Syed Ja’afar Albar phản đối việc tôi dẫn đầu đoàn đại biểu đến châu Phi. Ông ta nói ở nghị viện ngày 3/1/1964 rằng: “Thay vì làm cho người châu Phi biết đến liên bang Malaysia, ông ta sẽ khiến cho các quốc gia châu Phi biết đến chính ông ta thôi.” Ông ta muốn một thành viên nội các dẫn đầu đoàn đại biểu. Tunku trả lời rằng tôi yêu cầu ông ta cho phép để giải thích về liên bang Malaysia với những người bạn ở lục địa đó, và ông ta nghĩ tốt hơn là để cho dân chúng ở những vùng lãnh thổ mới của liên bang làm theo cách riêng của họ để báo cho các nước ở châu Phi rằng họ gia nhập liên bang theo tinh thần tự nguyện của họ. Nếu chính phủ không hài lòng với kết quả của phái đoàn, thì có thể gửi đi một phái đoàn khác, trong trường hợp đó, ông ta sẽ tính cả Albar trong đó. Cùng lúc đó, Tunku cũng phê phán tôi vì đã trả lời một lá thư của Chu Ân Lai, dù lá thư này tôi trả lời trước khi hợp nhất. Ông ta nói đây là một việc làm rất sai trái của tôi. Đây quả đúng là Tunku và kiểu quanh co của ông ta. Tôi phải hiểu rằng trong liên bang Malaysia cách cư xử như thế là không thể chấp nhận. Liên bang sẽ không buôn bán với bất kỳ quốc gia cộng sản nào, nhất là Trung Quốc.
Phái đoàn rời Singapore vào cuối tháng 1/1964 trên một chiếc máy bay thuê bốn động cơ, khiến cho việc di chuyển của chúng tôi linh động hơn. Phái đoàn gồm có Tổng ủy viên của Sarawak, Stephen Kalong Ningkan (ông ta gia nhập đoàn tại Lagos vào tháng 2), và phụ tá của ông ta, James Wong, với Tổng ủy viên của Sabah, Harris Salleh, và một thành viên trong nội các của ông ta, và ở Singapore có Devan Nair, và thư ký nghị viện của tôi, Rahim Ishak. Tôi muốn mỗi nhóm chủng tộc chính đều có người đại diện – Malay, Trung Quốc, Ấn Độ, Dayak và Kadazan. Chúng tôi có hai viên chức cao cấp từ bộ phận đối ngoại làm thư ký, và một đội ngũ các phóng viên người Malay. Chúng tôi lên kế hoạch đi thăm 17 đến 18 quốc gia trong khoảng 35 ngày, và dừng lại ở Cairo và Alexandria trong khi tiến hành việc sắp xếp. Điều này thật không đơn giản. Liên bang Malaysia không hề có đại diện ở châu Phi da đen35, vì vậy việc liên hệ tiến hành chậm chạp và vòng vo, thông qua các phái đoàn của họ ở London, hoặc các tòa đại sứ của họ ở Cairo, hoặc các đoàn đại biểu ở Liên Hiệp Quốc, và đôi khi với sự giúp đỡ từ văn phòng đối ngoại của Anh. Điều này bất lợi ở chỗ nó khiến liên bang Malaysia có vẻ như do Anh bảo hộ, nhưng đôi khi không có sự chọn lựa nào khác. Chỉ một quốc gia duy nhất, Lybia, từ chối tiếp đón chúng tôi.
Chuyến dừng đầu tiên của chúng tôi là Cairo. Tổng thống Nasser không hề thay đổi suy nghĩ của ông ta về liên bang Malaysia từ khi tôi gặp ông ta vào tháng 4/1962. Antara, thông tấn xã của Indonesia, đã tường thuật rằng đại sứ liên bang Malaysia đến Cairo đã gặp phải sự lạnh nhạt của Nasser, người đã từ chối nhận quốc thư của ông ta. Bộ trưởng Ngoại giao Ai Cập, Mahmood Fawzi, nói rằng luận điệu này hoàn toàn sai sự thật. Antara cũng nói rằng Ai Cập đồng tình với Indonesia. (Những người Indonesia đã xảo quyệt yêu cầu đại sứ quán Ai Cập ở Kuala Lumpur chăm sóc quyền lợi của họ khi họ rút đại sứ của họ về.) Fawzi nói điều này là “không có cơ sở”. Những chuyện đó là cú đấm đối với Indonesia. Fawzi, trên 70, là người lịch duyệt và có học thức. Ông ta giải thích tại sao Sukarno chống lại việc thành lập liên bang Malaysia và ông ta hy vọng đạt được điều gì, rằng ông ta cần một vấn đề nào đó để giữ cho dân tộc của ông ta bận tâm đến những tham vọng bên ngoài, và nếu như ông ta có thể làm tan rã liên bang Malaysia, thì đó sẽ là vấn đề thời gian trước khi Sabah và Sarawak sẽ bị sáp nhập vào phần Borneo của Indonesia.
