Hồi Ký Lý Quang Diệu - Tập 1

Chương 20: Lược Qua Những Khó Khăn Trước Mắt

Tôi cảm thấy băn khoăn khi cầm quyền ở vào độ tuổi 35. Tôi không có kinh nghiệm gì về quản lý – ngay cả việc quản lý văn phòng tư vấn pháp luật tôi cũng đã giao khoán cho Choo và Dennis. Tôi quyết định phải đích thân tìm hiểu cơ cấu chính quyền và phải thông suốt về các Bộ. Tôi muốn nắm được cảm nghĩ của các nhân viên cấp cao, bản chất công việc của họ, quan điểm và cung cách làm việc, để có thể biết được nên thay đổi đến độ nào nếu muốn giải quyết các vấn nạn về chính trị, kinh tế và xã hội. Tôi cũng muốn đánh giá tài lực của từng Bộ và sắp xếp lại những tài lực đó để tăng cường sức mạnh cho những Bộ quan trọng nhất.

Trước hết tôi đến Bộ Tài chính, vì rằng không có nguồn tài chính thì không thể làm được chuyện gì hết, thế rồi tôi viếng Bộ Nội vụ. Chúng tôi cần có nguồn tình báo tốt về những phần tử quá khích, cần phải nhạy cảm và hiệu quả trong việc đối đầu với họ, và nếu có thể được, phải chặn trước mọi nước cờ của họ. Tôi cũng muốn biết liệu chúng tôi đang có được những người đương chức có năng lực hay không, những con người có thể giúp chúng tôi thu được tin tức, phân tích, suy nghĩ, hoạch định, vốn là những điều cần thiết cho việc vạch ra một chiến lược phản công để cản phá họ. Và ở đường phố, tôi muốn cảnh sát phải có kỷ luật, nhưng cũng kiên quyết, dứt khoát và cứng rắn một khi chúng tôi quyết định dẹp bỏ một vụ biểu tình hay một cuộc bạo loạn vừa mới chớm mầm. Tôi cũng quyết định rằng họ không được hành động theo kiểu kém cỏi, vụng về như dưới thời Lim Yew Hock, thời mà họ được huấn luyện để thực hiện một chức năng chẳng có gì hay ho và đã để cho những người cộng sản có cớ lôi kéo được khối dân nói tiếng Hoa.

Tôi đã kinh lý Bộ Nội vụ vào tháng 10, bốn tháng sau khi nhiệm chức, và đã phát biểu trước các sỹ quan cao cấp của ngành cảnh sát nhằm động viên tinh thần của họ. Tôi nói với họ rằng tôi nghĩ sẽ có chuyện rối loạn trong khoảng một năm nữa. Tôi muốn họ phải

chuẩn bị thật tốt để đối phó. Giám đốc cảnh sát Alan Blades là một người dong dỏng cao, ít nói, có chòm râu dê bạc và đeo kính. Ông là cựu giám đốc của Sở Đặc vụ, ít khi làm công việc của một sỹ quan cảnh phục, nhưng ông hiểu rất rõ mối nguy từ phía đảng cộng sản, và có lẽ đã nghĩ rằng tôi quá gần với họ vì lợi ích riêng – một quan điểm mà nhiều sỹ quan cấp cao của ông cũng nghĩ vậy. Tôi không

biết phải mất bao lâu ông ta mới có thể kết luận được rằng tôi biết chuyện tôi làm và rằng tôi đã hết sức nghiêm túc khi nói rằng chúng ta phải chống lại họ mà không được để mất lòng khối dân nói tiếng Hoa.

Từ tổng nha cảnh sát ở Pearl’s Hill, tôi đến Phòng điều tra hình sự, và rồi đến Sở đặc vụ để gặp viên giám đốc mới là John Linsell. Linsell đã làm việc gần như cả đời trong vai trò một sỹ quan cảnh phục, và rành rẽ trong việc kiểm soát bạo loạn nhiều hơn là thu thập tin tình báo. Ông không gây cho tôi được ấn tượng là có đầu óc tinh tế cần thiết để hiểu được chiến lược và chiến thuật của người cộng sản. Do đó, tôi quyết định sẽ họp với ông cùng với các nhân viên cao cấp của ông đều đặn hằng tuần để tôi có thể nghe trực tiếp từ các sỹ quan vốn là những chuyên gia về an ninh mà không phải qua sự lọc lựa của Linsell. Điều này quả thực có lợi. Hai sỹ quan là Richard Corridon và Ahmad Khan sau này tỏ ra là những nhân viên cực kỳ xuất sắc; không có những phân tích thông tin khôn ngoan và am hiểu của họ và cách xử trí đầy kinh nghiệm trước những tình huống nhạy cảm, chính phủ hẳn đã phải gặp nhiều điều tệ hại.

Chuyến kinh lý Sở đặc vụ của tôi thật đáng giá. Vào một ngày khó có thể nào quên trong tháng 10, tôi được trình một chồng hồ sơ với bìa ngoài in hàng chữ đậm màu đỏ: “Gặp là Bắt”. Số hồ sơ đó lưu những hình chụp các nhà lãnh đạo quan trọng của MCP, mỗi hồ sơ đều có ghi ngắn gọn các chi tiết cốt yếu liên quan đến nhân vật đó. Đúng như tôi nghĩ, trong số đó có hình của Eu Chooi Yip. Eu là một con người rất có năng lực, thông thạo hai thứ tiếng Anh và Hoa, tốt nghiệp đại học Raffles, một người đồng thời với Hon Sui Sen – ông này có đến thăm Sui Sen tại nhà tôi trong thời Nhật tạm chiếm. Lúc ấy ông là một nhân vật cánh tả thuộc loại cấp tiến, và về sau tôi cũng được biết ông là cấp lãnh đạo trong đảng của ông Đặc mệnh.

Mấy trang sau, tim tôi như muốn ngừng đập mặc dù tôi nghĩ mặt tôi chẳng có gì là biến sắc. Tôi nhìn thấy ảnh của chính ông Đặc mệnh. Tôi không ngừng lại quá lâu, nhưng cũng đủ để nắm được những dữ kiện quan trọng. Ông ta chính là Fang Chuang Pi, từng học tại trường Cao trung tiếng Hoa, và đã làm việc cho tờ Nan Chiao News, một tờ báo thân cộng bị đóng cửa ngay sau khi tuyên bố tình trạng khẩn cấp. Từ tên của ông ta, tôi nhận ra ngay ông ta hẳn là anh trai của Fung Yin Ching. Fung (tức là Fang theo tiếng Quan thoại) là một cô gái Hoa 25 tuổi, năng động, dáng vẻ dịu hiền, thành thực, chăm chỉ mà chúng tôi đã đưa ra tranh cử trong kỳ bầu cử. Cô giờ đây đang là dân biểu nữ của PAP, đại biểu cho Stamford.

