Hoa mận trắng

HOA MẬN TRẮNG

Làng Dược Hạ ở chân núi Mào Gà. Đường làng nhiều cọ, bờ rào nhiều mây dai và dây lạc tiên. Trẻ con trong làng thường lên đồi cắt lá guột đem về đun. Bó guột thành từng bó to, lăn từ lưng đồi xuống rồi gánh về làng. Chỉ riêng trẻ làng Dược Hạ biết cách bó guột chặt, to mà gọn nhất. Chúng cắt cũng nhanh nhất, không trẻ làng nào theo kịp. Khi chơi ô ăn quan, chơi cướp cờ, khi học hát cũng như khi thi bơi ở đầm, trẻ làng Dược Hạ luôn được giải nhất. “Trẻ con làng ta” – Trẻ làng Dược Hạ thường nói một cách tự hào như vậy.

Tất cả học sinh lớp 4B đều là trẻ con Dược Hạ. Ai cũng biết lớp 4B của cô giáo Thư học giỏi, cả lớp chơi thân với nhau như anh chị em ruột.

Thằng Định – lớp phó – được coi là “thủ lĩnh” của bọn con giai, nó chỉ huy đội bóng lớp.

Sáng nay, Định vừa đến trường, thằng Biên còi vội vã chạy tới, thì thầm:

- Lớp ta mới có một đứa mới, con gái.

- Ở đâu về?

- Không biết. Nhưng không phải người làng ta, cũng không phải trẻ con vùng núi Mào Gà.

- Nhưng lớp 4B chỉ toàn trẻ con Dược Hạ cơ mà – Thằng Định nhăn mũi, có vẻ bực tức lắm.

- Cô Thư nhận nó rồi. Nó ngồi cạnh cái Tâm.

Tiếng trống vào học đổ dồn. Biên còi tất tả chạy đi, còn ngoái cổ lại nói thêm:

- Nó tên là Bích.

Vào lớp, Định đưa mắt nhìn: Cái Bích kia rồi! Đó là một đứa con gái bé nhỏ, mặc áo bông xanh, tóc buộc thành hai đuôi sam nhỏ xíu.

Cả lớp đều ngoảnh lại nhìn cô học trò mới, có tiếng xì xào hỏi nhau. Cái Tâm thì đã có vẻ thân với cô bạn ngồi cạnh lắm, nó xếp hộ sách vở, bút mực của Bích lên mặt bàn, miệng tươi cười, lại còn đặt tay lên vai Bích nữa.

Định thở dài đánh sượt một cái:

- Thế là lớp ta có một đứa ngoài làng đến học, chán tệ!

Cô Thư vào lớp. Cô đã nghe thấy câu nói của thằng Định. Cô nhíu mày nhìn nó, vẻ không bằng lòng. Bước lên bục, cô nói:

- Các em, hôm nay lớp ta có thêm một người bạn mới – bạn Bích. Bạn Bích ở ngoài ga, bố của bạn lái tàu hỏa. Các em đã ra ga, đã đi tàu hỏa rồi chứ?

Có đứa đã đi tàu hỏa rồi, có đứa chưa đi bao giờ. Nhưng dù đã dù chưa, nhắc đến chuyện “đi tàu hỏa”, đứa nào cũng thích mê. Còn nhà ga, tất cả đều đã đến. Ga ở bên kia cánh đồng, gần nhịp cầu nhỏ, cách làng chừng ba cây số. Ngồi trong lớp, nghe tiếng còi tàu kêu tu tu. Mấy hôm trước, khi máy bay Mỹ ném bom xuống ga, chúng lượn vòng sát ngọn tre làng Dược Hạ. Ánh lửa cháy hắt về đỏ các mái nhà.

- Nhà ga bị bom, tạm dời xuống phía dưới, bố của bạn Bích lái tàu đi suốt đêm trên đường, bom đạn nhiều, phải gửi Bích về làng ta, ở nhờ mẹ bạn Tâm và học lớp 4B của chúng ta. Cô mong các em yêu thương nhau, để bố bạn Bích yên tâm làm việc và chiến đấu, để bạn Bích thấy làng Dược Hạ lớp 4B, cũng gần gũi như gia đình của bạn ấy.

Cô nhìn về phía Định, nó đưa tay gãi gãi chỏm tóc cháy nắng luôn xù lên như đuôi gà.