Nasser nồng nhiệt và thân thiện trong suốt cuộc thảo luận hai giờ, kèm theo bữa ăn tối. Trong một thông cáo chung, ông ta phát biểu rằng ông ta đã nhận một lời mời viếng thăm liên bang Malaysia. Mặt khác, Ai Cập công nhận liên bang Malaysia và không xem nó là hình thức thực dân kiểu mới.
Ở Tunisia, chuyến dừng kế tiếp của tôi, tổng thống Habib Buorguiba, một người Ả Rập hoàn toàn Pháp hóa, bất ngờ lại là người theo đuổi một đường lối chống thực dân mạnh mẽ. Vấn đề là Tunku, vì cá tính mềm mại và những tuyên bố ôn hòa của ông ta, được coi như giống với các thủ lĩnh bộ tộc châu Phi tiêu biểu được chính quyền thực dân nuôi dưỡng rồi sau đó được trao trả độc lập, và thông qua họ, những kẻ cai trị trước đây vẫn giữ được ảnh hưởng chính trị và quyền lợi kinh tế. Tuy nhiên Bourguiba chấp nhận rằng liên bang Malaysia, một đất nước có 10 triệu dân, với 10.000 binh lính, có quyền kêu gọi sự giúp đỡ khi một quốc gia có tới 100 triệu người với 400.000 binh lính tấn công nó. Tôi lặp lại lý lẽ này và nó đã có tác dụng tốt mỗi khi gặp một lãnh tụ nào có vẻ dè dặt về những quan hệ phòng vệ của Liên bang Malaysia với nước Anh.
Từ Tunisia chúng tôi bay tới Rabat, thủ đô của Ma-rốc. Đức vua không tiếp đón chúng tôi, và viên Thủ tướng của ông ta tỏ ra không mấy quan tâm, khiến cuộc nói chuyện của chúng tôi chán ngắt, ông ta không chống lại Liên bang Malaysia, và dù sao đi nữa thì người Ma-rốc cũng thân phương Tây, vì vậy không có nguy cơ là họ sẽ ủng hộ Indonesia của Sukarno.
Sau đó là Algier, nơi tôi từng đến thăm hồi tháng 7/1962 trên đường tôi trở về sau hội nghị London, lúc đó người Algeria vừa giành được độc lập từ tay Pháp. Dù tôi từ Paris đến lúc đã khuya, Thủ tướng Ben Bella vẫn đãi tôi một bữa cơm tối lúc 11 giờ đêm. Lần này có thể ông ta đã được bộ Ngoại giao cho biết rằng Tunku không phải là nhà cách mạng chống chủ nghĩa thực dân nhưng ông ta biết tôi như một người theo chủ nghĩa dân tộc và đã rất thân thiện. Với sự giúp đỡ của Harris Salleh của Sabah và James Wong của Sarawak, tôi đã có thể thuyết phục ông ta rằng chúng tôi có quyền không để cho người Indonesia thôn tính, nhưng có quyền chia sẻ số phận của chúng tôi với người Malay, với họ chúng tôi đã cùng chịu chung một ách thống trị của thực dân Anh. Sau đó James Wong và tôi được mời dự một cuộc họp bất ngờ lần hai với ông ta. Ben Bella bày tỏ hy vọng hòa bình sẽ được tái lập, và nói rằng Algeria sẵn sàng ủng hộ bất kỳ nỗ lực nào mà nó sẽ đưa Malaysia và Indonesia lại gần nhau để giải quyết những bất đồng một cách thân thiện. Cuộc họp này đem lại một thông cáo do người Algeria soạn thảo mà nó không hề phản ánh những do dự mà họ đã bộc lộ trước đây trong Ủy ban thẩm tra tư cách của Liên Hiệp Quốc, và đã ghi lại rằng cuộc viếng thăm của phái đoàn Malaysia là điềm báo tốt cho việc tăng cường hiểu biết và tình bạn lẫn nhau giữa hai quốc gia.
Điểm dừng tiếp theo của tôi là Bamako ở Mali, một xứ sở khô cằn, nhiều sa mạc. Tôi ngạc nhiên khám phá ra rằng Timbuktu không phải là một nơi trong tưởng tượng. Tại phi trường, tôi được đón tiếp theo kiểu Pháp, trước tiên là với một đội quân danh dự, tiếp theo là một cô gái Phi lai Ả Rập da đen, mảnh mai trong bộ áo phương Tây, hôn lên hai má và tặng tôi một bó hoa. Tổng thống Modibo Keita trong chiếc áo choàng Ả Rập tiếp chúng tôi tại tòa lâu đài mới xây của ông ta, những căn phòng trong đó có trần cao, đầy nhóc đồ đạc và được điều hòa không khí. Một thông cáo chính thức đưa ra từ phủ Tổng thống nói rằng ông ta tái xác nhận sự gắn bó của Mali đối với những nguyên tắc của chính sách không liên kết, hoàn toàn phản đối sự có mặt của những căn cứ quân sự nước ngoài, nhưng nói thêm rằng những nguyên tắc đó cũng đòi hỏi sự tôn trọng chủ quyền của các quốc gia. Sau đó thông cáo đề cập đến lời mời vị nguyên thủ Mali viếng thăm chính thức liên bang Malaysia và tuyên bố rằng ông ta đã tán thành. Giống như Ben Bella của Algeria, Tổng thống Keita tỏ dấu hiệu rằng quốc gia của ông đã không còn dè dặt về liên bang Malaysia.