Mới hai tuần sau khi tôi nhậm chức, Yong Pung How đã bất ngờ đến nhà tôi vào sáng sớm trong khi tôi còn đang vệ sinh. Người hầu ngỡ anh ta là một học sinh người Hoa nên bảo anh ta hãy đến văn phòng. Vào lúc ấy, Choo thấy anh ta chỗ hàng hiên và đã mời anh ta vào chờ ở phòng khách. Anh từ chối dùng điểm tâm mà chỉ ngồi nói chuyện trong lúc tôi dùng bữa. Anh từ Kuala Lumpur đến, để hỏi tôi xem liệu có thể đưa ra lời phát biểu đồng tình với MCA được hay không trong vụ bất đồng giữa họ với UMNO, đồng minh Malay của họ trong Chính phủ liên hiệp đang cầm quyền. Anh vừa được bầu

làm chủ tịch ủy ban tuyên truyền của MCA vào lúc xảy ra sự căng thẳng tại Liên bang vì vấn đề giáo dục của người Hoa. Người Hoa đang cảm thấy bị đe dọa, bởi các nhà lãnh đạo của UMNO có vẻ như đang quyết tâm thâu tóm hết quyền hành, chỉ cho phép các cộng đồng không phải người Malay tham dự trên danh nghĩa. Vì rằng Yong quen thân với tôi, nên chủ tịch MCA đề nghị anh ta nên gặp tôi để nhờ tôi bày tỏ sự ủng hộ cho công cuộc đấu tranh của họ. Họ nghĩ, với tư cách Thủ tướng của Singapore và là người lãnh đạo của PAP, tôi có chỗ đứng và ảnh hưởng với người Hoa tại Malay, trong khi MCA cảm thấy mình yếu ớt đến thảm hại.

Tôi hết sức bối rối và thấy khó vô cùng trước việc người bạn cũ muốn tôi có một lập trường có thể gây xung đột với Tunku và đảng UMNO. Tôi đã nói với anh rằng tuy tôi đồng cảm với MCA thật, nhưng không thể có chuyện tôi gây rối cho Tunku và UMNO theo kiểu nào đó, vì rằng mục tiêu hàng đầu của Singapore là hợp nhất với Malaya. Ba mươi sáu năm sau, Yong vẫn còn nhớ rõ chuyện đó.

Anh kể tôi đã nhấn mạnh nhiều lần rằng: “Tôi phải nghĩ đến Singapore trước.” Anh chẳng quá thất vọng, bởi anh cũng đã dự liệu phản ứng của tôi. Anh biết tôi thẳng thắn và cởi mở với anh. Nhưng lẽ ra tôi phải biết lắng nghe anh cẩn thận hơn thay vì xem yêu cầu của anh là sự can dự không đúng lúc vào các kế hoạch của tôi. Tôi lẽ ra phải nhìn được ý nghĩa của những quan điểm sắc tộc mạnh mẽ như vậy đối với Singapore nếu Singapore trở thành một phần của Malaya. Nếu đã tìm hiểu đến nguồn cội của vấn đề giáo dục, có lẽ tôi đã cảnh giác sớm trước những nhượng bộ lớn mà chúng tôi sẽ phải thực hiện nếu như chúng tôi muốn cộng tác với các nhà lãnh đạo Malay trong Liên bang.

Trong lúc nguy cơ cộng sản thâm nhập chính quyền và nền hành chính trở thành thường trực, thì mối quan tâm chính của chúng tôi trong thời kỳ này còn là chuyện những người bất cộng tác – những người Hán học của Đại học Nanyang.

Trải qua nhiều năm, ý tưởng về một đại học tiếng Hoa đã là một ấp ủ từ khi những thành quả của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa làm dấy lên lần nữa lòng kiêu hãnh về ngôn ngữ và văn hóa Trung Quốc. Giới trí thức, với sự hỗ trợ của báo chí Trung Quốc, đã khuấy lên đòi hỏi phải có một đại học dạy bằng tiếng Hoa. Trong thời kỳ thực dân, người Hoa khinh thị những biên giới giả tạo mà các ông chủ da trắng đã dựng lên trên khắp vùng Đông Nam Á, và đã gọi toàn vùng này là Nanyang, tức Nam Dương (Biển Nam). Vì Singapore là nơi có người Hoa chiếm đa số, nó trở thành trung tâm giáo dục của người Hoa. Nhưng đến lúc ấy vẫn chưa có trường đại học tiếng Hoa nào.

Cuộc thịnh vượng bột phát của thị trường cao su trong thời Chiến tranh Triều Tiên đầu thập niên 1950 đã khiến cho các thương nhân

ở đây trở nên giàu có. Khi Tan Lark Sye, ông vua cao su và là chủ tịch của Hokkien Huay Kuan ở Singapore, một hiệp hội của bang hội người Hoa lớn nhất, vào tháng 1/1953 đề nghị thành lập một trường đại học tiếng Hoa, lập tức có sự hưởng ứng rộng rãi ngay. Vào tháng 5 năm đó, Công ty trách nhiệm hữu hạn Nanyang được đăng ký theo Pháp lệnh Công ty. Hội Hokkien Huay Kuan đã tặng 500 mẫu đất cao su bạc màu tại Jurong ở phía Đông của đảo. Giới công nhân người Hoa, phu kéo xe, những người bán rong, tài xế tắc xi và các phu phen đã đóng góp một ngày lương của họ.

Vào tháng 3/1956, Viện đại học Nanyang chính thức khai giảng với 584 sinh viên đăng ký theo học tại ba trường mỹ thuật, thương mại và khoa học dạy bằng tiếng Hoa. Điều này có nghĩa là sẽ nảy sinh thêm những vấn đề chính trị, vì rằng không có tiếng Anh thì các sinh viên tốt nghiệp sẽ không kiếm được việc làm. Chúng tôi cũng biết rằng chẳng chóng thì chầy viện đại học này, từ ban giảng huấn cho tới sinh viên, sẽ bị những người cộng sản lôi cuốn, y như các trường trung học tiếng Hoa vậy.

Vào những tháng cuối của nhiệm kỳ Tổng ủy viên, Lim Yew Hock đã chỉ định tiến sĩ S.L. Prescott của đại học Western Australia làm chủ tịch ban thanh tra. Ban thanh tra đã đệ trình cho chúng tôi một báo cáo khuyến cáo chính phủ không nên công nhận bằng cấp của Viện đại học Nanyang, bởi tiêu chuẩn của họ rất thấp. Báo cáo này lập tức gây nên phản ứng dữ dội từ phía cộng đồng người nói tiếng

Hoa, giới doanh nhân lãnh đạo cộng đồng này xem báo cáo đó là coi thường năng lực – hoàn toàn xứng đáng – của họ, bởi họ đang điều hành và can thiệp vào công việc giảng huấn chuyên môn, một chuyện lẽ ra phải dành cho một nghị viện mới đúng. Đặc biệt, Tan Lark Sye, chủ tịch hội đồng nhà trường, rất bực tức đối với chúng tôi. Để bày tỏ sự thách thức của mình, ông ta bổ nhiệm tiến sĩ Chuang Chu Lin, hiệu trưởng thân cộng của trường Trung học Chung Cheng, từng bị thải hồi, làm viện phó, và ông còn có hành động khác nữa tỏ lộ sự coi thường chính quyền là tăng lượng sinh viên thu nhận trong năm đó. Tôi biết chuyện này sẽ giúp MCP được tự do hơn trong việc sử dụng viện đại học này làm chỗ đào tạo cán bộ cho họ, nhưng lúc đó chúng tôi chẳng thể nào tính chuyện can thiệp mà không phải trả một cái giá chính trị rất đắt được. Tôi ghi nhớ trong đầu rằng sẽ tính chuyện với Tan sau này thôi.

