Bà Chu tiễn già Lưu về rồi, lên trình Vương phu nhân, không thấy ở trong phòng, hỏi ra lũ a hoàn mới biết là sang chơi bên Tiết phu nhân. Bà Chu liền ra cửa nách, qua nhà phía đông, đến viện Lệ hương. Vừa vào cửa, thấy a hoàn của Vương phu nhân là Kim Xuyến cùng một a hoàn mới để tóc đang đùa với nhau ở trên thềm. Trông thấy bà Chu, Kim Xuyến biết tất có việc gì liền hếch mồm vào phía trong ra hiệu.
Bà Chu khẽ nâng rèm bước vào, thấy Vương phu nhân cùng Tiết phu nhân đang nói chuyện lan man hết việc nhà đến việc người. Bâ Chu không dám đánh động, rảo bước vào nhà trong, thấy Tiết Bảo Thoa mặc đồ thường, trên đầu búi tóc trần, ngồi cạnh bục, cúi xuống bàn cùng a hoàn là Anh Nhi đang vẽ hoa. Thấy bà Chu đến, Bảo Thoa bỏ bút xuống, quay người lại, đon đả cười nói:
Mời chị Chu ngồi. Bà Chu vội cười hỏi:
Cô mạnh luôn chứ? Rồi ngồi cạnh bục nói:
Đã hai ba hôm nay không thấy cô sang bên kia chơi, hay là cậu Bảo có điều gì trái ý đấy!
Sao lại nói thế? Chỉ vì bệnh của tôi lại phát, nên phải ở nhà tĩnh dưỡng mấy ngày.
Thế à? Cô có bệnh gì? Nên mời thầy xem mạch cho thuốc. Còn trẻ tuổi mà mắc bệnh không phải là chuyện chơi đâu!
Thôi đừng nói chuyện ấy nữa, đã mời bao nhiêu thầy lang, tốn thuốc, tốn tiền, rút cục chẳng thấy hiệu nghiệm gì. Sau có một vị hòa thượng chuyên trị những bệnh không tên, không tuổi, tôi nhờ xem, người bảo tôi bị nhiệt độc từ khi ở trong thai, may mà tiên thiên tốt, nên không việc gì. Thuốc thường thì không ăn thua. Người có kê cho bài thuốc tên là “Hải thượng tiên phương”(1), lại cho một gói thuốc bột để làm thuốc dẫn, mùi thơm lạ thường. Người bảo: hễ thấy đau thì uống một liều là đỡ ngay. Kể cũng lạ thật, uống vào quả thấy hiệu nghiệm.
Phương thuốc gì, cô cho biết, để sau này có ai mắc bệnh như thế tôi sẽ mách họ,
cũng là một việc làm phúc.
Đừng hỏi phương thuốc ấy còn hơn, nếu hỏi, có khi làm người ta bực đến chết được. Các vị thuốc phải có đồng cân đồng lạng nhất định, khó nhất là được hai chữ “Vừa khéo”. Phải có mười hai lạng nhụy hoa mẫu đơn trắng nở vào mùa xuân, mười hai lạng nhụy hoa sen trắng nở vào mùa hạ, mười hai lạng nhụy hoa phù dung trắng nở vào mùa thu, mười hai lạng nhụy hoa mai trắng nở vào mùa đông. Đem bốn thứ này phơi vào ngày xuân phân(2) năm sau, rồi tán kỹ với thuốc bột; lại phải có mười hai đồng cân nước hứng giữa trời đúng vào ngày vũ thủy.
Ối chao! Mất ba năm mới thành thang thuốc! Nếu ngày vũ thủy không mưa thì làm thế nào?
Nếu không gặp được nước mưa vừa khéo thì đành lại chờ vậy. Còn phải mười hai đồng cân nước móc vào ngày bạch lộ, mười hai đồng cân nước sương vào ngày sương giáng, mười hai đồng cân tuyết vào ngày tiểu tuyết. Đem bốn thứ này hòa với thuốc, thêm mười hai đồng cân mật ong, mười hai đồng cân đường trắng, viên to bằng quả nhãn, để vào trong cái hũ sứ cổ, chôn ở gốc cây hoa, khi nào ốm thì lấy một viên ra uống, sắc một đồng hai phân hoàng bá làm thang.