Khi bay về phía Nam, tôi có thể hiểu ra cách những người Ả Rập và châu Phi gặp gỡ và hòa nhập vào nhau ở vùng Bắc Sahara, nơi đây nhiều người châu Phi đã cải sang đạo Hồi. Về mặt dân tộc, châu Phi da đen là một thế giới hoàn toàn khác với một nền văn hóa khác hẳn.
Liberia là một tiếng thét. Chúng tôi đến thủ đô trước khi trời tối. Sau bầu không khí sa mạc khô khan của Bamako, Monrovia ấm áp và ẩm ướt, giống như Singapore. Nhưng Liberia chỉ là một bản sao chưa hoàn chỉnh của một quốc gia. Một đội quân danh dự kiểu Mỹ đứng dàn hàng đến tận phi trường, trông không có tí gì là quân đội hay cái gì khác ngoại trừ vẻ sang trọng. Một người Phi cao lớn chào mừng tôi bằng thứ tiếng Anh theo giọng Mỹ và nói rằng ông ta là Bộ trưởng Ngoại giao. Hầu hết các cơ quan của họ đều được đặt tên hoặc mô phỏng theo của Mỹ, nhưng sự giống nhau chỉ dừng lại ở đó. Khi duyệt binh danh dự, tôi nghe 18 phát súng đại bác nổ yếu ớt đến chưa từng có, giống như tiếng pháo lẹt đẹt vậy.
Trong khi chúng tôi ngồi trong phòng VIP chờ lấy hành lý, viên Bộ trưởng Ngoại giao nói là chúng tôi sẽ đi thẳng đến trang trại của Tổng thống William Tubman, ở đó ông ta đang chờ để dùng bữa tối với chúng tôi. Phải mất ít nhất là hai giờ đi xe. Tôi hết hồn. Chúng tôi đã bay suốt ba tiếng đồng hồ, và cần tắm rửa thay quần áo. Nhưng không có cách nào khác. Chúng tôi lại lên đường. Có bảy quân nhân mở đường trên những chiếc mô tô quân sự hai ống pô của hãng Harley–Davidson, và tiếng máy bộ đàm của người dẫn đường chính và của viên sỹ quan hộ tống quân sự ở chỗ ngồi phía trước chiếc Cadillac của chúng tôi cứ kêu không dứt. Khi một trong
những chiếc mô tô rơi xuống mương nước, viên Bộ trưởng Ngoại giao không hề lo lắng chút nào. Trên con đường của chuyến đi dài ba tiếng đồng hồ, có hai mô tô nữa bị lạc tay lái bay khỏi lòng đường. Những người ngồi xe bị thương nặng hay nhẹ, chẳng ai quan tâm. Tôi quyết định không hỏi; qua phản ứng của viên Bộ trưởng Ngoại giao và viên sỹ quan tùy viên, những chuyện đó dường như là chuyện xảy ra hàng ngày.
Chúng tôi đến và được đưa vào để chụp hình. Trước đó tôi phải cố nài mới được cho ít phút để rửa ráy. Sau đó Tubman diễn thuyết thật lâu. Cuối cùng, bữa ăn tối cũng được dọn. Ông ta gõ một cái búa lên bàn và nói: “Mời ngài Phó Tổng thống.” Viên Phó Tổng thống ngồi ở cuối bàn cảm ơn Chúa vì bữa ăn. Gần nửa đêm chúng tôi cáo lui để tiếp tục thực hiện một cuộc hành trình dài tới nhà nghỉ của chúng tôi ở Monrovia.
Mệt lử, tôi lấy bộ pyjama đi vào phòng tắm, và nhận thấy bồn tắm đầy nước với cặn bẩn dưới đáy. Tôi rủa thầm và kéo nút chặn ra, nhưng mặc dù mệt mỏi, bản năng vẫn báo cho biết tôi đang làm một cái gì đó ngu ngốc và nhanh chóng đậy nút chặn lại. Quả nhiên là vòi không chảy nước. Với số nước bẩn còn sót lại, tôi đã xoay xở hết sức để rửa sạch bụi bặm dầu mỡ trong chuyến đi. Tôi tìm một chai nước soda để đánh răng. Chẳng thấy, tôi phải dùng Fanta. Nó ngọt, nhưng còn hơn là không có gì cả; tôi hy vọng thuốc đánh răng sẽ trung hòa được đường. Sau tất cả sự kích động đó, tôi không ngủ được. Tôi cầm lên mấy thứ sách báo gì đó trên chiếc bàn cạnh giường. Nó là tài liệu ca tụng Tổng thống, ngôi sao của châu Phi, vị cứu tinh của đất nước. Tôi xếp nó lại để mang về nhà như một vật kỷ niệm về cách thức làm thế nào để không gây ấn tượng cho khách.
