có hài oán trách Mao Diên Thọ(8), lại có người chê vua Hán không cho thợ vẽ bầy tôi hiền, lại đi vẽ các mỹ nhân. Mỗi người mỗi ý, không ai giống ai. Sau Vương Kinh Công(9) lại có một câu: “Thần thái xưa nay ai vẽ nổi, giết Mao Diên Thọ cũng là oan”. Âu Dương Vĩnh Thúc(10) lại có câu: “Tai nghe mắt thấy còn như thế, muôn dặm ngăn sao được rợ Hồ”. Hai câu thơ này đều do ý sâu sắc của mình, không giống với người khác. Năm bài của cô Lâm cũng có thể gọi là dùng ý mới lạ, mở riêng ra một lối khác vậy.

Bảo Thoa còn muốn nói nữa, thì có người vào trình:

Cậu Liễn đã về. Nghe người ngoài nói cậu ấy sang phủ Đông đã lâu rồi, chắc sẽ về đấy.
Bảo Ngọc nghe nói, đứng ngay dậy, ra cửa ngoài chờ đón, vừa gặp Giả Liễn từ ngoài xuống ngựa đi vào. Bảo Ngọc ra trước vái chào, trước hết hỏi thăm sức khỏe Giả mẫu và Vương phu nhân, sau mới hỏi thăm Giả Liễn. Hai người dắt tay nhau đi vào. Bọn Lý Hoàn, Phượng Thư, Bảo Thoa, Đại Ngọc, Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân đương đứng chờ ở nhà giữa. Mọi người chào hỏi nhau xong. Giả Liễn nói:

Sáng sớm mai cụ về đến nhà. Đi đường người vẫn được mạnh khỏe. Hôm nay người sai tôi về thăm nhà trước. Sớm mai, canh năm tôi phải ra ngoài thành đón người.

Nói xong mọi người lại hỏi qua tình hình đi đường. Vì Giả Liễn đi xa mới về, mọi người đều cáo từ lui ra, để hắn về nhà nghỉ.
Vào khoảng bữa cơm sáng hôm sau, Giả mẫu, Vương phu nhân về đến nhà. Mọi người đến chào hỏi, ngồi một lúc, uống trà. Giả mẫu dẫn bọn Vương phu nhân sang bên phủ Ninh. Tới nơi, nghe bên trong tiếng khóc vang trời, đó là tiếng Giả Xá, Giả Liễn. Khi đưa Giả mẫu về đến nhà rồi, họ sang ngay bên này. Giả mẫu vào đến nhà, Giả Xá, Giả Liễn đã dẫn những người trong họ khóc lóc ra đón. Hai bố con mỗi người một bên, dìu Giả mẫu đi đến trước linh cữu. Giả Trân, Giả Dung quỳ xuống, gục vào lòng Giả mẫu khóc ầm lên. Giả mẫu tuổi già, thấy quang cảnh ấy cũng ôm lấy Giả Trân, Giả Dung khóc mãi. Giả Xá, Giả Liễn đứng bên cạnh khuyên ngăn, mới chịu thôi. Vòng sang bên hữu linh cữu, thấy Vưu thị và nàng dâu, lại khóc to lên một hồi. Khóc xong, mọi người mới đứng lên hỏi thăm sức khỏe.

Giả Liễn thấy Giả mẫu mới về, chưa được nghỉ ngơi, sợ ngồi mãi đấy, sẽ không khỏi thương tâm, liền khuyên can hai ba lần, Giả mẫu bất đắc dĩ mới chịu về nhà. Vì người già không chịu nổi phong sương và lòng thương xót, quả nhiên đến đêm Giả mẫu thấy nhức đầu đau bụng, ngạt mũi nặng tiếng, vội mời thầy thuốc đến xem mạch bốc thuốc, chạy cuống lên mất đúng một ngày và nửa đêm. May sao phát tán ngay được, bệnh chưa nhiễm sâu vào người, đến canh ba ra ít mồ hôi, mạch lắng xuống, người mát hẳn, cả nhà mới yên tâm. Hôm sau vẫn còn phải uống thuốc.