A di đà Phật! Khéo chết người chưa? Chờ đến mười năm nữa cũng chưa chắc đã tìm đủ được các vị thuốc!
Cũng may, sau khi hòa thượng đi độ một hai năm, vừa khéo tôi tìm đủ các vị để chế được một tễ. Giờ tôi mang từ nam lên, hiện chôn ở gốc cây lê kia.
Thuốc ấy có tên không?
Có, hòa thượng bảo tên là Lãnh hương hòa(3).
Cô ốm ra sao?
Không biết thế nào, chỉ ho xuyễn thôi, uống một viên là khỏi Bà Chu muốn nói nữa, chợt nghe Vương phu nhân hỏi:
Ai ở trong ấy?
Bà Chu vội chạy ra trình việc già Lưu. Một lúc, thấy Vương phu nhân không nói gì , bà Chu muốn lùi ra thì Tiết phu nhân cười bảo:
– Chị đứng lại đây. Tôi có cái này, nhờ chị mang đi hộ.
Nói xong, gọi: Hương Lăng!
Có tiếng rèm động, a hoàn bé hồi nãy chơi đùa với Kim Xuyến tiến lên hỏi:
Thưa mẹ bảo gì? Tiết phu nhân bảo:
Lấy chùm hoa ở trong hộp mang lại đây.
Hương Lăng vâng lời, mang hộp gấm nhỏ đến. Tiết phu nhân nói:
Đây là mười hai cành hoa bằng lụa kiểu mới rất đẹp, ở trong cung tết ra để cài đầu. Hôm qua tôi nghĩ: nếu cất đi nó cũ mất, thật đáng tiếc, chi bằng đem ra cho các chị em chúng nó dùng. Tôi định đưa ngay, nhưng rồi lại quên bẵng đi mất. Hôm nay chị đến vừa đúng, nhờ chị mang đi chia giúp. Ba cô nhà, chị chia mỗi cô hai cành, còn sáu cành cho cô Lâm hai cành, cô Phượng bốn cành.
Vương phu nhân nói:
Sao không để cho cháu Bảo mà lại chia cho các cháu?
Chị không biết, con ranh ấy tính lạ lắm! Xưa nay nó có thích hoa thích phấn bao giờ. Bà Chu cầm hộp ra cửa. Thấy Kim Xuyến vẫn còn ngồi ngoại nắng, bà Chu hỏi:
Con Hương Lăng này có phải con bé mà người ta thường nói, khi sắp vào Kinh mới mua nó, vì nó mà xảy ra vụ án mạng đấy không?
Kim Xuyến nói:
Nó đấy, chứ còn ai nữa.
Đương nói, thấy Hương Lăng cười hì hì chạy đến, bà Chu kéo tay nó lại gần, ngắm nghía nó một lúc rồi quay lại phía Kim Xuyến cười nói:
Dáng điệu con này hơi giống chị Dung bên phủ Đông chúng ta. Kim Xuyến nói:
Tôi cũng bảo thế.
Em đến đây được mấy năm rồi? Cha em ở đâu? Năm nay bao nhiêu tuổi? Quê quán ở đâu?
Hương Lăng lắc đầu:
Em chẳng nhớ gì cả.
Bà Chu và Kim Xuyến nghe nói than thở hồi lâu.
Một lúc sau, bà Chu đem hoa đến buồng Vương phu nhân. Nguyên gần đây Giả mẫu
có nói: “Lũ cháu gái bây giờ đông hơn trước, ở chung một chỗ không tiện, nên chỉ để
Bảo Ngọc và Đại Ngọc ở bên cạnh cho đỡ buồn thôi, còn Nghênh Xuân, Thám Xuân,
Tích xuân thì cho ở ba gian sau buồng của Vương phu nhân và bảo Lý Hoàn sớm tối
trông nom”. Bà Chu tiện đường đến đấy trước. Bọn a hoàn nhỏ đang ngồi trong nhà
nghe đợi sai gọi. A hoàn của Thám Xuân là Thị Thư, a hoàn của Nghênh Xuân là Tư
Kỳ đứng vén rèm, tay hãy còn bưng khay nước. Bà Chu biết ngay là mấy cô đang ngồi
chơi đấy, bèn đi vào buồng. Thấy Nghênh Xuân, Thám Xuân đang đánh cờ dưới cửa
sổ . Bà Chu đưa hoa và nói rõ là của Tiết phu nhân cho. Hai cô dừng đánh cờ, đứng
dậy gửi lời cám ơn, rồi bảo a hoàn cất đi.