Cả lớp ồn ào. Thế ra chính cái Bích này đã ở ga suốt cái đêm bọn Mỹ ném bom. Ga đổ, lửa cháy bốn bề, thế mà khi tiếng nổ vừa ngớt, đoàn tàu lại rúc còi chuyển bánh. Chính bố cái Bích là công nhân lái tàu! Tất thảy trẻ con Dược Hạ, kể cả thằng Định đều biết rằng trên đời không có gì tài giỏi và oai vệ bằng một bác lái tàu hỏa, ngồi trên đầu tàu to lớn, nóng bỏng, áo lấm lem bụi than, tóc bay phần phật… Thằng Biên còi thì đã phục lăn cái Bích, nó cứ nhấp nhỏm, vung tay kể rằng: đêm ấy, đứng bên miệng hầm, chính nó đã “quan sát” thấy đoàn tàu lao qua giữa hai quả bom ném xuống; nó còn dám quả quyết: nó thấy bác lái tàu hỏa đứng trên nóc tàu, bắn đúng đầu thằng phi công Mỹ…

Lớp học ồn đến nỗi cô Thư phải mấy lần gõ thước kẻ xuống bàn.

Bích ngồi nép vào cạnh Tâm, bối rối cúi đầu, cái gáy bé nhỏ của nó đỏ ửng lên.

Tối hôm ấy, mẹ thằng Định sai nó mang thuốc sang nhà cái Tâm, mẹ cái Tâm bị cảm.

Định ngượng nghịu ngồi xuống cái ghế cạnh bàn, giả vờ nhìn vào quyển sách. Nó nghe thấy cái Bích đang khe khẽ kể chuyện với mẹ con bác Tâm.:

- Lúc ấy, cháu ở dưới hầm, đất phủ khắp người. Tai ù lên chẳng nghe thấy gì cả. Lúc lên, chỉ thấy bụi mù mịt. Bố cháu với các cô các chú ở ga đang dập lửa một toa tàu bị cháy. Ga sập, đất đá bị xới tung. Thế mà cây mận của cháu vẫn còn nguyên… Ở đây, cháu nhớ nhất bố cháu, nhớ nhì đến cây mận. Bố cháu mang từ Lào Cai về đấy. Bố cháu bảo giống mận này quý lắm, quả nó to bằng cái chén ấy, róc hạt và rất ngọt. Cháu chỉ lo cây mận ở lại ngoài đó, nếu có ném bom nữa, cây có còn được không.

Bây giờ cuối mùa đông, còn ít hôm nữa là Tết. Trời rét và mưa phùn. Cái Bích đã quen với lớp 4B, quen với làng Dược Hạ. Nó cũng thường cùng bọn trẻ làng lên núi cắt guột, đã biết cách bó guột cho thật chặt và biết lăn guột từ đỉnh xuống chân đồi. Định, Biên còi đều đã trở thành bạn thân của cái Bích. Nhưng Định vẫn thấy cái Bích có vẻ gì hơi buồn buồn. Chắc Bích nhớ bố nó đang lái tàu trên đường. Bích cũng hay nhắc đến cây mận. Ở ngoài ga, thỉnh thoảng bọn Mỹ vẫn ném bom. Có nhiều bom bi, bom nổ chậm. Ngoài các chú dân quân, bộ đội, không ai được vào khu vực ga cả. Bích bảo mùa này mận sắp ra hoa, lứa hoa đầu tiên mà bố vẫn mong. Thế mà bố đang ở trên tuyến đường phía trong, còn Bích thì ở lại đây.

Tối hai mươi tám Tết, trời gió lạnh, đồng lúa nằm im lặng dưới mưa. Khu ga lúc chiều lại vừa bị ném bom, những bức tường vỡ đen sì, những thanh ray, những đám gạch vụn ngổn ngang. Tiếng ô tô và xe xích rì rầm từ phía đường cái vọng lại.

Định đứng lại trước hàng rào xi măng xiêu đổ. Gió thổi ù ù. Một tấm biển to mờ mờ dưới ánh đèn ô tô lấp lóe từ xa, hiện lên dòng chữ: “Nguy hiểm! Có bom nổ chậm”.

Trong kia, đằng sau bức tường, gần bờ giếng, theo lời cái Bích kể, là cây mận nhỏ.

Định ôm cái xẻng ngắn, rụt rè nhìn quanh, tưởng như một quả bom sắp nổ bùng. Định cũng hãi, nhưng nó tự nhủ: Nếu có ánh lửa lóe lên, mình sẽ nằm ngay xuống.