Mấy hôm sau, đến ngày đưa ma Giả Kính. Giả mẫu chưa khỏi hẳn, nên giữ Bảo Ngọc

nhà hầu. Phượng Thư vì chưa được mạnh cũng không đi. Giả Xá, Giả Liễn, Hình phu nhân và Vương phu nhân dẫn người nhà và bọn đàn bà theo hầu đi đưa đám đến chùa Thiết Hạm, chiều tối mới về. Giả Trân, Vưu thị cùng Giả Dung ở lại chùa túc trực. Qua một trăm ngày mới rước linh cữu về nguyên quán. Mọi việc trong nhà vẫn nhờ già Vưu, dì Hai và dì Ba trông nom hộ.

Giả Liễn ngày thường vẫn nghe tiếng chị em họ Vưu, nhưng chưa có dịp được gặp. Gần đây, vì linh cữu Giả Kính để ở trong nhà, nên ngày nào hắn cũng gặp chị em họ. Nhìn nhau quen mặt trong bụng đâm ra thèm thuồng.Vả chăng ngày thường nghe cha con Giả Trân, Giả Dung vẫn có tiếng xấu hỗn dâm, vì thế Giả Liễn muốn nhờ dịp tìm cách khêu gợi đưa tình. Dì Ba biết vậy cứ lờ như không, riêng dì Hai lại có ý lưu luyến, chỉ vì người đông, tai mắt nhiều, nên chưa tiện dịp giở trò. Giả Liễn lại sợ Giả Trân ghen, chưa dám làm liều. Hai người cứ ngấm ngầm hiểu ý nhau thôi.

Từ khi rước linh cữu đi, trong nhà Giả Trân vắng người làm, chỉ có già Vưu, dì Hai, dì Ba cùng a hoàn và bọn bà già để sai vặt thôi, còn bao nhiêu tì thiếp đều đến chùa hầu hạ cả. Bọn đầy tớ đàn bà bên ngoài đêm đi tuần, ngày canh cửa, không có việc gì không vào đến nhà trong. Giả Liễn định nhân dịp ấy giở trò. Hắn mượn tiếng đến cùng ở với Giả Trân, rồi cũng vào nghỉ trong chùa, nhưng lại thường hay về trông nom đỡ việc nhà cho Giả Trân, thỉnh thoảng lại đến phủ Ninh gạ gẫm dì Hai.

Một hôm tên quản gia là Du Lộc đến trình Giả Trân:

– Món tiền chi việc bắc rạp, vải tang và may áo xanh cho người khênh đòn, cộng tất cả là 1.110 lạng bạc, đã trả được 500 lạng, còn thiếu 610 lạng nữa. Hôm nọ người bán hàng ở hai nơi đều đến đòi, con đến hỏi ông truyền bảo thế nào?
– Mày cứ đến kho mà lĩnh, việc gì phải hỏi ta nữa?

– Hôm nọ con đã đến kho lĩnh, nhưng từ khi cụ nhà mất, các nơi chi phí rất nhiều, lại phải để dành làm chay một trăm ngày và chi tiêu các việc trong miếu. Hiện giờ không có tiền chi ra, vì thế con phải đến hỏi ông. Hoặc tạm trích kho trong nhà ra, hoặc mượn món nào, xin ông truyền cho, con mới dám làm.
– Mày cứ tưởng lúc nào ta cũng sẵn tiền không tiêu như ngày trước hay sao. Thôi mày vay đâu được để trả cho người ta thì vay.
– Nếu một vài trăm con có thể lo liệu được, chứ những năm, sáu trăm thì con lấy đâu

ra.