Đó là bài học đầu tiên cho tôi về sự khác biệt giữa quyền lực chính thức theo pháp định và sức mạnh chính trị cần thiết để thực thi quyền lực đó. Nyuk Lin đã đệ trình với nội các một bản dự thảo nhằm tước bỏ khả năng khuấy đảo chính quyền của Tan bằng cách cho chính quyền có cùng thẩm quyền đối với Nantah (tên viết tắt tiếng Hoa của Viện đại học Nayang) như là đã có thẩm quyền đối với Viện đại học Malaya ở Singapore. Chúng tôi đã phì cười cả lên trước

sự thô sơ của giải pháp ấy. Nyuk Lin bước vào chính quyền sau 20 năm lăn lộn trong nghề bảo hiểm, và mặc dù ông là một Bộ trưởng đầy năng lực, ông vẫn chưa hiểu hết chuyện ông tính giải quyết đó là nan giải đến cỡ nào. Tôi không bao giờ quên được ngày Chủ nhật 30/3/1958, khi mà trọn con đường dài 14 dặm từ Nantah đến Bukit Timah Road và vào thành phố đặc nghẹt những dòng xe đang nhích tới từng chút một để đến dự buổi lễ khai giảng của viện đại học này. Tôi có thể cảm nhận được sự gắn bó tình cảm kinh khiếp của dân chúng người Hoa đối với dự án này. Dự luật của Nyuk Lin sẽ gây nên bạo loạn nơi các trường trung học tiếng Hoa.

Do vậy, chúng tôi đã xếp vấn đề lại, và chỉ mãi đến cuối thập niên 1960, sau khi đã tách khỏi Malaysia, chúng tôi mới có đủ sức mạnh chính trị để áp đặt kỷ luật của nhà nước lên việc kế toán tài chính, việc bổ nhiệm nhân viên và hạnh kiểm học sinh của viện đại học này. Để làm giảm căng thẳng trong giai đoạn cần hòa hoãn và để tranh thủ thời gian, chúng tôi đã bổ nhiệm một hội đồng thứ hai gồm các bậc học giả trong nước lo việc duyệt xét lại báo cáo của Prescott, để rồi vào tháng 2/1960 chúng tôi cũng chỉ nhận được một

kết luận tương tự. Nhưng để cho lứa tốt nghiệp đầu tiên của viện rơi vào tình trạng tuyệt vọng do không mong gì được nhà nước thừa nhận và tuyển dụng là khó có thể chấp nhận được về mặt chính trị. Chúng tôi đã thảo luận chuyện này thật cẩn thận trong nội các và quyết định chúng tôi phải dành cho một ít trong số họ có cơ hội được bước vào lĩnh vực công quyền, nhưng ở một cấp thấp hơn so với những người tốt nghiệp Viện đại học Malaya.

Tháng 10/1959, tôi đã đến Nantah, phát biểu trước một nghìn sinh viên của trường. Loạt tốt nghiệp đầu tiên của trường gồm 400 người đang cần việc làm, và tôi nói rằng chính quyền sẽ thu dụng 70 người

– 50 cho công tác giáo dục, 20 cho các bộ phận khác. Thành tích của 70 người này sẽ quyết định cho tương lai của những người sau đó. “Nếu lứa đầu tiên các bạn chứng tỏ là những nhân viên có năng lực và có kỷ luật, sẵn sàng đua tranh bình đẳng với những người Anh học, và có sự đóng góp cho xã hội, giá trị của các bạn tất sẽ được thừa nhận.” Chúng tôi cũng cấp học bổng hậu đại học cho những người có đủ điều kiện để ra học ở các đại học nước ngoài, nhất là về khoa học và kỹ thuật. Chúng tôi tin tưởng rằng điều này

sẽ xoa dịu những người xuất sắc và trắc nghiệm giá trị đích thực của họ. Họ đã được trấn an, nhưng chỉ là tạm thời. Những người cộng sản vẫn tiếp tục thâm nhập ngấm ngầm liên tục và mỗi ngày họ đều lôi kéo thêm được những người mới.

Trong khi chỗ dựa của chúng tôi trong khối dân chúng Hán học đang gặp phải sự cạnh tranh của những người cộng sản, thì sự hỗ trợ èo uột của chúng tôi từ phía các công nhân áo trắng theo Anh học trước sau cũng vẫn cứ vậy. Đúng như tôi đã lo sợ, tiến trình chỉnh đốn guồng máy đã gây ra khá nhiều chuyện đổ vỡ. Tôi đã bổ nhiệm Chin Chye phụ tránh trường Bách khoa Singapore, bởi ông ta rất quan tâm đến vấn đề giáo dục kỹ thuật. Điều đó, tuy nhiên, lại là con dao hai lưỡi. Khi nhìn thấy các giáo trình của trường không tương ứng với những nhu cầu tiên liệu của chúng tôi, ông đã lên tiếng phê bình hiệu trưởng và ban giám hiệu; và khi ông sa thải tức khắc ban giám hiệu, hiệu trưởng bèn từ chức. Điều này gây ra bối rối và sợ hãi, vì rằng nhân viên nhà trường cảm thấy bấp bênh, và các giáo sư, phần lớn là người da trắng nước ngoài, bắt đầu tính đến chuyện tìm công việc khác. Điều này cũng đã xảy ra đối với Quỹ Tín thác Cải thiện Singapore (Singapore Improvement Trust), cơ quan phụ trách về vấn đề gia cư thời chính quyền trước đây. Ở đây, Ong Eng Guan thường xử sự theo kiểu chuyên đoán thường thấy của ông ta. Ong đã liên tục quấy nhiễu và hành hạ các viên chức da trắng, ông đã kể cho Keng Swee nghe cách làm thế nào để “chơi” những người nước ngoài (làm việc trong cơ quan này), những người này vốn đang giữ những chức vụ cao trong Hội đồng thành phố, đang chịu sự kiểm soát của ông ta với tư cách Bộ trưởng phát triển quốc gia. Trên thì họ sẽ gặp phải sự phản kháng của những phụ tá được ông ta tin cậy, trong khi đó ông ta lại xúi giục nhân viên bên dưới họ và các thư ký gây rắc rối cho họ. Chẳng chóng thì chầy họ sẽ đầu hàng và bỏ việc mà đi mà không được chút trợ cấp bồi thường nào.

Ong có một viên phó bí thư tên là Val Meadows, một nhân viên rất giỏi, kiên quyết, có thành tích xuất sắc trong thời chiến tranh. Meadows là phó bí thư cho Hamid Jumat khi ông này còn là ủy viên chính phủ phụ trách chính quyền địa phương, và đã phác thảo các thư phúc đáp của Hamid gửi cho Ong khi giữa họ có sự bất đồng với

nhau với kết cục cuối cùng là Ong bị mất chức Thị trưởng. Ong hận Meadows lắm.

Ba mươi sáu năm sau, Meadows nhắc lại chuyện ấy rằng ông “đã không ngờ mức độ thù địch lại đến như vậy”. Ông đã bị tống về các đảo phía Nam để xem có thể làm được gì để cải thiện và phát triển những đảo ấy. Lúc ông làm việc cho Hamid, ông đã soạn xong các kế hoạch về bệnh viện, giếng đào, bến tàu, đường sá, trường học, trung tâm sinh hoạt và các hợp tác xã đánh cá, và ông đã thực hiện việc này rất nhanh. Nhưng thay vì được khen thưởng, ông ta lại bị đuổi cổ ra khỏi chức vụ ở Bộ trong lúc vắng mặt. Lúc quay trở về Bộ của mình vào một sáng thứ bảy để thảo báo cáo, ông thật hết sức sửng sốt khi thấy văn phòng của mình đã biến mất. Khung gỗ cùng các vách, cửa ra vào, cửa sổ kính, máy điều hòa không khí, bàn ghế, thiết bị văn phòng – tất cả đều biến mất không để lại chút dấu vết, chỉ còn trơ lại khoảnh diện tích trống không. Viên thư ký thường trực đã báo lại rằng ông ta đã làm theo chỉ thị của Bộ. Meadows phải sử dụng văn phòng thư ký địa phương. Vào chính lúc ấy, Ong bước vào để thưởng thức vẻ chưng hửng của Meadows, nhưng Meadows đã biết kiềm chế để không xảy ra phản ứng quá đáng. Thứ hai tuần sau, ông đưa đơn xin từ chức, nhưng lại được viên trưởng cơ quan bảo rằng phải nán lại đã bởi chiến dịch tiếp trợ đã “được chuẩn bị” rồi. Đó chính là việc tôi tước vị trí và trách nhiệm của Ong và chỉ thị cho Val Meadows thực thi nhiệm vụ của ông ta tại văn phòng của tôi.