Bà Chu vâng lời rồi nói:
Cô Tích Xuân không ở nhà, có lẽ sang bên cụ. A hoàn nói:
Không sang bên ấy thì còn ở đâu.
Bà Chu nghe nói đi sang ngay, gặp Tích Xuân đang cười đùa với sư cô Trí Năng ở am Thủy Nguyệt. Trông thấy bà Chu đến, Tích Xuân hỏi có việc gì. Bà Chu mở hộp ra nói việc Tiết phu nhân sai đem hoa đến cho. Tích Xuân cười nói:
Tôi đương nói với Trí Năng, ngày mai sẽ cắt tóc theo cô ấy đi tu. Rõ khéo chưa? Giờ lại mang hoa đến! đã cắt tóc thì còn cài hoa vào đâu nữa?
Mọi người cười ầm lên, Tích Xuân sai a hoàn cất hoa đi. Bà Chu hỏi Trí Năng:
Sư cô đến đây từ bao giờ? Sư phụ đầu trọc của cô đi đâu?
Chúng tôi đến từ sớm. Sư phụ tôi đến thăm bà Hai, rồi sang bên nhà ông Dư, bảo tôi chờ ở đây.
Bà Chu hỏi:
Tiền hương đến ngày rằm đã lĩnh chưa?
Trí Năng nói:
– Tôi không biết.
Tích Xuân hỏi bà Chu:
Tiền hàng tháng của các chùa, các miếu, ai trông nom? Bà Chu đáp:
Dư Tín trông nom.
Thảo nào sư phụ khi mới tới, vợ Dư Tín đã đến thì thầm, chắc cũng chỉ vì việc ấy. Bà Chu nói chuyện với Trí Năng một lúc, rồi sang nhà Phượng Thư. Đi đường cạnh nhà, ven qua cửa sổ nhà Lý Hoàn, rẽ sang tường hoa phía tây, ra đến cửa nách thì đến nhà Phượng Thư. Đến thềm, a hoàn nhỏ là Phong Nhi đương ngồi ở bực cửa, trông thấy, vội vẫy tay bảo đi sang phía đông. Bà Chu biết ý, rón rén đi ngay đến đó, thấy vú em đương ru em ngủ. Bà Chu khẽ hỏi:
Mợ đương ngủ trưa đấy à? Nên mời dậy hộ.
Vú em cười, bĩu môi lắc đầu. Ngay khi ấy nghe thấy ở trong có tiếng cười, lại là tiếng Giả Liễn. Liền đấy có tiếng mở cửa. Bình Nhi mang cái chậu đồng ra gọi người móc nước. Bình Nhi đi sang bên kia, thấy bà Chu liền hỏi: – Bà lại đến đây làm gì thế?
Bà Chu vội vàng đứng dậy đưa cái hộp nói:
– Đem cho hoa đây.
Bình Nhi mở hộp lấy bốn cành hoa rồi quay người đi ngay, một chốc cầm hai cành ra, gọi Thái Minh đến bảo: “Đưa sang cho mợ Dung ở phủ bên kia, rồi bảo bà Chu về cám ơn hộ.”
Bà Chu vừa ở bên nhà Giả mẫu, đi qua xuyên đường, ngẩng đầu lên, thấy con gái mình ăn mặc chải chuốt, vừa ở nhà mẹ chồng đến. Bà Chu vội hỏi:
Mày đến đây làm gì?
Mẹ vẫn khỏe chứ. Con ở nhà chờ suốt nửa ngày, không gặp. Mẹ có việc gì bận mà không về. Chờ mãi không được, con đến thăm cụ. Bây giờ con lại định đến thăm bà Hai đây. Mẹ còn bận việc chưa xong à? Tay cầm cái gì đấy?
Ối chào! Hôm nay già Lưu đến, thành ra mình lại mua lấy việc, vì bà ta mà tao phải chạy suốt nửa ngày. Vừa rồi, Tiết phu nhân lại sai đem mấy cành hoa cho các cô. Đến bây giờ cũng chưa đưa hết! Hôm nay mày đến đây chắc là có việc gì?