Giả Trân nghĩ một lúc rồi bảo Giả Dung:

Đi hỏi mẹ mày xem, hôm nọ khi rước cữu, có nhà họ Chân ở Giang Nam đem đến viếng 500 lạng, chưa giao vào kho, nên về nhà gom góp thêm nữa rồi đưa cho nó mang đi trả.
Giả Dung vâng lời, chạy vào trong nhà trình Vưu thị, sau đó quay ra trình với Giả Trân:
Món tiền ấy hôm nọ đã tiêu mất 200 lạng, còn lại 300 lạng, mẹ con đã sai người mang về nhà đưa cho bà giữ rồi.
Giả Trân nói:

Đã thế, mày dẫn nó về nhà hỏi bà lấy tiền đó giao cho nó. Rồi xem nhà có việc gì không, và hỏi thăm sức khỏe hai dì mày. Còn thiếu bao nhiêu, Du Lộc sẽ vay tạm bù vào.
Giả Dung và Du Lộc vâng lời, định đi ra. Thấy Giả Liễn đi vào, Du Lộc vội đến chào, Giả Liễn hỏi: “Có việc gì?” Giả Trân kể lại cho nghe. Giả Liễn nghĩ bụng: “Nhân dịp này ta có thể về phủ Ninh lần đến với dì Hai được”. Liền nói:
Đáng là mấy mà phải đi vay. Hôm nọ em vừa lấy được món tiền, chưa tiêu đến, chi bằng đưa cho nó thêm vào đấy, lại không đỡ việc hay sao?
Như thế rất tốt, chú dặn cháu Dung bảo nó đi lấy một thể.

Món tiền này em phải tự mình đi lấy mới được. Mấy hôm nay em chưa về nhà, cũng muốn về thăm sức khỏe cụ và cha mẹ, rồi sang bên anh xem bọn người nhà có sinh chuyện gì không, và cũng đến hỏi thăm sức khỏe bà thông gia luôn.
Như thế thì phiền chú quá, tôi không đành lòng tý nào.

Chỗ anh em nhà có ngại gì việc ấy.

Mày theo chú về hỏi thăm sức khỏe cụ, ông Cả và bà Cả, nhớ nói là ta và mẹ mày gửi lời hỏi thăm. Để ý hỏi xem cụ đã khỏi hẳn chưa, còn phải uống thuốc nữa không? Giả Dung vâng lời, theo Giả Liễn đi ra, dẫn mấy người hầu cùng cưỡi ngựa về thành. Đi đường chú cháu nói chuyện với đi nhau. Giả Liễn có ý gợi chuyện dì Hai họ Vưu, khen ngợi nào là phong nhã, đứng đắn, đi đứng đường hoàng, ăn nói nhũn nhặn, cái

gì cũng đáng để cho người ta kính mến. Ai cũng bảo thím đẹp, nhưng theo ý ta thì so

với dì Hai mày đã thấm vào đâu.

Giả Dung biết ý, cười nói:

Chú đã thích dì ấy, cháu xin làm mối, hỏi làm vợ hai cho chú có được không?

Mày nói đùa hay nói thực thế?

Cháu nói thực đấy chứ!

Thế thì tốt lắm. Nhưng chỉ sợ thím mày không nghe và cũng sợ bà cụ không bằng lòng. Ta lại nghe dì Hai mày cũng đã có nơi rồi.
Cái đó không can gì. Dì Hai và dì Ba không phải là con của ông cháu, mà là bà cháu mang đến nuôi. Cháu nghe nói, bà cháu khi còn ở nhà chồng trước có mang dì Hai cháu, đã hứa gả cho nhà họ Trương là người giữ trại nhà vua. Về sau, nhà họ Trương bị kiện sa sút, bà cháu cũng lại đi lấy chồng khác. Đến nay đã mười mấy năm, hai nhà không biết tin tức nhau nữa. Bà cháu thường hối hận, không muốn gả cho họ nữa. Cha cháu cũng muốn gả dì cháu cho người khác, chỉ chờ có người tử tế đến dạm, sẽ sai người đi tìm nhà họ Trương đến cho nó mười mấy lạng bạc, bảo nó viết một tờ thoái hôn. Nhà họ Trương nghèo túng thế, thấy tiền làm gì mà chả xong? Vả chăng, nó biết nhà ta thế này, bảo sao chẳng phải nghe. Chú mà lấy dì cháu về làm vợ hai, chắc bà cháu và cha cháu đều bằng lòng cả. Nhưng chỉ có chỗ thím là khó thôi.