Ong còn phạm nhiều sai lầm khác nữa, và toàn bộ nội các lẫn số đông dân biểu đã đi đến kết luận rằng ông ta đang trở thành một gánh nặng, chứ không phải một tài sản giá trị cho chính quyền nữa. Keng Swee trước đây đã than phiền bằng công văn gửi cho tôi rằng Ong đã yêu cầu phải cấp cho ông ta 415 triệu dùng cho việc xây dựng công sở mà không hề đệ trình kế hoạch chi tiết hay lý giải việc chúng sẽ được hoàn thành thế nào. Do đó, tôi đã tách Hội đồng

thành phố ra khỏi quyền kiểm soát của ông ta, chỉ thị cho ông ta phân bổ các bộ phận của cơ quan này cho các Bộ tương ứng. Trớ trêu thay, lời bào chữa trước công chúng lại là ông ta cần phải tập trung vào vấn đề xây dựng công sở, và vì lý do hình thức, tôi cũng đã điều chỉnh cơ cấu của một Bộ khác nữa.

Tôi đã cử Val Meadows làm phó bí thư của tôi và trao cho ông ta trách nhiệm giải thể Hội đồng thành phố, lập ra một ủy ban theo luật định, phụ trách các phòng ban về giao thông công cộng, điện, nước, chất đốt của cơ quan này, đồng thời xử lý xem phải làm gì với các phòng ban khác. Tôi muốn bày tỏ với các viên chức và công chức gốc ngoại kiều nói chung rằng tôi không chấp nhận những gì đã xảy ra và tôi không sợ gì chuyện bị xem là bù nhìn của họ.

Tôi miễn cưỡng hành động chống lại Ong, nhưng không phải vì tôi sợ ông ta sẽ thay thế tôi. Tôi không ham chức vị Thủ tướng; bất kỳ ai giữ chức vụ này cũng đều sẽ trở thành mục tiêu tấn công hàng đầu của những người cộng sản, tôi chẳng thích thú gì cho lắm với một viễn ảnh như vậy. Tôi biết Ong sẽ không có đủ can đảm để chơi cái trò đó. Tôi đã chứng kiến cảnh ông xanh như tàu lá khi họ chĩa vào ông tại một hội nghị của đảng hồi tháng 8/1957 và khiến ông ta bị loại khỏi ban chấp hành. Về sau, mặc dù ông ta là Bộ trưởng được giới người Hoa ủng hộ mạnh mẽ nhất, ông cũng đã từ chối triển hạn Pháp lệnh PPSO theo yêu cầu của nội các, và chúng tôi đã phải giao cho Chin Chye thực hiện bài phát biểu dứt khoát mà chúng tôi đã thỏa thuận. Nhưng Ong vẫn là một diễn giả Hokkien xuất sắc nhất của chúng tôi. Nếu hạ bệ ông ta, chúng tôi sẽ làm uy tín của ông đối với công chúng sụt giảm và khó có thể tìm đâu ra người thay thế được ông.

Ong, rồi nền kinh tế, giới công chức, những người cộng sản, các trở ngại về ngôn ngữ – tất cả những vấn đề trước mắt đó chẳng cho chúng tôi có được chút thời giờ để lui lại và đánh giá thành tích của mình. Thế nhưng có một người tuy có quan hệ mật thiết đến cuộc diện, nhưng vẫn có thể đưa ra được nhận xét khách quan về sáu tháng đầu tiên cầm quyền của chúng tôi, và cũng là sáu tháng tại chức cuối cùng của ông ta tại Singapore – đó là Bill Goode, cựu thống đốc, người mà trong sáu tháng qua đã trở thành quốc trưởng tạm thời. Ông đã tóm tắt những ngày đầu cầm quyền của PAP trong ba bản báo cáo gửi Bộ trưởng Ngoại giao của ông. Báo cáo thứ nhất đề ngày 26/6, bắt đầu bằng một nhận xét lạc quan:

“Các Bộ trưởng mới là những con người thông minh. Họ đã dành nhiều suy nghĩ cho chương trình chính trị của họ, một chương trình được trình ra trước cử tri thông qua các bài phát biểu được chuẩn bị thận trọng. Về tư tưởng, họ là những người xã hội chủ nghĩa cực

đoan, nhưng họ đã nhận ra những hạn chế thực tiễn đặt ra cho hoàn cảnh đặc thù của Singapore với tư cách một trung tâm thương mại quốc tế. Họ cũng nhận chân ra được sức nặng của vấn nạn kinh tế đang đặt ra do một dân số gia tăng nhanh nhưng lại kỳ vọng một mức sống cao tại một thành phố mà thu nhập phụ thuộc vào sự kinh doanh thành đạt trước sức cạnh tranh gay gắt. Trên hết, họ còn bị ám ảnh bởi mối đe dọa của cộng sản.”

“Để thành công, họ phải duy trì được sự ủng hộ của các tầng lớp lao động và học sinh người Hoa. Điều này làm bộc lộ điểm yếu của họ, vì rằng họ sẽ buộc phải mềm dẻo trước thái độ của công chúng vốn đối nghịch với giới làm ăn, buôn bán, là những giới mà họ đang trông cậy để đạt được tiến bộ kinh tế. Việc họ bị ám ảnh bởi cuộc đấu tranh ý thức hệ nhằm hướng được tâm tư tình cảm của công chúng về chủ nghĩa xã hội dân chủ hơn là chủ nghĩa cộng sản có thể gây bất lợi cho một giải pháp cho những vấn đề khác trong chuyện làm cho nền kinh tế của Singapore đạt hiệu quả…”

“Các Bộ trưởng cũng đã quyết định hạn chế tham dự vào các hoạt động giao tế. Ấn tượng chung mà họ đang cố gắng nuôi dưỡng là một tinh thần cống hiến tận tình cho trách nhiệm cai trị vì lợi ích của quần chúng.” “(Do đó) họ đã tự gọi mình là những người phi cộng sản và cật lực để chứng minh rằng họ chẳng phải là những con rối của phương Tây. Họ nhạy cảm ngay với cả những lời khen tụng của phương Tây, vì rằng họ xem điều đó phá hoại sự ủng hộ của quần chúng người Hoa khuynh tả ở Singapore dành cho họ, khối người mà họ đang kiên quyết giữ không cho rơi vào tay của những người cộng sản.”

“MCP, trong nhất thời, xem ra khó mà đương đầu được với một chính quyền mà rõ ràng đang nắm được sự ủng hộ nhiệt thành của số đông dân chúng nói tiếng Hoa. Chính ông Lee Kuan Yew cũng đánh giá rằng thời kỳ đầy thiện chí này có thể kéo dài độ một năm hay hơn nữa.”