Không cần thiết phải có một tuyên bố chung ở Liberia, vì Tubman được biết là một người thân Mỹ. Ông ta ủng hộ liên bang Malaysia và nhận lời mời viếng thăm liên bang của Tunku. Ngày hôm sau, tôi lang thang khắp Monrovia để ngắm khu dinh Tổng thống khổng lồ này và những khu ổ chuột tệ hại quanh đó. Tôi thấy dễ chịu khi ra ngoài.
Sau Monrovia là Conakry ở Guinea, một quốc gia bài Pháp nhất trong các quốc gia châu Phi nói tiếng Pháp. Tổng thống Pháp De Gaulle không hài lòng khi Guinea bỏ phiếu chọn việc tách khỏi cộng đồng Pháp. Họ nói với chúng tôi rằng người Pháp đã lấy đi tất cả
điện thoại và các máy móc khác trước khi trao trả đất nước. Nhưng thậm chí nếu như mọi thứ vẫn được để lại trong tình trạng hoạt động, thì những chính sách trung ương tập quyền mà Tổng thống Sekou Toure đã theo đuổi chắc chắn sẽ đưa chúng đến chỗ nghèo nàn. Năm 1964, những vật dụng này vẫn chưa hoàn toàn hư hỏng. Đoàn đại biểu được thu xếp ở trong những biệt thự nhỏ cạnh bờ biển trông giống như những chiếc lều mái lá rộng rãi dành cho các tù trưởng bộ lạc, nhưng được xây bằng gạch và hồ.
Sekou Toure là người theo chủ nghĩa công đoàn. Ông ta rất thông minh. Chúng tôi dành nhiều thời gian bàn về chủ nghĩa xã hội thong qua một người phiên dịch, và ông ta tặng tôi mấy tác phẩm của ông ta, Socialism for Guinea (Chủ nghĩa xã hội cho Guinea). Mọi người đều biết ông ta là người chống lại sự can thiệp của chủ nghĩa đế quốc vào các thuộc địa cũ của Pháp để ủng hộ những lãnh tụ da đen ưa chuộng các chính sách của Pháp, nhưng dù ông ta không biết nhiều về Malaysia, tôi vẫn có thể làm cho ông ta hiểu rằng binh lính Anh là cần thiết cho sự sống còn của một quốc gia nhỏ bé đang bị một người láng giềng khổng lồ đe dọa. Dù quan điểm ban đầu của ông ta ra sao đi nữa, tôi cảm thấy mình đã làm ông ta dễ tiếp nhận và phóng khoáng hơn. Ông ta có thể thấy rằng James Wong, Harris Salleh và tôi không phải là tay sai cho thực dân. Ông ta tiếp chúng tôi với một tác phong lịch sự, đãi chúng tôi một bữa trưa long trọng, và không phản đối Malaysia.
Sau đó chúng tôi huớng tới Abidjan ở Ivory Coast (Bờ biển Ngà). Nơi đây tương phản hoàn toàn với Conakry. Tổng thống Houphouet Boigny, một người Pháp da đen, đã là một Bộ trưởng trong nền Đệ tứ Cộng hòa Pháp. Lịch sự trong thái độ, tao nhã trong ăn mặc, ông ta tiếp chúng tôi trong tòa lâu đài tráng lệ tọa lạc trên sườn đồi và chúng tôi dùng bữa với các món ăn Pháp tuyệt vời và rượu vang hảo hạng. Ông ta là người Phi chắc chắn, vì có tới hai vợ, cả hai cùng có mặt trong bữa ăn, họ đều trẻ, rất hấp dẫn và là chị em.
Không cần phải thuyết phục ông ta về trường hợp của chúng tôi. Ông ta nói rằng những lãnh tụ châu Phi đi theo con đường khác và trở thành những kẻ chống thực dân và theo cộng sản hoặc theo chủ nghĩa xã hội rồi sẽ chịu thất bại. Tôi bị ấn tượng bởi chủ nghĩa hiện thực của ông ta. Ông ta có một Tham mưu trưởng người Pháp. Những Bộ trưởng của ông ta cũng có những ủy viên người Pháp như
thế. Những người Pháp này ghi chép các thứ và tỏ ra rất hiệu năng. Tổng thống nhận lời mời viếng thăm Malaysia của Tunku không chút ngần ngừ. Lúc đó Ivory Coast là một thành viên của Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc, đại diện cho khối châu Phi, và vì thế rất có lợi khi có họ đứng về phe Malaysia.
Kế đó là Accra ở Ghana. Trong số các đại sứ đến đón tôi tại phi trường có những người thuộc các nước Ivory Coast, Ai Cập và Algeria. Điều đó khẳng định rằng Algeria hiện ủng hộ chúng tôi. Ghana, vào thời tôi sưu tập tem thì nước này mang tên Gold Coast (Bờ biển Vàng), là nước đầu tiên của châu Phi giành được độc lập (năm 1957). Lãnh tụ của nước này, Kwame Nkrumah, là một người có tinh thần Liên châu Phi và đã nêu gương cho những người khác bằng cách lấy một người vợ Ai Cập. Báo chí địa phương gọi ông ta là Osagyefo, người của thời đại hoặc người dẫn đường, và ông ta có uy tín là người chống thực dân. Vào ngày tôi đến, tờ Evening News của Accra viết: “Liên bang Malaysia hiện mang dấu ấn của chủ nghĩa thực dân mới.” Tờ báo so sánh nó với Liên hiệp Trung Phi đã tan rã và sự sáp nhập của Aden vào Liên hiệp Nam Ả Rập.