Người con gái cười nói:
Mẹ khéo đoán thế! Nói thực với mẹ, con rể mẹ hôm trước say rượu cãi nhau với người ta, không biết làm sao, bị người ta vu oan giá họa cho là anh ấy lý lịch không rõ ràng, thưa quan bắt phải giải về nguyên quán. Vì thế con đến nhờ mẹ bàn tính làm thế nào cho xong việc được?
Tao biết rồi, lo gì việc ấy. Mày chỉ cuống lên thôi. Về nhà trước đi để tao đến đưa hoa cho cô Lâm đã. Bây giờ bà và mợ Hai không rỗi đâu.
Người con gái thấy vậy quay về, lại nói:
Mẹ về ngay nhé!
Ừ, con nhà hèn, không từng trải việc, cứ cuống cuồng lên.
Nói xong đi đến buồng Đại Ngọc.
Khi ấy Đại Ngọc đương chơi Cửu liên hoàn(4) ở bên buồng Bảo Ngọc. Bà Chu vào, cười nói:
Thưa cô Lâm! Tiết phu nhân bảo tôi mang hoa lại biếu. Bảo Ngọc nói:
Hoa gì thế, đưa tôi xem nào.
Rồi vội giơ tay đỡ lấy cái hộp xem, thấy hai cành hoa giả làm bằng lụa rất đẹp. Đại
Ngọc ghé vào tay Bảo Ngọc xem và hỏi:
Chỉ đưa cho mình tôi thôi, hay các cô khác cũng có cả. Bà Chu nói:
Các cô đều có, hai cành hoa này là của cô đấy!
Đại Ngọc cười nhạt:
– Tôi biết rồi, thừa người mới đến phần tôi.
Chị Chu sang bên ấy làm gì?
Vì bà ở bên ấy, tôi sang trình việc. Khi về Tiết phu nhân tiện bảo tôi đem hoa cho các cô.
Cô Bảo Thoa ở nhà làm gì? Làm sao mấy hôm nay không sang chơi?
Cô ấy trong mình hơi khó chịu.
Bảo Ngọc nghe nói, ngoảnh ra đám a hoàn nói:
Có ai sang bên ấy nói là ta và cô Lâm sai sang hỏi thăm sức khỏe bà dì và cô Bảo, lại hỏi xem cô ấy yếu làm sao? Uống thuốc gì? Lẽ ra ta phải sang thăm tận nơi mới phải, nhưng vừa ở trường về, hơi bị lạnh, ngày khác ta sẽ sang thăm.
Nghe dặn xong, Phiến Tuyết nhận lời đi ngay. Bà Chu cũng ra về.
Nguyên con rể Chu Thụy là Lãnh Tử Hưng, bạn thân với Giả Vũ Thôn, vừa rồi nhân việc bán đồ cổ, bị kiện tụng lôi thôi, nên sai vợ đi chạy chọt. Bà Chu cậy thế của chủ , không thèm để bụng đến việc ấy, cho là chỉ đến nhờ Phượng Thư là xong.
Lúc lên đèn, Phượng Thư bỏ những đồ trang sức ra, đến phòng Vương phu nhân thưa chuyện:
Hôm nay nhà họ Chân mang biếu mấy thứ quà, con đã nhận cả rồi. Nhân tiện bên ấy có thuyền sang đây, con cũng gửi biếu mấy thứ của nhà.
Vương phu nhân gật đầu. Phượng Thư lại nói:
Lễ mừng sinh nhật cụ bà sinh ra Lâm An Bá, con đã sắm sửa đủ cả rồi, mẹ định sai ai mang đi?
Vương phu nhân nói:
Con xem những ai rỗi thì sai độ bốn nữ tỳ mang đi là đủ, còn phải hỏi ta làm gì? Phượng Thư lại cười hỏi:
Hôm nay chị Trân mời con ngày mai sang chơi, vậy ở nhà có việc gì không?
Có việc hay không cũng chẳng cần gì, mỗi khi chị ấy mời cả chúng ta thì con không được tự do. Nay không mời chúng ta chỉ mời một mình con, đủ biết chị ấy có bụng tốt, muốn cho con được thoải mái hơn. Con chớ nên phụ lòng người ta, sang chơi là phải.