Giả Liễn nghe thấy câu ấy, mừng nở gan nở ruột, còn biết nói gì nữa, chỉ cười ngẩn ra mà thôi.
Giả Dung lại nghĩ một lúc, cười nói:

Nếu chú có can đảm, cứ theo ý cháu, chắc không can gì, chỉ phải tiêu tốn ít tiền thôi.

Cháu ơi! Ý cháu thế nào, cứ nói cho chú nghe.

Chú về nhà không nên để lộ ra một tí gì . Để cháu trình với cha cháu, nói với bà cháu xong đã, rồi tìm một nơi ở sau phủ, mua một cái nhà và các đồ dùng, cắt hai người đến đấy hầu hạ, chọn ngày tốt, cưới về đó, người không biết, ma không hay, rồi dặn họ không được để lộ tiếng tăm. Thím ở trong nhà sâu vườn rộng, biết thế nào được. Chú cứ ở hai nơi, độ một năm nửa năm, dù có vỡ chuyện, đến tai ông, bị mắng một trận là cùng. Chú cứ nói là vì thím không sinh đẻ nữa, muốn có con trai nối dõi, nên mới lấy giấu để ở bên ngoài. Khi thấy “gạo đã nấu thành cơm”, thím cũng đành

phải chịu. Vả lại, nhờ cụ can thiệp cho thì việc gì mà chẳng xong.

Xưa có câu: “Dục vọng làm người ta mất khôn”. Giả Liễn chỉ thích dì Hai có sắc đẹp, nghe Giả Dung tán một hồi, cho là mọi việc đều êm thấm cả, có nghĩ đâu hiện mình đương có tang, có vợ rồi lại lấy vợ khác, bố thì nghiêm, vợ thì ghen. Tất cả những điều rắc rối đều gác ra ngoài cả. Mặt khác, Giả Dung cũng chẳng tử tế gì, ngày thường nó vẫn nô đùa với dì nó, chỉ vì có Giả Trân ở đấy, nên không được thỏa lòng. Giờ đây Giả Liễn lấy về, tất nhiên phải để ở bên ngoài, nhân những lúc Giả Liễn vắng mặt, nó sẽ dễ giở trò ma. Giả Liễn không hề nghĩ đến điều ấy, cứ cảm ơn Giả Dung:

Cháu ơi, nếu cháu thu xếp được như thế, chú sẽ mua hai con hầu thật đẹp trả ơn cháu.
Hai người về đến cửa phu Ninh. Giả Dung nói:

Chú đến nói với bà ngoại cháu để lấy tiền đưa cho Du Lộc mang đi. Cháu phải đến chào cụ đã.
Giả Liễn mỉm cười gật đầu nói:

Đến bên cụ, cháu đừng nói chú cùng về với cháu nhé.

Cháu biết rồi.

Hôm nay gặp dì Hai, chú không nên hấp tấp vội, lỡ xảy ra chuyện gì, thì sau khó xử lắm đấy.
Đừng nói nhảm. Mày đi mau lên! Tao đợi ở đây.

Giả Dung đi sang chào Giả mẫu. Giả Liễn vào phủ Ninh. Tên quản gia dẫn mọi người đến chào, rồi lên nhà trên. Giả Liễn hỏi mọi người xong, bảo họ đi ra, một mình vào trong nhà. Vì Giả Liễn và Giả Trân là anh em thân mật với nhau, chẳng kiêng kỵ gì, nên cứ ra vào tự nhiên, không phải có người báo trước. Tới nhà trên, đã có bà già chực hầu ở dưới thềm vén rèm mời vào.

Giả Liễn đi và trong phòng, chỉ có dì Hai họ Vưu cùng hai a hoàn làm việc ở trên cái bục phía nam, không thấy bà già và dì Ba đâu cả. Giả Liễn đến trước mặt chào hỏi. Dì Hai mỉm cười mời ngồi, Giả Liễn ngồi xuống hàng ghế ở phía đông, mời dì Hai ngồi lên phía trên. Hàn huyên mấy câu, rồi Giả Liễn cười hỏi: – Bà và dì Ba đi đâu? Sao không thấy?

– Vừa mới có việc đi ra ngoài, cũng sắp về.