Hai tháng rưỡi sau đó, vào ngày 7/9, ông cũng vẫn còn có vẻ lạc quan, tuy rằng có liệt kê những thiếu sót của chính quyền chúng tôi.

“Thật khó mà nhận ra tất cả bọn họ chính là phái PAP cực đoan của bốn năm về trước, chịu ảnh hưởng của cộng sản và cố gắng giành quyền lực dựa vào sự hỗ trợ của quần chúng có được bằng

cách khai thác những bất mãn của công nhân, nông dân, học sinh người Hoa và trí thức trẻ. Nhưng cũng sẽ sai lầm khi nghĩ rằng chính chuyện cầm quyền đã làm thay đổi những con người trẻ tuổi ấy.”

“Tôi hằng tuần đều có họp với Lee Kuan Yew vào chiều thứ năm tại Dinh Chính phủ, tại đó chúng tôi nói chuyện thoải mái và thẳng thắn với nhau. Tôi thấy ông ta hết sức là chín chắn. Ông ta vẫn còn có những định kiến và nỗi ám ảnh, nhưng nói chung ông ta rất tinh ý, luôn luôn nhanh nhạy và thông minh. Tôi thường hay chỉ trích về cách hành xử của chính quyền ông ta, cảnh cáo ông thẳng thừng về những hậu quả mà tôi đã thấy trước. Thỉnh thoảng ông ta có thể đính chính thông tin của tôi hay trình bày nó theo một ánh sáng khác. Thường là đều có lý do hợp lý biện minh cho những gì mà chính phủ đang làm; chính cung cách thực hiện nó mới là sai thôi. Nói chung, ông ta chấp nhận phê bình của tôi, nhất là trong chuyện hành xử của cơ quan công quyền. Câu trả lời của ông ta là các Bộ trưởng của ông phải trưởng thành qua gian khổ bằng cách nhìn thấy hệ quả của những sai lầm của họ; rằng ông ta không thể giám sát họ quá chặt chẽ; và rằng họ sẽ phải học hỏi lấy.”

“Trong khi ở những chuyện lớn họ vững vàng và có trách nhiệm thì đối với những việc nhỏ họ lại có vẻ đầy cảm tính và khó chịu. Chúng ta sẽ có những khó khăn và ưu tư thường xuyên khi làm việc với họ; sự rộng rãi và hiểu biết của chúng ta sẽ bị lạm dụng. Nhưng họ có khả năng thành tựu được nhiều điều; và hiện tại không có giải pháp cộng tác nào khác đâu. Các đảng đối lập không được dân chúng tin cậy và thậm chí có thể sẽ không còn tồn tại được nữa.”

Vào ngày 23/11, ông ta viết bản báo cáo sau cùng của ông, được mệnh danh là báo cáo “hạ cờ”, sở dĩ nó được gọi như vậy vì các thống đốc Anh thường nộp các báo cáo cuối cùng của họ khi họ làm lễ hạ cờ.

“Khó có khả năng là giới lãnh đạo hiện nay của PAP sẽ công khai tự coi mình là những người chống cộng. Thế nhưng, quan điểm của chính quyền đối với chủ nghĩa cộng sản thì quả thật rất tốt, và do vậy chúng ta có lý do vững chắc để cảm thấy thơ thới. Tôi vẫn còn tin rằng việc xem các nhà lãnh đạo PAP hiện nay là những người cộng sản ngầm là sai lầm hoàn toàn. Mô tả họ là những người chống cộng ngấm ngầm có lẽ gần với sự thật hơn.”

“Bất chấp những nỗ lực rất lớn của các Bộ trưởng Singapore nhằm giành được sự thừa nhận của các Bộ trưởng Liên bang, nhưng thái độ của Liên bang cũng vẫn là nghi kị. Thủ tướng giờ đây đang nhận ra rằng chẳng có mấy hy vọng hợp nhất trong thời gian nhiệm quyền của chính phủ Liên bang hiện nay, và ông cũng đánh giá rằng chuyện công khai nhấn mạnh về việc hợp nhất tại Singapore đang gây ra rắc rối chính trị và những phản đối công khai sau đó tại Liên bang. Nhưng ông vẫn quan tâm giữ vững cho Singapore trong tình trạng modus vivendi (tạm ước) theo hiến pháp như hiện nay và tiếp tục giữ mục tiêu hợp nhất như thể một ảnh hưởng có tính quyết định đối với nền chính trị của Singapore. Ông đã đúng khi tin tưởng rằng quả là tai hại cho cả Singapore lẫn Liên bang nếu chuyện hợp nhất không thành và Singapore phải quay sang hướng khác để lo cho tương lai của nó. Điều quan trọng tột cùng đối với tất cả chúng ta là chuyện đó không nên xảy ra.”

“Nên tình thế hiện nay là ông Lee Kuan Yew nắm vững nội các của ông và nội các đó hết sức đoàn kết. Họ, có lẽ ngoại trừ Thủ tướng, đều có những sai phạm, điều tất nhiên phải có, và tôi nghĩ rằng, họ đều có năng lực y như người ta đánh giá về họ lúc ban đầu. Họ rất hiểu rằng điều hành một chính phủ khó khăn hơn là tổ chức một đảng phái chính trị thành công. Nhưng nhìn chung, họ đã có một bước khởi đầu tốt đẹp trong việc thực hiện những đường lối họ đã tuyên bố. Vị Thủ tướng yêu cầu tôi hãy hoãn việc phê phán năng lực của họ cho đến khi họ đã nhiệm quyền được một năm. Cho đến nay, phần lớn những gì ông ta đã nói đều đúng cả.”

“Chính sách của chúng ta là phải tiếp tục cộng tác với chính phủ PAP và làm hết sức mình để bảo đảm thiện chí và sự tin cậy của họ. Do đó, chúng ta sẽ có thể trợ giúp họ tạo cho Singapore một chính quyền ổn định và có năng lực, và chỉ có như thế chúng ta mới vượt qua được những khó khăn vụn vặt thường xuyên cùng những khiêu khích mà tôi chắc là chúng ta sẽ gặp phải.”

Cũng giống như giáo sư hướng dẫn của tôi ở Học viện Raffles, Goode đã cho tôi một nhận xét tử tế. Tuy nhiên ông đã không biết nơi tôi và các đồng sự còn gặp phải những khó khăn gì, và sự đánh giá của ông sẽ sai lầm đến mức nào nếu cuộc diện chuyển biến khác đi. Báo cáo hạ cờ của Goode đã có một ảnh hưởng mang tính quyết

định đối với viên cao ủy Anh kế nhiệm, ngài Selkirk, hay nói cho chính xác hơn, đối với phó cao ủy là Philip Moore, một quan chức của Sở Công dân vụ Anh, từng là thư ký riêng của Selkirk khi ông này làm Bộ trưởng Hải quân.

Trước khi Goode ra đi vào ngày 2/12, tôi đã viết thư gửi ông để nói rằng ông đã phục vụ tuyệt vời cho nữ hoàng và xứ sở của ông, nhưng ông cũng phục vụ tuyệt vời cho nhân dân Singapore. Ông đã từng nhận xét với tôi trong một lần giải lao: “Chúng tôi có mặt ở đây là bởi có phần trăm. Nếu chúng tôi chẳng còn phần trăm nào, chúng tôi sẽ ra đi.” Ông không hề giả vờ, và tôi trọng ông hơn vì điều đó. Do ông chọn đi bằng tàu, chứ chẳng phải bằng máy bay, để về nước, nên nội các chúng tôi đã sắp thành hàng dài ở bến tàu để tiễn ông.