Phượng Thư vâng lời. Chị em Lý Hoàn, Thám Xuân đến hỏi thăm xong cũng đều về buồng mình.
Ngày hôm sau, Phượng Thư sắm sửa xong, đến trình Vương phu nhân rồi lên trình Giả mẫu để đi. Bảo Ngọc nghe thấy cũng đòi đi theo. Phượng Thư bằng lòng. Bảo Ngọc lập tức thay quần áo, rồi hai chị em ngồi cùng xe đi sang phủ Ninh. Bấy giờ Vưu thị, vợ Giả Trân, cùng con dâu là Tần thị, vợ Giả Dung đều dẫn tỳ thiếp ra cửa đón.
Vưu thị vừa trông thấy Phượng Thư, cười giễu một hồi, rồi dắt tay Bảo Ngọc vào trong phòng ngồi. Tần thị pha nước, Phượng Thư nói:
Chị và cháu mời tôi sang có việc gì? Có gì thì mang ra? Tôi còn bận việc đây. Vưu thị, Tần thị chưa kịp trả lời, thì bọn đàn bà hầu cười nói:
Hôm nay mợ không sang đây thì thôi, đã sang thì không thể về ngay được. Đương nói chuyện, Giả Dung ra chào, Bảo Ngọc nói:
Anh Cả hôm nay đi vắng à?
Hôm nay anh đi ra ngoài thành thăm bác. Lại nói:
Xem ra chó hơi buồn, ngồi đây làm gì, đi ra ngoài mà chơi. Tần thị cười nói:
Lần trước chú Bảo muốn gặp em tôi. Hôm nay may sao nó đương ngồi ở buồng học kìa, sao chú không sang chơi?
Bảo Ngọc muốn đi ngay. Vưu thị, Phượng Thư đều ngăn lại: “Vội gì thế?”. Và bảo người nhà “phải cẩn thận đưa đi, đừng để chú ấy phải bực mình”.
Phượng Thư nói:
Đã thế sao không gọi cậu ấy sang đây, ta cũng muốn gặp.
Thôi, thôi! Gặp làm gì? Bạo dạn đâu bằng trẻ nhà mình. Con nhà người ta e dè nhút nhát quen, đã gặp ai sấn sổ như thím bao giờ. Khéo lại làm người ta cười chết đi được. Phượng Thư cười nói:
Tôi không cười ai thì thôi, chứ lại để cho đứa bé cười tôi à?
Nó vốn hay thẹn, không dám đến gần chỗ đông bao giờ. Thím có trông thấy xin đừng bực mình.
Phượng Thư gắt:
Nó là con vua Na Tra(5), ta cũng đòi gặp cho được, đừng nói láo. Nếu không mang nó đến đây, ta sẽ cho mày cái tát bây giờ.
Giả Dung cười nói:
Cháu không dám cưỡng lời, sẽ dắt nó lại.
Lát sau, một cậu bé được đưa đến, so với Bảo Ngọc, gầy hơn một chút, nhưng mặt
mũi sáng sủa, môi son, má phấn, dáng người tuấn tú, đi đứng phong nhã, hơn hẳn Bảo Ngọc, chỉ có phần nhút nhát như con gái thôi. Cậu bé bẽn lẽn đến chào Phượng Thư. Phượng Thư thích lắm, đẩy Bảo Ngọc một cái, cười nói: – Thử sánh xem nào!
Rồi nghiêng mình xuống, cầm tay cậu bé bảo ngồi bên cạnh, thong thả hỏi bao nhiêu tuổi, học sách gì, sau mới biết tên là Tần Chung.
Đám người nhà theo hầu thấy Phượng Thư lần đầu gặp Tần Chung, chưa có quà gì tặng, vội chạy về bảo Bình Nhi. Bình Nhi biết Phượng Thư với Tần thị xưa nay chơi thân với nhau, tuy Tần Chung còn bé nhưng cũng không nên hà tiện, bèn lấy một tấm lụa, hai thoi vàng con có khắc chữ “Trạng nguyên cập đệ”(6). Bảo người mang đến cho Phượng Thư. Phượng Thư nói nhún: “Quà này mọn quá”. Chị em Tần thị tạ ơn. Một lúc, ăn cơm xong, bọn Vưu thị, Phượng Thư, Tần thị ngồi lại đánh bài, Bảo Ngọc, Tần Chung ra ngoài nói chuyện với nhau.