Bấy giờ a hoàn đi pha trà, không có người nào ở đấy. Giả Liễn luôn luôn liếc nhìn dì Hai. Dì Hai chỉ cúi đầu mỉm cười không để ý đến. Giả Liễn không dám hấp tấp sỗ sàng. Thấy dì Hai đương mân mê chiếc khăn lụa buộc cái túi, hắn cũng ra vẻ băn khoăn sờ vào lưng, nói:

Tôi quên không mang túi cau đến, cô có cau cho tôi một miếng.

Có đây, nhưng cau của tôi xưa nay không cho ai ăn cả.

Giả Liễn cười, muốn đến gần để lấy. Dì Hai sợ có người trông thấy không tiện, liền cười rồi vứt khăn ra. Giả Liễn cầm lấy túi dốc ra, chọn miếng đã ăn giở, cho vào mồm nhai ngấu nhai nghiến, rồi lấy số cau còn thừa đùm lại. Đương định mang trả cái túi, thấy hai a hoàn pha trà mang đến. Giả Liễn vừa cầm lấy chén nước, vừa khẽ cởi viên ngọc Cửu Long đeo ở trong mình, buộc vào cái khăn tay lụa, nhằm lúc a hoàn quay đi, liền ném cái khăn sang. Dì Hai không cầm, giả vờ không trông thấy, cứ ngồi uống nước.

Lúc đó, phía sau có tiếng mở rèm, thì ra bà già họ Vưu cùng dì Ba dẫn hai a hoàn nhỏ từ đằng sau đi vào. Giả Liễn đưa mắt cho dì Hai, bảo cầm lấy khăn, dì Hai vẫn không để ý đến. Giả Liễn không biết ý dì Hai ra sao, rất là nóng ruột, đành phải đứng dậy chào bà già và dì Ba. Khi quay lại nhìn, dì Hai vẫn cười nói như thường, cái khăn lụa đã biến đâu không thấy nữa. Giả Liễn mới yên lòng. Rồi mọi người cùng ngồi xuống nói chuyện. Giả Liễn nói:

Chị tôi bảo, hôm nọ có gửi bà một gói bạc. Nay cần tiền trả người ta, anh tôi sai tôi về lấy và nhân tiện hỏi xem trong nhà có việc gì không.
Bà già họ Vưu thấy nói thế, sai dì Hai mở khóa lấy gói bạc ra. Giả Liễn lại nói:
Nhân tiện tôi cũng đến chào bà và hỏi thăm hai dì. Trông sắc mặt bà thì khá đấy, chỉ có hai cô em thật là vất vả.
Bà già họ Vưu cười nói:

Chúng ta là chỗ bà con thân thuộc, sao cậu lại nói thế? Ở nhà cũng như ở đây. Không nói giấu gì cậu, từ khi ông nó mất đi, nhà tôi thật là khó khăn, cái gì cũng phải nhờ bác nó(11) ở bên này giúp đỡ. Bây giờ bác nó có việc to tát như thế này, chúng tôi

đã không giúp được việc gì khác, chỉ ngồi trông nhà, thì có gì là vất vả?

Đương nói thì dì Hai đã mang gói bạc ra, đưa cho bà già họ Vưu. Bà già đưa lại cho

Giả Liễn. Giả Liễn sai một đứa a hoàn nhỏ gọi một bà già đến dặn:

– Già cầm gói bạc này đưa cho Du Lộc bảo nó mang về chờ tôi ở bên nhà.