Với sự ra đi của vị Thống đốc Anh cuối cùng, chúng tôi phải chọn người đứng đầu xứ sở của mình. Chúng tôi chọn Yusof bin Ishak, chủ nhiệm điều hành của tờ Utusan Melayu, trở thành người thừa kế chức vụ ông, vị quốc trưởng đầu tiên người bản xứ. Chúng tôi cần đến một người Malay có tên tuổi như ông để cho Liên bang thấy rằng người Singapore sẵn sàng chấp nhận người Malay là lãnh đạo của mình, và tôi biết ông là một con người tốt, giản dị và đức hạnh. Vợ ông, hơi nhỏ tuổi hơn ông, là một phụ nữ sôi nổi, vui tính và quảng giao. Ông đã tuyên thệ nhậm chức tại phòng khách Tòa thị sảnh vào ngày 3/12, cũng y như nội các sáu tháng trước đó. Nhưng trong khi nội các tuyên thệ trong sơ sài, trong cảnh bài trí giật gấu vá vai, thì vào dịp này, chúng tôi có thời gian hơn để tổ chức một cuộc lễ tân có đủ mặt những nhân vật trong giới kinh doanh và các cộng đồng quan trọng, thành viên của các ngoại giao đoàn, và cũng có thời gian để bố trí chỗ ngồi hợp lý. Chúng tôi tổ chức vào lúc 8 giờ sáng để tránh khí trời nóng bức làm cản trở cho đoàn diễu hành khoảng một tiếng mười lăm phút quanh Tòa thị sảnh khi mà quốc kỳ mới được kéo lên và ca đoàn xướng bài quốc ca mới, với sự có mặt của các dân biểu trên khán đài và công chúng đứng quanh.

Chuyện lá cờ cũng là một chuyện lắm nhiêu khê, bởi một lần nữa phải có sự tôn trọng tình cảm chủng tộc. Người dân nói tiếng Hoa thì muốn màu đỏ cho nó hên, người Malay thì muốn đỏ và trắng, những màu truyền thống của họ biểu tượng lòng can đảm và sự thanh khiết. Nhưng Indonesia đã dùng màu đỏ và màu trắng trong lá cờ của họ rồi, và Ba Lan cũng vậy. Người Hoa, do ấn tượng với năm

ngôi sao vàng trên lá cờ của Trung Quốc, nên muốn có những ngôi sao. Người Malay thì muốn có mặt trăng lưỡi liềm. Chúng tôi đã chọn một mặt trăng lưỡi liềm đi cùng với năm ngôi sao màu trắng, thay vì một sao theo truyền thống của Hồi giáo. Năm ngôi sao tượng trưng cho năm lý tưởng của đất nước: dân chủ, hòa bình, tiến bộ, công lý và bình đẳng. Như thế chúng tôi đã hòa hợp được các biểu tượng và lý tưởng chủng tộc khác nhau.

Sau cùng chúng tôi cũng đã thỏa thuận xong về quốc huy, gồm một con sư tử và một con hổ là những con vật hỗ trợ nằm hai bên một tấm khiên có hình mặt trăng lưỡi liềm và năm ngôi sao, bên dưới là hoa văn dạng cuộn có hàng chữ Malay Majulah Singapura, có nghĩa là “Cầu chúc cho sự thịnh vượng của Singapore”.

Việc chọn quốc ca có phần dễ thở hơn. Một nhạc sĩ người Malay là Haji Zubir Said đã sáng tác ra một bản nhạc rất phù hợp. Nó không mang âm điệu hành khúc, hào hùng như bài Marseillaise của Pháp hay bài quốc ca Arise, Arise, Arise, (Dậy Mà Đi) thời kháng chiến cách mạng của Trung Quốc. Giai điệu của nó có sắc thái địa phương và lời ca bằng tiếng Malay phù hợp với khẩu hiệu của chúng tôi, Majulah Singapura.

Tuy có những vấp váp trong sáu tháng cầm quyền đầu tiên, chúng tôi cũng đã đạt được nhiều nền tảng quan trọng cho các chính sách của nhà nước, kể cả việc khởi động bước đầu cho một chương trình xây dựng nhằm làm thay đổi bộ mặt của Singapore. Vào tháng 3/1960 chúng tôi giải tán cơ quan Tín thác cải thiện Singapore và chia công việc của cơ quan đó cho Ủy ban phát triển và gia cư (HDB), một cơ quan trực thuộc quyền của Bộ trưởng phát triển quốc gia, và cho Cục kế hoạch, cơ quan đặt dưới quyền của Thủ tướng. Thế rồi chúng tôi đã cử Lim Kim San làm chủ tịch của HDB. Đây là một bổ nhiệm hết sức quan trọng. Kim San là bạn học của Keng Swee ở trường Anglo–Chinese School và ở đại học Raffles. Ông là một doanh nhân, một con người thực tế, sáng tạo, từng tự chế ra một cái máy chế biến bột cọ. Ông đã quản lý các cửa hiệu cầm đồ của cha vợ và các trạm xăng của cha ruột, bên cạnh đó ông còn là giám đốc của một trong những ngân hàng lớn trong nước. Ông là

một con người đa tài. Keng Swee muốn rằng bất kỳ khoản tiền nào dành cho HDB để xây dựng nhà ở cho nhân dân cũng đều phải được chi tiêu thật thỏa đáng, và Kim San sẽ lo được chuyện đó. Ong Eng Guan không còn được phép phung phí công quỹ nữa.

Ngay sau khi được bổ nhiệm, Kim San đã đến gặp tôi. Với tư cách Bộ trưởng phát triển quốc gia, Ong đã ra lệnh cho ông ta trực tiếp thuê công nhân xây dựng, và do vậy cắt giảm được số nhà thầu xây dựng là những người đứng trung gian, những “kẻ bóc lột công nhân”. Ông ta muốn HDB trở thành một ông chủ gương mẫu. Kim San bất đồng với chuyện này. Ông đã hỏi tôi: “Ông muốn tôi xây nhà hay muốn tôi trở thành một ông chủ đi mướn những người thợ xây dựng? Nếu ông muốn có những căn hộ, thì tôi biết cách để cho xây nên những căn hộ; ông hãy để chuyện đó cho tôi, tôi sẽ làm ra những căn hộ đó cho ông. Nếu ông muốn tôi thuê trực tiếp công nhân, thì tốt hơn ông nên kiếm vị chủ tịch khác. Nhà thầu nào cũng có những nhân viên giám sát công trình của họ, những người bà con

và đốc công đáng tin cậy của họ, những người này hoặc có quan hệ thân tộc hoặc đã làm ăn lâu dài với ông ta. Và những người đó có trong tay những kíp thợ riêng của họ, họ biết từng người trong nhóm họ và biết cách trả thù lao tương xứng với kết quả công việc.”

Đây là một mánh lới quảng cáo chính trị khác nữa của Ong. Tôi đã hủy bỏ lệnh của ông ta và bảo Kim San cứ tiếp tục những gì ông nghĩ là tốt nhất. Ông đã làm ra các căn hộ. Vào tháng 6/1960, đã xảy ra một đám cháy lớn tại khu Bukit Ho Swee, khiến khoảng 30.000 người rơi vào cảnh không nhà. Trong vòng 18 tháng, Kim San đã lo được nhà ở cho họ, những căn hộ một phòng với nhà bếp và nhà vệ sinh dùng chung. Ông cũng đã xây dựng được một khu nhà trong khu vực bầu cử của tôi trên đường Cantonment, một vị trí nổi bật. Các cử tri của tôi có thể nhìn thấy nó được xây lên và mong tới lúc được dọn vào ở trong đó. Nếu như nó không tiến tới lúc hoàn tất vào thời điểm của kỳ bầu cử tới, tôi có thể đã không tái đắc cử được.