Từ lúc Bảo Ngọc gặp Tần Chung, trong bụng bâng khuâng như là mình thiếu cái gì, đứng ngẩn người ra một lúc, nghĩ vơ vẩn: “Trong thiên hạ sao lại có người như thế! Bây giờ xem ra, ta thành như lợn bùn, chó ghẻ vậy! Đáng giận cho ta sinh vào nhà công hầu phú quý, nếu vào nhà nho nghèo, quan kiết để sớm đi lại chơi bời với nhau thì không đến nỗi phí mất một đời. Ta dù tôn quý hơn, nhưng the lụa gấm vóc, cũng chẳng qua để bọc cái cành khô, gỗ mục; rượi nồng, dê béo cũng chẳng qua để lấp cái hố phân, rãnh bùn mà thôi. Hai chữ “phú quý” làm hại người đời xiết bao!”
Về phần Tần Chung thấy Bảo Ngọc dáng điệu hơn người, đi đứng phong nhã, đồ mặc thì mũ vàng, áo gấm, người hầu đều là gái đẹp, trai xinh, bèn nghĩ: “Thảo nào Bảo Ngọc chả được mọi người yêu mến. Ta là con nhà thanh bần, dám đâu chơi thân với cậu ta. Mới biết hai chữ “giàu, nghèo” ngăn hẳn con người thật là một sự rất không vui ở thế gian này”.
Hai người đều nghĩ vẩn vơ như vậy. Chợt Bảo Ngọc hỏi Tần Chung đọc sách gì? Tần Chung cứ thực trả lời. Mới trò chuyện được mươi câu, cả hai đã thấy thân mật nhau ngay.
Một lúc người nhà mang nước trà và hoa quả lên. Bảo Ngọc nói:
– Chúng ta không uống rượu, cứ mang hoa quả để lên cái bục con trong nhà, sẽ đến
đấy ăn, đỡ bận cho các người.
Rồi hai người vào trong uống nước.
Tần thị một mặt mời Phượng Thư uống rượu, ăn quả, một mặt dặn dò Bảo Ngọc:
Thưa chú, cháu chú còn ít tuổi, ăn nói có điều gì sơ suất, xin hãy vì tôi mà đừng chấp nó. Nó nhút nhát thực, nhưng ăn nói lại ngang trái, không biết lựa lời đâu.
Bảo Ngọc cười:
Chị cứ đi, tôi biết rồi.
Tần thị lại dặn dò em mấy câu rồi lại sang tiếp Phượng Thư.
Phượng Thư và Vưu thị cứ một chốc lại sai người đến hỏi Bảo Ngọc muốn dùng thức gì thì cho người sang lấy. Bảo Ngọc nhận lời, nhưng không nghĩ gì đến ăn cả, chỉ hỏi Tần Chung những việc nhà gần đây. Tần Chung nói:
Năm ngoái thầy học về nghỉ, cha tôi già ốm luôn, lại bận việc quan, vì thế chưa nghĩ đến việc đón thầy. Giờ chỉ ở nhà ôn bài cũ. Vả lại việc học cũng phải có một vài bầu bạn để cùng nhau bàn bạc mới bổ ích.
Đúng đấy, bên tôi vẫn có một trường học tư. Trong họ, nhà nào không mời được thầy đều gửi đến đấy cả. Con em các nhà thân thích cũng có thể đến được. Năm ngoái thầy dạy tôi về nhà tôi cũng nghỉ học, ý cha tôi muốn tạm cho sang đấy ôn tập, chờ sang năm thầy học lên, tôi lại sẽ học. Nhưng bà tôi bảo: “Một là trường đông người, sợ có khi cãi nhau sinh chuyện; hai là vì độ này tôi mệt nên nấn ná mãi. Cứ như anh nói, chắc ông nhà đang áy náy về việc học của anh. Sao anh không xin sang đây học với tôi, làm bạn với nhau, ích lợi cho cả đôi bên. Như thế chả phải đều tốt cả hay sao?