Bà già vâng lời đi ra. Bỗng ở ngoài sân có tiếng Giả Dung. Một thoáng, hắn vào chào bà ngoại và hai dì, rồi quay lại cười nói với Giả Liễn:
Vừa rồi ông Cả hỏi chú, ông nói là có việc gì cần, định sai người đến miếu gọi chú. Cháu nói chú sắp về đấy. Ông dặn cháu, nếu gặp chú ở đường, bảo chú phải về ngay. Giả Liễn nghe nói, muốn đứng dậy ngay, nhưng lại nghe thấy Giả Dung nói với bà hắn:
Lần trước cháu đã nói với bà là cha cháu muốn tìm chú dượng cho dì Hai. Người ấy mặt mũi và hình dáng chẳng khác gì chú cháu đây. Bà bảo có được không?
Nói xong lại khẽ trỏ tay vào Giả Liễn và hất làm cho dì Hai. Dì Hai không tiện nói câu gì, chỉ thấy dì Ba cười không ra cười, giận không ra giận, quát mắng:
Thằng khỉ con đốn kiếp này! Hết chuyện cho mày nói rồi à? Thế nào ta cũng sẽ xé rách mồm mày ra.
Giả Dung cười chạy mất, Giả Liễn cũng cười rồi cáo từ đi ra. Tới nhà ngoài, Giả Liễn dặn dò người nhà không được đánh bạc, uống rượu. Lại khẽ dặn Giả Dung nói ngay việc ấy với Giả Trân. Giả Liễn lại dẫn Du Lộc về lấy đủ số tiền, giao cho hắn mang đi. Sau đến chào Giả Xá và Giả mẫu.
Giả Dung thấy Du Lộc theo Giả Liễn đi lấy tiền, mình không có việc gì liền quay vào trong nhà, đùa cợt với hai dì một lúc rồi mới đi. Buổi chiều đến chùa, Giả Dung vào trình Giả Trân:
Đã giao tiền cho Du Lộc rồi. Cụ đã khỏi hẳn, không phải uống thuốc nữa.

Sau đó nhân tiện hắn lại nói việc khi đi đường, Giả Liễn ngỏ ý muốn lấy dì Hai làm vợ lẽ, rồi tìm một cái nhà ở bên ngoài để cho Phượng Thư không biết. “Muốn như thế chẳng qua là vì con cái hiếm hoi, và vì đã gặp mặt dì Hai rồi, hai bên thân lại thêm thân, hơn là lấy người ngoài xưa nay chưa hề quen biết”. Vì thế chú Hai ân cần nhờ con nói với cha.

Hắn không nói rõ đó là ý của mình.

Giả Trân nghĩ một lúc, cười nói:

Việc đó cũng được thôi, nhưng không biết dì Hai có bằng lòng hay không. Sáng mai mày về nói với bà. Nhờ bà thử hỏi dì Hai xem rồi sẽ liệu.
Giả Trân lại bày cho Giả Dung mấy câu, rồi qua bên kia nói cho Vưu thị biết. Vưu thị biết việc này không ổn, nên cố can ngăn. Nhưng Giả Trân đã nhất định như thế, mà Vưu thị xưa nay vẫn quen lối chiều chồng, vả chăng dì Hai lại là chị em khác mẹ nên không cần để ý lắm, cứ mặc họ làm thế nào thì làm.
Sáng sớm hôm sau Giả Dung lại về thành thăm bà ngoại nói lại ý định của hắn rồi thêm thắt nhiều điều, nào là Giả Liễn người tử tế, hiện giờ thím Phượng đương ốm, khó lòng khỏi được. Trước hết hãy mua tạm một cái nhà cho dì ở riêng bên ngoài độ một năm, năm bảy tháng, chờ thím Phượng chết đi là đón dì Hai về làm chính thất. Lại nói đến việc cha hắn sẽ đứng lên sắm sửa lễ cưới như thế nào, bên Giả Liễn sẽ làm lễ cưới ra sao, rồi sẽ đón bà về nuôi nấng thế nào, còn dì Ba sau này cũng sẽ do bên ấy gả bán cho. Nó tán hươu một hồi, làm bà già họ Vưu chẳng bằng lòng. Vả chăng ngày thường bà ta vẫn nhờ Giả Trân giúp đỡ, bây giờ Giả Trân lại đứng lên chủ hôn, mình không phải sắm sửa đồ tư trang, Giả Liễn lại là chàng công tử trẻ tuổi, hơn nhà họ Trương nhiều. Vì vậy bà già vào bàn với dì Hai. Dì Hai vốn là người lẳng lơ, dâm đãng, trước kia đã tằng tịu với anh rể, thường oán mình gả nhầm cho Trương Hoa đến nỗi sau này phải long đong cả đời, không nơi nương tựa. Nay thấy Giả Liễn yêu mình, mà anh rể mình lại đứng lên gả bán cho thì làm gì mà chẳng bằng lòng? Dì Hai gật đầu nhận lời ngay.