Tôi gặp Nkrumah vào Chủ nhật tại lâu đài Christianborg có từ hồi thế kỷ 17, một trạm buôn bán nô lệ của người Đan Mạch thời xưa, sau trở thành chỗ làm việc của chính phủ. Khi tôi tiến vào phòng làm việc riêng của ông ta, tôi đi giữa những ngọn đèn dầu kiểu Ấn Độ, những sợi bấc nổi trên những cái tô bằng đồng thau nhỏ xếp dài hai bên một tấm thảm đỏ. Tôi nhận ra ông ta đang trong một trạng thái tinh thần kỳ lạ. Ông ta vừa sống sót được sau một cuộc đảo chính thất bại, nên hơi khép kín và hoang mang. Nhưng ông ta chân thành và thân thiện đối với tôi, và chúng tôi thảo luận với nhau một tiếng đồng hồ. Ông ta nói với tôi, và tôi đã tường thuật lại với báo chí của tôi, rằng: “Nếu các bạn không đi tới, các bạn hẳn sẽ thua vì bỏ cuộc, vì sai lầm của các bạn.” Hôm sau, báo chí địa phương nói tới Malaysia với giọng điệu ôn hòa hơn. Bây giờ họ nói rằng rất có thể, có lẽ một cách vô thức, nó sẽ bị sử dụng cho những mục đích của chủ nghĩa thực dân mới. Tôi mất cả ngày lái xe vượt 70 dặm tới đập nước Thượng Volta, do một công ty của Ý xây dựng, và do chính phủ Anh, Mỹ cùng Ngân hàng thế giới đồng tài trợ. Nhưng sau khi thăm viếng Conakry và Accra và gặp các lãnh tụ nói về việc phân
phối của cải theo kiểu xã hội chủ nghĩa, tôi tin họ sẽ trở nên nghèo khổ.
Tại Lagos ở Nigeria, bạn thân của Tunku, Thủ tướng Alhaji Sir Abubakar Tafawa Balewa, gặp tôi ở phi trường với một đội quân danh dự. Nghi lễ rặt theo kiểu Anh. Ông ta ủng hộ Malaysia tận tình, và nhân dân Nigeria cũng biểu lộ sự thân thiện. Tất cả đứng dọc theo con đường dài 15 dặm tới thành phố, họ vẫy tay và la to những lời chào mừng. Lagos trông sung túc hơn Accra nhiều. Nhiều công thự giống hệt như công thự ở Singapore và Malaya. Chắc chúng theo cùng đồ án của Bộ Công chính Anh. Trên đường ra sân bay rời nước này, tôi đã có thể nói về sự ủng hộ tinh thần hoàn toàn mà vị Thủ tướng đã dành cho Malaysia. Nigeria đã phái một đại biểu đặc biệt đến dự các buổi lễ mừng độc lập ở Kuala Lumpur.
Lusaka nằm ở phía Bắc Rhodesia, sớm được độc lập và đổi tên thành Zambia. Nó tổ chức cuộc tổng tuyển cử đầu tiên hồi tháng giêng, chỉ vài tuần trước khi chúng tôi đến. Kenneth Kaunda, Thủ tướng, đã đi vắng và tiếp tôi là viên phụ tá của ông ta, Kamanga. Chúng tôi được xếp ở khách sạn Livingstone, một tòa nhà một tầng thật đẹp, giống một nhà trọ lớn ở một tỉnh lị nước Anh. Các Bộ trưởng thì thân thiện. Họ biết rất ít về Đông Nam Á nhưng rất vui khi chúng tôi đến thăm và tìm kiếm sự ủng hộ của họ, và chính phủ chấp thuận một lời mời đến thăm Malaysia của Tunku.
Sau đó là ở Blantyre, Malawi. Tổng thống là bác sĩ Hastings Banda, được mọi người gọi là Ngwazi, nghĩa là người được tôn kính như một con sư tử vì quyền lực và sức mạnh của ông ta. Ông ta đã qua kỳ thi sát hạch trình độ với tư cách là một bác sĩ khoa nội ở Scotland và đã vui vẻ thực tập ở đó trong nhiều năm. Ông ta không cần một sự thuyết phục nào cả; ông kiên quyết chống lại tinh thần bài xích người da trắng.
Và từ Malawi, trên đường tới Madagascar, hồi đó được gọi là Malagaay, và đến thủ đô Tananarive, nơi Tổng thống Tsiranana tiếp chúng tôi với sự nồng nhiệt và lòng mến khách tuyệt vời. Ông ta là một người thú vị, thẳng thắn và chân thành. Ông ta công khai nói về mối quan hệ chặt chẽ của nước mình với Pháp. Sau khi nghe tôi, ông nói: “Nếu như một quốc gia phải bị thuộc địa hóa, thì thà bị những nước văn minh chiếm làm thuộc địa còn hơn là những nước kém văn minh.”