Tần Chung cười:
Hôm nọ bàn về việc mời thầy, cha tôi cũng đã nghĩ đến trường học bên này, vẫn muốn sang thưa chuyện với ông nhà; nhưng thấy bên này bận luôn, sợ việc nhỏ nhặt sang quấy quả không tiện. Nếu chú rộng lượng cho tôi sang đây theo hầu rửa nghiên mài mực, thì xin tác thành ngay cho. Chúng ta sẽ không đến nỗi bỏ học, có thể sớm tối gần gũi bên nhau để yên lòng cha mẹ, lại thêm vui tình bè bạn, chẳng hay hơn sao. Bảo Ngọc nói:
Cứ yên tâm, hai chúng ta hãy nói chuyện trước với vợ chồng anh Dung và chị Liễn đã. Ngày mai anh về trình với ông nhà, tôi thì trình với bà tôi, như thế lẽ nào việc
không chóng xong
Bấy giờ đã đến lúc lên đèn. Hai người bàn định xong rồi ra xem mọi người đánh bài.
Khi tính sổ, Tần thị, Vưu thị phải trả tiền rượu, hẹn đến hôm sau sẽ uống rượu phạt,
rồi đi ăn cơm chiều.
Trời đã tối, Vưu thị bảo:
Cắt hai đứa hầu bé, đưa cậu Tần về nhà. Bọn hầu đàn bà truyền ra ngoài, một lúc Tần Chung đứng dậy cáo từ. Vưu thị hỏi:
Sai ai đưa về đấy?
Ở ngoài họ cắt Tiều Đại, không ngờ nó say rượu, nó mắng ầm cả lên. Vưu thị, Tần thị đều nói:
Cắt nó làm gì, sai một đứa bé nào không được, sao lại còn dây với nó? Phượng Thư nói:
Lâu nay người ta chê chị quá nhu nhược, nuông người nhà như thế còn ra thể thống gì!
Vưu thị thở dài:
Thím không biết thằng Tiều Đại à? Ngay ông tôi và anh Trân cũng rất thương nó. Vì lúc còn trẻ, nó theo cụ ta đi ra trận, ba bốn lần cõng cụ khỏi đống xác chết, mới cứu người toàn mệnh. Nó kiếm được cái gì thì đem cả về cho chủ ăn, còn mình đành nhịn đói. Hai ngày không có nước, nó kiếm được nửa bát cũng đem về cho chủ uống, còn mình thì đành uống nước đái ngựa. Chẳng qua cũng vì công lao ấy, nên khi cụ ta còn sống đều biệt đãi nó. Bây giờ ai cũng mặc kệ nó. Lại thêm nó đã già rồi, chỉ thích uống rượu, không giữ thể diện, khi say bạ ai nó cũng mắng. Tôi thường bảo bọn quản sự, từ giờ trở đi, không được cắt nó làm việc gì, cứ coi như nó đã chết rồi là xong, bây giờ làm sao lại sai nó?
Phượng Thư nói:
Tôi làm gì chả biết lão Tiều Đại ấy, rút cục chỉ tại các chị không biết tính toán, sao không tống cổ nó đến một cái trại nào xa tít là xong chuyện.
Nói xong lại hỏi: Xe đã sắp đủ chưa? Người hầu nói:
– Sắp đủ cả rồi ạ.
Phượng Thư đứng dậy cáo từ, dắt Bảo Ngọc về.
Bọn Vưu thị đưa ra đến cửa dinh đèn đuốc sáng trưng. Lũ hầu nhỏ đứng chực ở thềm. Tiều Đại biết Giả Trân không ở nhà, mặc dù ở nhà cũng kệ, hắn cứ tha hồ mà ngang tàng. Nhân mượn chén say, trước hết hắn mắng đại tổng quản là Lại Nhị:
Sao chẳng công bằng một tý nào? “Mềm thì nắn, rắn thì buông”, có món gì bở thì sai người khác, còn việc đưa người lúc đêm khuya trời tối thì lại sai tao. Đồ vô liêm sỉ, vô lương tâm! Thằng quản gia mù kia, mày không nghĩ chứ: Cụ Tiều này chỉ ghếch một cái đùi lên, còn cao hơn cả cái đầu mày. Hai mươi năm về trước, mắt cụ Tiều này chẳng còn biết có ai, ai nói đến giống hèn mạt như chúng mày.