Tất cả các chính quyền mới đều muốn tự chứng tỏ mình bằng cách thông qua nhiều đạo luật mới và tung ra nhiều dự án mới. Chúng tôi cũng đã làm tới tấp như vậy, trước khi kịp có văn bản. Vào tháng 3/1960 tôi đã công bố các kế hoạch tái tổ chức Ủy ban Cảng

Singapore thành Cục Hải cảng Singapore. Kế đó, chúng tôi xúc tiến thảo luận về Hiến chương Phụ nữ để đưa Singapore bước sang kỷ nguyên mới của chế độ một vợ một chồng và bình quyền. Thế rồi chúng tôi lập định quy chế Tòa án Quan hệ Công nghiệp dựa trên mô hình của Úc, và bổ nhiệm Charles Gamba, giáo sư kinh tế học tại Đại học Malaya làm chủ tịch. Từng làm trọng tài trong vụ đình công của hãng xe buýt Hock Lee, ông nổi danh là có thiện cảm với giới lao động, nhưng không hề mang vẻ muốn triệt giới chủ nhân cả. Chúng tôi đã tung ra một chương trình kế hoạch hóa gia đình gồm 1.000 người tình nguyện, những người này được huấn luyện để cổ động quần chúng và có quyết tâm làm giảm mức tăng dân số 4% hằng năm hiện nay. Quan trọng nhất là dự luật cho phép chúng tôi có quyền hạn rộng rãi hơn để chống tham nhũng. Đó là điều đầu tiên trong số nhiều thứ nhằm củng cố pháp luật sao cho người vi phạm có thể được truy tố và kết tội trước tòa. Điều này dẫn đến việc lập ra một cơ quan mới là Văn phòng điều tra hành vi tham nhũng, giúp giữ cho Singapore được trong sạch.

Chúng tôi tuyên bố sẽ tài trợ như nhau cho Đại học Malaya (ở Singapore) và Đại học Nanyang, nhưng cũng sẽ đòi hỏi những chuẩn mực như nhau. Cũng ngang ngược như mọi khi, Liên hiệp Sinh viên Đại học Nanyang đã phát biểu trên cơ quan ngôn luận của họ là tờ University Tribune rằng trong khi họ vui vì được đối xử bình đẳng thì đồng thời họ cũng muốn việc tài trợ đó là vô điều kiện. Chúng tôi không vui, nhưng cũng chẳng nói gì. Chúng tôi cải thiện tương lai của những người theo Hán học bằng cách cho phép họ học lên cao qua Đại học Malaya. Chúng tôi cho mở các khóa dự bị đại học gồm ba học kỳ ở các khoa nghệ thuật, luật và khoa học nhằm trang bị cho các sinh viên không nói được tiếng Anh có đủ chất lượng để trở thành sinh viên của Đại học Malaya.

Tuy nhiên các kế hoạch kinh tế của chúng tôi lại chẳng mấy khả quan. Vào tháng 9, chúng tôi có nói chuyện với Malaya về việc thành lập một thị trường chung hạn chế, nhưng họ thậm chí còn thờ

ơ hơn cả trước đó nữa. Mọi chuyện trở nên tệ hại đến độ khi một nhà sản xuất địa phương định mở rộng nhà máy se sợi cotton để kiêm luôn dệt ra vải thành phẩm, tin đó cũng trở thành tin quan trọng, bởi nhà máy sẽ tăng lực lượng lao động thêm khoảng 300 người. Chúng tôi đang rất cần công ăn việc làm.

Du lịch khi ấy vẫn hãy còn là một kỹ nghệ non trẻ tại châu Á, bởi hầu hết khách du lịch đều muốn đến thăm các nước đã phát triển. Chúng tôi đã lấy năm 1961 làm năm “Du lịch phương Đông”, có những buổi biểu diễn máy bay, triển lãm truyền thanh và truyền hình, trưng bày xe hơi, triển lãm phong lan, triển lãm nhiếp ảnh, rồi lễ Quốc khánh vào ngày 3/6 và tiếp đó là hai tuần lễ hội văn hóa. Đúng là một chương thu hút èo uột.

Chúng tôi đặt hy vọng vào nhóm Ủy ban Viện trợ Kỹ thuật Liên Hiệp Quốc, đã đến Singapore vào tháng 10 nhằm khảo sát địa điểm khu công nghiệp đề xuất ở Jurong và cố vấn về những loại hình kỹ nghệ phù hợp. Chúng tôi có cái may nhờ việc chọn người đứng đầu nhóm là Tiến sĩ Albert Winsemius. Ông là một kỹ nghệ gia người Hà Lan. Ông đã sống ba tháng ở Singapore và đã có những đóng góp đầu tiên trong số nhiều đóng góp cực kỳ quan trọng của ông cho sự phát triển của Singapore. Ông là một doanh nhân hết sức thực tế, hiểu rõ nền kinh tế của châu Âu và châu Mỹ sau Thế chiến thứ hai. Ông ta sẽ đóng vai trò lớn trong công tác hoạch định kinh tế của chúng tôi về sau này.

Thời ấy chúng tôi tùy thuộc rất nhiều vào mậu dịch, nhất là hoạt động trung chuyển (tạm nhập để tái xuất). Hồi tháng trước đã có một nhóm Indonesia đến thảo luận phương cách tiệt trừ chuyện “mậu dịch thất thường”, và để cải thiện thu nhập ngoại thương của họ. Họ muốn chúng tôi ứng cho Indonesia một tỷ lệ ngoại tệ đáng kể trong tổng giá trị họ xuất khẩu sang Singapore, đổi lại họ sẽ mua một khối lượng hàng hóa theo thỏa thuận thông qua chúng tôi.

Nhưng quả thực rất khó làm cho khu vực tư nhân chịu hợp tác; sẽ chẳng có ai chịu khai báo trị giá nhập khẩu hoặc xuất khẩu của họ sang Indonesia cả, hay chịu khai báo xem họ đã thực sự mua hay bán những gì, số lượng ra sao, giá cả là bao nhiêu; các hãng tàu biển Indonesia sẽ ghi hóa đơn thấp hơn trị giá hàng hóa của họ, và thường sử dụng cùng một giấy phép xuất khẩu để gửi đi cùng số lượng hàng hóa thêm một lần nữa; vân vân.

Cộng với tình hình công ăn việc làm là mối đe dọa ngày càng rõ dần của phía những người cộng sản. Hội đồng an ninh nội chính đang ngày càng không vui trước sức mạnh ngày càng lớn của các nghiệp đoàn, và đang muốn chính phủ Singapore ra tay đối đầu. Tôi đã từ chối. Nếu làm như vậy, chúng tôi có thể cuối cùng rồi cũng đi

đến hành động y như Lim Yew Hock, đơn giản là tống giam những người hoạt động, và như vậy sẽ giống như kiểu càng tỉa cành cúc dại, chồi non càng nhiều. Goode đã bật đèn xanh cho tôi ra tay theo kiểu như vậy trước khi tôi nhậm chức. Nhưng tôi còn phải chịu áp lực thường xuyên của phía Malaya muốn tôi ra tay hành động nữa.