Madagascar là một đất nước kỳ lạ, là một đảo ngoài khơi bờ biển châu Phi, mà dân chúng ở đó một phần là châu Phi và một phần là Malay hoặc Polynesia. Các điệu múa của họ kết hợp điệu nhảy chân của người Phi với động tác tay của Malay và Polynesia, và trong ngôn ngữ của họ có lẫn tiếng Malay. Sau các cuộc thảo luận của chúng tôi trong văn phòng của ông ta, Tsiranana lấy một túi da từ trong ngăn kéo và trải ra một lô những viên đá quý lấp lánh, tất cả được khai thác ở Madagascar. Ông ta mời chúng tôi mỗi người chọn một viên. Tôi lấy một viên màu xanh nước biển cho Choo. Những thành viên khác của phái đoàn mỗi người đều có một sở thích khác nhau. Ông ta tìm được niềm vui lớn trong việc nhìn vẻ rạng rỡ trên khuôn mặt chúng tôi khi chọn các viên ngọc.
Dar–es–Salaamm ở Tanganyika, sau đổi thành Tanzania thì khác hẳn. Julius Nyerere là người công giáo, một người theo chủ nghĩa nhân văn và chủ nghĩa xã hội, và ông thể hiện sự ủng hộ Malaysia qua cách nói thẳng thắn. Từ lần gặp đầu tiên, tôi đã thích ông ta vì cách ăn mặc, cử chỉ và lối sống giản dị. Ông mời tôi ở trong dinh Tổng thống, trước kia dành cho viên thống sứ Anh và trước Thế chiến thứ nhất là chỗ ở của quan cai trị người Đức. Riêng ông ta thì thích sống trong một ngôi nhà nhỏ gần đó. Ông ta mời các Bộ trưởng Ấn Độ đến dùng cơm, nêu rõ quan điểm rằng, không như các quốc gia Đông Phi khác, ông ta có một chỗ dành cho họ ở Tanganyika. Nhưng tiếc thay, tinh thần Fabian và xu hướng tập quyền của ông ta, xuất phát chủ yếu từ các cuộc thảo luận với các lãnh tụ chống thực dân khác và những người theo chủ nghĩa xã hội Anh có thiện chí mà ông ta gặp ở Anh, đã khiến cho đất nước của ông ta rơi vào đói nghèo một cách không cần thiết.
Khi tôi đến Kampala ở Uganda, Thủ tướng Milton Obote đi vắng và tôi được các Bộ trưởng đón tiếp. Họ thân thiện và hiểu biết, một phần nhờ bởi những quan hệ trong Khối thịnh vượng chung. Có một sự căng thẳng nào đó giữa chính phủ và Kabaka của Buganda, hay “Vua Freddie” như ông ta được mọi người gọi như vậy, nhưng dù Obote đã gặp Tunku trong các hội nghị của Khối thịnh vượng chung và đã nhìn ông ta một cách sai lầm như một “Vua Freddie” khác, thì điều đó cũng không ảnh hưởng đến sự ủng hộ của Uganda đối với Malaysia. Họ đồng tình với Malaysia và không ủng hộ Indonesia.
Chặng dừng kế tiếp, Nairobi, lại quan trọng. Tổng thống Jomo Kenyatta được mọi người gọi là Mzee, một từ dùng để chỉ sự tôn
kính và sùng bái cao độ dành cho người già. Ông nổi tiếng khắp thế giới là một chiến sĩ đấu tranh cho tự do đã từng bị giam giữ trong xiềng xích suốt cuộc phiến loạn Mao Mao vào những năm 1950 chống lại chính phủ Anh và những tên thực dân da trắng36. Viên toàn quyền Malcolm MacDonald, mà tôi đã từng biết khi ông ta là Tổng ủy viên Anh ở Đông Nam Á, đã tóm lược cho chính phủ Kenya về Malaysia, và tất cả những gì tôi cần làm là gặp Kenyatta và đạt được sự tán thành của ông. Thật không may, ông đang ở Mombasa, khánh thành một nhà máy lọc dầu, nhưng Malcolm MacDonald là nguời tháo vát, và ông ta thu xếp với chính phủ để có máy bay đưa tôi tới đó.
Kenyatta đón tôi ở phi trường và chúng tôi cùng ngồi xe đến khách sạn của tôi qua những đám đông đang la to “Urumbi, Urumbi”. Kenyatta giục tôi cùng hô theo và chỉ ngón trỏ lên trời như họ đã làm; cử chỉ này, ông giải thích, có nghĩa là “chúng ta hãy hành động như một dân tộc”. Trong một thông cáo chung, ông nhấn mạnh tình bạn của Kenya với Malaysia, đón mừng cuộc viếng thăm của phái đoàn như một bước nhằm củng cố sự hiểu biết lẫn nhau, và cám ơn tôi vì đã đến Mombasa để gặp ông.