Tiều Đại đang mắng bọn chúng sướng mồm thì vừa lúc Giả Dung ra đưa Phượng Thư lên xe. Mọi người ngăn hắn không được Giả Dung nhịn không nổi, quát to:
Ai đâu, trói nó lại, chờ ngay mai nó tỉnh rượu, sẽ hỏi nó muốn chết hay muốn sống? Nhưng dưới mắt Tiều Đại có coi Giả Dung vào đâu, hắn lại kêu to lên:
Này anh Dung! Đừng làm bộ ông chủ với thằng Tiều Đại này nữa! Không nói anh, ngay bố anh và cả ông anh cũng không dám làm bộ với ta nữa là. Thằng Tiều Đại này làm cho các người được làm quan, được hưởng vinh hoa phú quý! Ông tổ nhà các người một sống mười chết mới để lại cơ nghiệp này đến giờ không báo ơn thì chớ, lại dám lên mặt chủ nhà với ta à? Không nói đến ta còn khá, chứ nói nữa thì ta sẽ: “Lưỡi dao trắng đâm vào, lưỡi dao đỏ rút ra” cho mà xem.
Phượng Thư ở trên xe nói với Giả Dung:
Sao không tống cổ ngay thằng giặc này đi, để nó ở trong nhà chỉ có hại thôi. Bà con biết chuyện tránh sao khỏi chê cười nhà ta mất cả tôn ti trật tự.
Giả Dung vâng theo.
Mọi người thấy Tiều Đại càn rỡ quá, vật xuống trói lại, lôi nó bỏ vào chuồng ngựa. Tiều Đại càng tức, nói động cả đến Giả Trân. Nó thét ầm lên, đòi đến từ đường khóc với cụ tổ: “Ai ngờ bây giờ lại đẻ ra những giống súc sinh này! Hàng ngày trộm gà bắt chó, nào “Tiểu thúc”(7), nào “Ba hôi”(8), loạn luân cả lũ, tao lại không biết à? Thôi đừng đem cánh tay gãy giấu vào trong ống áo nữa!”
Bọn người nhà thấy nó nói toàn những câu không có trời đất nào, sợ hết hồn vía, trói
chặt nó lại, lấy đất và phân ngựa nhét đầy mồm.
Phượng Thư và Giả Dung ở đằng xa nghe thấy đều lờ đi như không. Bảo Ngọc ngồi trên xe, hỏi Phượng Thư:
Chị ơi, nó nói “Ba hôi”, “Ba hôi” là nghĩa thế nào? Phượng Thư trừng mắt mắng át:
Đừng nói bậy! Quân say rượu nói càn, em phải lờ đi như không nghe thấy, sao lại còn hỏi lẩn mẩn làm gì? Chị về mách mẹ xem có phải đòn không?
Bảo Ngọc sợ hãi, vội van xin:
Chị ơi, từ giờ em không dám nói câu ấy nữa.
Thế mới phải chứ. Để khi về, chúng ta sẽ trình cụ, sai người đến trường nói rõ, rồi mời Tần Chung sang học ngay.
Nói xong, trở về phủ Vinh. Thực là: Bạn khổ chẳng vì người sắc sảo; Sách ham chỉ tại nét phong lưu.
———————————
(1) Bài thuốc của các tiên ở ngoài bể.
(2) Theo âm lịch: một năm có hai mươi bốn tiết, chia thành xuân phân, vũ thủy, bạch lộ, sương giáng, tiểu tuyết…
(3) Thứ thuốc viên có mùi hoa thơm mát.
(4) Một thứ đồ chơi có chín cái vòng, đánh một cái làm cho chín cái vòng liền nhau.
(5) Theo thần thoại: tên một vị thần con vua Tỷ sa môn, diện mạo hung dữ, pháp thuật cao cường.
(6) Thi đỗ trạng nguyên; bốn chữ thường khác vào cái khánh, hay những thỏi vàng; bạc nhỏ; làm tặng phẩm cho con trai, ngụ ý chúc mừng được thi đỗ cao.
(7) ,(8) Đều là những tiếng lóng: em chồng nằm với chị dâu; bố chồng nằm với con dâu.