Với tư cách mới là cao ủy Anh và là chủ tịch của Hội đồng an ninh nội chính, Goode đã tổ chức cuộc họp đầu tiên của hội đồng vào tháng 8. Ong Eng Guan, Pang Boon và tôi đại diện cho Singapore, còn tiến sĩ Ismail bin Dato Abdul Rahman, Bộ trưởng Ngoại giao, đại diện cho chính phủ Malaya. Ismail vốn là một bác sĩ, lùn, có hơi béo phệ và đen so với một người Malay bình thường, ông có mái tóc quăn, để ria mép, đeo một cặp kính gọng sừng, và trên miệng lúc nào cũng ngậm ống vố. Ông là một người trầm tính, kín đáo và là một người rất mê đánh gôn. Để làm việc hữu hiệu với ông, tôi lại phải cầm lại mấy cây gậy gôn mà tôi đã bỏ lơ trong cả một thời gian dài. Tôi mến và kính nể ông vì tính tình thẳng thắn của ông. Ông biết công việc của ông là gì – đó là nền an ninh của Malaya. Ông lắng nghe ý kiến của nhân viên mình.

Khi tôi biết rõ hơn về các Bộ trưởng Malaya, thì ông là một trong số những người tôi rất tin tưởng. Ông trung thực và chân thành trong quan hệ với tôi, và tôi tin tưởng rằng ông cũng đáp lại tình bạn và sự tôn trọng của tôi. Ông là nhân vật quan trọng thứ ba trong hàng ngũ lãnh đạo của UMNO, sau Tunku và phó Thủ tướng Tun Abdul Razak. Ông không có được sức lôi cuốn quần chúng và thân thế quý tộc như Tunku, cũng không có đầu óc rất nhạy bén như Razak, nhưng Ismail lại là một nhà lãnh đạo đáng tin cậy nhất và mang tính quyết định. Ông có lẽ sẽ là một vị Thủ tướng rất giỏi nếu như ông không mất quá sớm vì bệnh tim.

Tại cuộc họp đầu tiên này, Singapore đã đệ trình hai văn kiện: một là từ các chuyên gia trong Sở đặc vụ, và một từ các Bộ trưởng muốn phóng thích những người đã có quan hệ gần gũi với PAP trong thời gian họ bị bắt giữ. Goode vạch ra rằng các chuyên gia của Sở đặc vụ đã báo cáo rằng những biến cố trước đây đang có xu hướng lặp lại – cũng vẫn chuyện những người cộng sản xây dựng sức mạnh để thách đố với chính quyền – và ông hỏi rằng liệu có phải ngu ngốc không khi ra tay ngăn chặn và nghiền nát đối thủ ngay bây giờ trước khi nó trở nên quá phát triển. Tôi không đồng ý. Goode buộc

tôi phải giãi bày đường lối của mình. Chính sách chung, tôi nói, là đừng để những người cộng sản điều khiển mình. Nếu chúng ta, đầu tiên, không biết chuẩn bị cơ sở để các công nhân trung lập người Hoa hiểu rằng các nhà lãnh đạo của họ bị bắt giữ bởi vì những người đó đang làm hại cho nền kinh tế và do đó làm đe dọa đến công ăn việc làm của họ, chúng ta sẽ mất họ. Không được để cho họ tin rằng các nhà lãnh đạo của họ bị bắt bởi vì đó là những nhà hoạt động nghiệp đoàn tốt và ngẫu nhiên thân cộng.

Ismail không hiểu cách làm này. Ông đã giải thích đường lối cứng rắn ở Liên bang đã có tác dụng đè bẹp âm mưu lật đổ của những người cộng sản ra sao. Tôi nói rằng Malaya khác với Singapore. Chính phủ Malaya có thể mạnh tay với những người cộng sản mà không bị mất lòng đa số công chúng bởi ở đó phần lớn là người Malay. Trong khi chính phủ Singapore còn phải lo lấy lòng công chúng – số người Hoa còn lừng khừng, nhất là giới trí thức, những người vốn có thể tác động đến những người còn lừng khừng. Goode đã quen với lối nghĩ của chúng tôi, nhưng không để lộ ra vì lợi ích của Ismail.

Chúng tôi cần phải vững vàng đi theo quan điểm của mình. Vào cuối sáu tháng đầu tiên của chính phủ, việc xây dựng mặt trận thống nhất của cộng sản vẫn tiếp tục tiến triển. Lim Chin Siong và các đồng chí của ông đã lôi kéo được nhiều nghiệp đoàn về phe với cộng sản, và khi họ đã chiếm được đa số, Tổng liên đoàn lao động (TUC), vốn có sự tham gia của cả các nghiệp đoàn thân cộng lẫn không thân cộng, đã tách khỏi Liên hiệp Quốc tế các Nghiệp đoàn Tự do (ICFTU) do phương Tây bảo trợ. Vì rằng ICFTU được lập ra để đối trọng với Liên hiệp Nghiệp đoàn Thế giới vốn chịu ảnh hưởng của Moscow, nên những người thân cộng mới lấy cớ rằng ICFTU đã tham

gia vào cuộc tranh giành quyền bính chính trị.

Cùng lúc đó họ đã tác động mạnh đến Fong Swee Suan và lôi cuốn được ông ta trở lại. Devan Nair thì mất tinh thần trước việc họ có thể dễ dàng làm hỏng ba năm làm việc của ông với Fong ở Changi. Khác với Nair, Fong là một người Hán học, một tín đồ về những chuyện về phong trào cách mạng tại Trung Quốc và không hề có một thang giá trị nào có thể dung nạp được quan điểm cách mạng xã hội và biến đổi kinh tế theo phương pháp hòa bình. Đối với những người mang

Hán học như Fong, cách mạng là phải có bạo lực. Không có bạo lực, nói theo biện chứng Mác, “chỉ là cải lương”. Trong bất kỳ trường hợp nào ông ta cũng không cưỡng lại được sức lôi kéo tình cảm của bạn bè cũ và lòng tôn trọng truyền thống. Woodhull và Puthucheary chẳng lâu sau thì cũng thuận theo phía có thế mạnh và rõ ràng là khó có thể bị hạ bệ được. Họ đã cô lập Nair mà khi ấy, với sự đồng ý của tôi, đã từ chức bí thư chính trị vào tháng 2, để tham gia vào công tác nghiên cứu và viết lách nhằm “góp phần củng cố nền tảng ý thức hệ và lý thuyết cho PAP.”

Lim Chin Siong và Fong đạt được hết sức mạnh này đến sức mạnh khác, tranh thủ được phe thân cộng trong TUC, không chỉ những nhà lãnh đạo nghiệp đoàn có Anh học mà còn rất nhiều người có học vấn Malay nữa. Điều đó đã khuyến khích họ tung ra nhiều phát biểu mang tính chỉ trích quan điểm của chính phủ về chuyện những người bị bắt giữ và chuyện nghiệp đoàn, đến nỗi tôi đã phải cảnh báo trước quốc hội rằng nếu họ cứ thách thức nhà cầm quyền, họ sẽ bị trả đũa mạnh. Sau lần đó, ba trong số các bí thư chính trị – Lim

Chin Siong, Fong và Woodhull – đã chính thức tuyên bố quan điểm của họ cũng vẫn y như lúc họ được phóng thích hồi tháng 6/1959: tức là ủng hộ PAP và đường lối của đảng này là đạt được sự độc lập thông qua cuộc hợp nhất với Liên bang. Vào thời điểm đó, họ nghĩ việc hợp nhất hãy còn là một tương lai mù mờ – tôi cũng vậy – nhưng tuy vậy họ đã khơi dậy những đòi hỏi về một Singapore độc lập mà không cần phải hợp nhất.