Chặng dừng cuối cùng của tôi là Addis Ababa ở Ethiopia. Sau khi đến, tôi đi chơi bằng xe vào buổi chiều, dùng bữa trong nhà khách, và ngủ. Lúc ba giờ sáng, thức dậy tôi cảm thấy thật nặng ở ngực. Tôi sợ mình bị chứng đau tim. Tôi ngủ chập chờn. Tại bữa điểm tâm, tôi hỏi vài thành viên khác trong đoàn xem có ai trải qua trạng thái kỳ lạ này không. Không ai bị cả. Tôi ước gì chúng tôi mang theo một bác sĩ. Khi nhóm còn lại từ một khách sạn khác trong thành phố đến, tôi thật an tâm khi thấy vài người trong số họ cũng trải qua cảm giác như tôi. Đó là bệnh ở vùng núi. Addis Ababa cách mực nước biển gần 3.000 mét.
Để được hoàng đế Haile Selassie tiếp kiến, tôi phải đi qua hai con báo được xiềng vào cột hai bên ông ta. Đó là một hình ảnh của Vua Salomon trong kinh thánh, có điều là vua Haile Selassie mặc một bộ quân phục kiểu Anh. Ông ta lắng nghe và dứt khoát ủng hộ Malaysia. Nhưng nước của ông ta không phải là một trong những chế độ cách mạng của châu Phi. Tôi bị chấn động bởi thái độ sợ hãi và sùng kính của dân chúng trên đường khi xe tôi đi ngang với lá cờ đang tung bay. Họ giở nón và cúi đầu thật thấp. Lá cờ biểu trưng cho quyền lực, dù nó tung bay vì hoàng đế, vì khách của ông ta hay
vì các viên chức của ông ta, và họ biết thân phận thấp hèn của họ dưới đáy xã hội. Trái với những dinh thự đẹp đẽ chung quanh, họ trông tiều tụy và nghèo khổ. Tôi quy tất cả những điều này cho chế độ phong kiến lỗi thời đã bần cùng hóa người nông dân và dành của cải cho tầng lớp quý tộc. Tôi không cảm thấy lạc quan cho tương lai của đất nuớc này.
Từ Addis Ababa tôi bay tới Aden để tiếp nhiên liệu trước khi tới New Delhi. Aden đang khổ sở vì cuộc nội chiến, khi người Anh chuẩn bị rút lui. Các biện pháp an ninh rất nghiêm ngặt quanh phi trường, với những dây thép gai và lính đứng gác ở những vị trí trọng yếu, và qua việc nói chuyện với các sỹ quan không quân hoàng gia Anh trong khi đợi ở đó, tôi có thể cảm giác được một tình trạng khẩn cấp.
Ở Delhi tôi giật mình khi thấy Nehru già đi nhiều so với lúc tôi gặp ông lần đầu vào tháng 4/1962. Ông ta trông mệt mỏi và khó tập trung tư tưởng. Cuộc chiến tranh biên giới tháng 12/1962 giữa quân đội Ấn Độ và Trung Quốc bên kia Hymalaya gần Ladakh đã là một thảm họa. Nó đã phá hủy tất cả những gì ông đã hy vọng và chiến đấu để giành lấy. Ông cũng đã giới thiệu Chu Ân Lai với các lãnh tụ
Á Phi ở Hội nghị Bandung năm 195537 để báo trước một thời kỳ mới
của tình đoàn kết Á Phi. Giấc mơ của ông đã biến thành tro bụi. Tôi cảm thông với ông. Ông đã mất đi sức sống và tinh thần lạc quan của mình. Các Bộ trưởng và viên chức của ông tiếp chúng tôi với sự nồng nhiệt và lòng mến khách, và các phái đoàn của họ ở châu Phi thật hữu ích.
Điểm dừng kế tiếp của tôi là Kuala Lumpur chứ không phải Singapore, vì tôi còn phải báo cáo cho Tunku. Ông ta hài lòng vì thấy tôi đã ngăn chặn và đánh trả được sự tuyên truyền của Sukarno trên mặt trận Á Phi, và cuộc họp báo của tôi được phát đầy đủ trên đài truyền hình Kuala Lumpur. Tôi nói rằng Indonesia đã có kinh nghiệm lâu năm trong bang giao quốc tế và vượt xa người Malaysia chúng tôi về lĩnh vực này. Họ đã phát triển được các kỹ năng tuyên truyền; họ biết sự nhạy cảm và dễ lĩnh hội của các lãnh tụ châu Phi, những người không ưa các căn cứ ngoại quốc. Vấn đề là ở chỗ hình ảnh quốc tế của Sukarno, được đánh giá qua thuật hùng biện của ông ta, có vẻ là một nhà cách mạng chống chủ nghĩa thực dân nhiệt tình, trong khi Tunku, trái lại, là một người rụt rè, ôn hòa của
phương Tây. Indonesia đã xuyên tạc thái độ hòa nhã của ông ta là thái độ của một tay sai của Anh.