Giả Dung về trình với cha hắn. Sáng hôm sau sai người mời Giả Liễn đến chùa, Giả Trân nói cho hắn biết về việc bà già Vưu đã bằng lòng.
Giả Liễn mừng quá, cám ơn hai cha con Giả Trân. Hai người bàn với nhau, sai người đi tìm nhà, sắm cho dì Hai những đồ trang sức, giường màn và các thứ cần dùng trong nhà mới. Chỉ trong mấy ngày, mọi việc đã thu xếp đâu vào đấy, Giả Liễn mua một cái nhà hai mươi gian ở trong ngõ Tiểu Hoa Chi, cách phía sau phủ Vinh, phủ Ninh độ hai dặm. Lại mua hai a hoàn nhỏ nữa. Giả Trân lại cho hai vợ chồng Bào Nhị vào ở nhà mới để chờ hầu hạ dì Hai.

Sau đó Giả Trân lại cho gọi bố con Trương Hoa đến, bắt nó viết tờ thoái hôn đưa cho

bà già họ Vưu.

Trước đây, ông của Trương Hoa là người coi trại cho nhà vua. Người ông chết đi, bố Trương Hoa lại làm việc ấy. Vì bố Trương Hoa chơi thân với người chồng trước của bà già họ Vưu, nên ông ta đã hứa gả dì Hai cho Trương Hoa từ lúc ở trong bụng mẹ. Không ngờ về sau nhà Trương Hoa bị kiện, cửa nhà sa sút, ăn mặc không đủ, thì còn lấy gì mà cưới vợ nữa. Sau bà già họ Vưu lại đi lấy chồng khác, thành ra mười mấy năm ròng hai bên im bặt không có tin tức đi lại. Nay thấy người nhà phủ Giả gọi đến, bắt phải thoái hôn với dì Hai, Trương Hoa tuy không bằng lòng, nhưng sợ uy thế Giả Trân, nên đành phải viết giấy thoái hôn. Bà già họ Vưu cho hắn hai mươi lạng bạc, thế là xong việc.

Giả Liễn thấy công việc thu xếp đâu vào đấy, liền chọn ngày mồng ba là ngày hoàng

đạo, đón dì Hai về. Chính là:

Bởi tại cùng cành tham sắc dục;

Gây nên liền gốc nổi gươm đao.

——————————-

(1).Người con gái đẹp nước Việt, mỗi khi nhăn mặt lại thấy đẹp thêm. Có nàng Đông Thi rất xấu, cũng bắt chước ôm bụng nhăn mặt, người ta trông thấy bỏ chạy. Tục truyền Tây Thi có đến giặt áo quần ở khe Nhược Gia (thuộc huyện Thiệu Hưng).

(2). Vợ Hạng Vũ nước Sở, thường theo Hạng Vũ ra trận. Khi Hạng Vũ bị thua ở đất Cai Hạ, nàng rút kiếm ra tự tử.
(3). Kình Bố và Bành Việt là hai viên tướng đời Hán Cao Tổ; bị Cao Tổ giết chết và xào thịt làm mắm.
(4). Tức Vương Chiêu Quân, đời Hán Nguyên Đế, bị đưa sang cống Hồ.

(5). Ái thiếp của Thạch Sùng đời Tần. Khi Thạch Sùng bị giết, Lục Châu nhảy trên lầu xuống tự tử.
(6). Con hầu của Dương Tố đời Tùy, tên là Xuất Trần. Khi Lý Tĩnh vào hầu Dương Tố, Xuất Trần liếc mắt nhìn. Đêm ấy lẻn ra theo Lý Tĩnh.
(7). Vịnh năm người con gái đẹp.

(8). Người thợ vẽ đã vẽ xấu dung mạo Chiêu Quân.

(9). Tức Vương An Thạch, tể tướng đời Tống.

(10). Tức Âu Dương Tu, một nhà văn nổi tiếng đời Tống.

(11). Chỉ Giả Trân.