Trong trạng thái phấn kích, Tunku đã tha thứ cho tôi vì những tuyên bố bất phục tùng của tôi trong cuộc bầu cử, và đề nghị rằng tôi nên đến New York và Washington để thuyết phục người Mỹ như tôi đã thuyết phục người Phi. Tôi có thể lên đường ngay lập tức sau khi đã nghỉ ngơi. Ngày hôm sau, 27/2, tôi bay về Singapore trong sự tiếp đón nồng nhiệt của hàng nghìn người tại phi trường. James Wong, người đã về Sarawak sau khi chia tay tôi ở Dar–es–Salaam, trong lúc ghé lại Singapore trên đường về đã mô tả chuyến công cán của chúng tôi là một thành công rực rỡ: “Chúng tôi đã giành được sự hiểu biết, đồng tình và ủng hộ tinh thần của tất cả các nguyên thủ và Bộ trưởng những nước châu Phi mà chúng tôi đã gặp gỡ.” Khi tôi lái xe về nhà cùng Choo và ba đứa trẻ trên xe, đám đông vẫy theo tôi suốt đoạn đường. Đó là một chuyến đi mệt mỏi, nhưng đã là một phần vô giá trong kinh nghiệm chính trị của tôi. Trước tiên tôi hiểu thêm được về Ả Rập và các dân tộc châu Phi, và hiểu trở lực gì mà các nước châu Phi phải khắc phục để giáo dục các bộ tộc của họ và phát triển nền kinh tế thường phiến diện của họ.
Qua chuyến đi dài 35 ngày qua 17 thủ đô châu Phi, tôi đã được các đại sứ Anh chuyên nghiệp giúp đỡ. Các nhà ngoại giao của họ đều thạo tin, thích nghi tốt với các chính phủ chủ nhà, biết kín đáo hay lộ diện khi tình hình đòi hỏi. Tại mỗi điểm dừng, tôi đều được nghe họ trình bày tóm tắt về tình hình đất nước đó, chân dung thu nhỏ của các Bộ trưởng mà tôi muốn gặp, và một mô tả về cơ cấu chính quyền. Những bản tóm tắt luôn luôn rất tốt. Năng lực của các nhà ngoại giao Anh rất cao. Còn việc họ có mang những lợi ích kinh tế về cho người Anh hay không là một vấn đề khác.
Một trong những hồi ức khó quên nhất của tôi là Dinh Chính phủ ở Lusaka, nơi tôi lưu lại với tư cách là khách của viên thống sứ Anh cuối cùng của Bắc Rhodesia, ngài Evelyn Hone. Nó được trang hoàng đẹp và được chăm sóc tốt, nhưng không xa hoa. Các dụng cụ vệ sinh, xà bông, khăn tắm, dao kéo, đồ sứ đều giống như những thứ mà tôi thấy trong các dinh chính phủ Anh ở Singapore, Sarawak và Bắc Borneo. Tất cả chúng là một phần của một hệ thống được điều hành tốt. Tôi tự hỏi viên thống sứ sẽ sống một cuộc đời như thế nào
ở Anh một khi ông ta rời khỏi chức vụ và không còn đoàn gia nhân đồng phục. Ông ta thực hiện vai trò ông chủ tiếp khách với vẻ tao
nhã, lịch lãm. Từ cửa sổ phòng khách của ông ta, tôi thích thú nhìn bọn hươu nai, linh dương, hoẵng, công, sếu, các động vật và chim chóc châu Phi nhởn nhơ trong vườn. Dinh Chính phủ giống như một tòa lâu đài miền quê của Anh tọa lạc trên cao nguyên châu Phi, càng giống nước Anh cổ càng tốt để làm dịu nỗi nhớ nhà của các viên thống sứ.
Tôi đã có dịp trở lại Lusaka năm 1970 để dự Hội nghị không liên kết, và một lần nữa vào năm 1979 để dự Hội nghị Khối thịnh vượng chung. Mỗi lần lại là một kinh nghiệm buồn bã. Tôi nhớ lại những bông hoa, bụi rậm, hàng cây, bụi cỏ bên vệ đường và ở mỗi vòng xoay khi tôi ngồi xe từ phi trường vào đây hồi năm 1964. Hoa hồng mọc rất nhiều. Sáu năm sau hoa hồng đã biến mất, và cỏ dại mọc đầy. Chín năm sau nữa, ngay cả cỏ dại cũng không còn, những vòng xoay được tráng nhựa. Và trong Dinh Chính phủ, giờ thành nhà nghỉ của Tổng thống, hình như chim và thú cũng ít đi. Tôi tự hỏi tại sao.
Tôi đã nhận được một bài học không thể quên được về vấn đề giải thực, về tầm quan trọng sống còn của việc có được một chính phủ hiệu năng và hợp lòng dân, nhất là tại châu Phi này, để tiếp nhận quyền lực từ guồng máy cai trị thực dân. Khi nhà lãnh đạo không giữ nổi tính thống nhất của đất nước bằng cách chia sẻ quyền lực với những lãnh đạo các sắc dân thiểu số, mà lại tìm cách loại bỏ họ đi, thì hệ thống chính quyền sẽ mau chóng sụp đổ. Tệ hơn nữa, khi các chính sách lạc hướng dựa trên sự hiểu biết hời hợt về chủ nghĩa xã hội và về các lý thuyết tái phân phối lợi tức đi kèm với một chính phủ kém hiệu năng, thì các cộng đồng trước đây đã được chính quyền thực dân nối kết lại sẽ tan rã, kéo theo những hậu quả tai hại khôn lường.