Vừa lom khom leo qua đống ngói vỡ, Định giật bắn người, một tiếng quát vang lên:

- Ai? Đứng lại! Đứng lại ngay!

Một bóng người cao lớn từ đâu nhảy phắt ra. Một bàn tay cứng như sắt kéo vai chú bé lại. Ánh đèn pin sáng xanh soi thẳng vào cái mặt ướt đầm của thằng Định.

Một tiếng nói khác từ sau tường:

- Ai thế?

- Báo cáo đồng chí, một chú bé.

- Chú ta đi đâu mà chui vào đây? Đưa chú vào lán!

- Rõ.

Người cao lớn dắt tay Định vào một cái lán ghép sơ sài bằng gỗ thùng và giấy dầu ở sau ga. Một ngọn đèn dầu có bịt giấy hai bên đặt trên giường. Dưới đất, ngổn ngang vỏ đạn, đuôi bom, dây điện, kìm búa… Hai anh bộ đội mang phù hiệu công binh ngồi cạnh một quả bom bi tròn như quả bưởi, đã tháo tung. Anh bộ đội nói sau tường lúc nãy cũng vào theo. Anh đội mũ sắt, mặc áo bốn túi, có vẻ là cấp chỉ huy.

Anh bộ đội cao lớn giận dữ hỏi:

- Thế nào, ông nhóc! Muốn chết hay sao mà vào đây? Đi đâu?

Định vừa sợ vừa rét, miệng mếu xệch, nước mắt ứa ra. Nó khóc.

Các anh bộ đội nhìn nhau, mỉm cười:

- Nín đi, sao lại khóc? Đây là khu vực cấm. Cậu có biết thế nào là mệnh lệnh quân sự không? Đáng lẽ phải đét vào mông cậu một trận… Sao lại tới đây, hả?

- Chú ta rét – Anh chỉ huy vừa nói vừa cởi áo bông khoác lên người Định – Kể cho các chú biết cháu tới đây có việc gì… Nào, nói đi, cháu bị lạc à?

- Không ạ, cháu… cháu… – Định mếu máo – … Cây mận ạ.

- Cây mận nào?

- Cây mận cái Bích.

- Cái Bích là ai? Ngồi xuống đây, lau nước mắt nước mũi đi, kể rành mạch vào xem nào!

Định ngồi xuống, ấp úng một chút, rồi bạo dạn nói. Nó kể chuyện cái Bích, chuyện cây mận và bảo nó định ra đào cây mận về cho cái Bích.

Nghe xong, các anh công binh gật gù:

- Liều đấy chứ nhỉ!... Đi một mình à? Tôi biết cây mận gần giếng ấy rồi. Tất cả cây cối quanh đây xơ xác vì mảnh bom, riêng cây mận nhỏ còn nguyên, lại ra rất nhiều nụ… Trung đội trưởng này, để tôi ra đào vào cho chú bé.

- Được, nhưng phải cẩn thận, quanh giếng có hơn cả chục quả bom bi chưa gỡ đấy. Để tớ ra với cậu. Không đánh cả rễ là cây không sống được đâu!

- Yên trí, nhà tôi ba đời làm nghề ươm cây… Chú bé ngồi đây nhé!

Hai anh bộ đội cầm đèn pin và xẻng ra ngoài. Trời tối mịt, gió lạnh mang mùi cỏ cháy, mùi bùn, mùi đá khét.

Một lúc sau, hai anh trở lại, bàn tay lấm đất cầm cây mận bứng cả rễ, lá ướt đẫm, những nụ hoa nhỏ xíu rung rinh dưới ánh đèn dầu…

Định ôm cây mận gốc bọc đất và lá khô về tới đầu làng thì đã khuya. Thằng Biên còi ngồi đợi trước kho hợp tác, nó mặc áo bông to xù, mặt đờ đẫn vì buồn ngủ.

- Thế nào? Định hỏi.

- Bác Tâm, cái Bích, cái Tâm tắt đèn ngủ cả rồi.

- Mày có mang thuổng đấy không?

- Có.

- Khẽ chứ, mày gác, tao đào.

Hai đứa rón rén mở cửa hàng rào nhà bác Tâm, lúi húi đi vào mảnh vườn im ắng tối om.

Sáng sớm, Bích mở cửa bước ra hiên, bỗng kêu lên, dụi mắt, ngỡ mình ngủ mơ:

- Cây mận! Đúng cây mận của bố đây rồi!

Mẹ con cái Tâm cũng chạy ra. Không ai hiểu từ đâu, phép lạ nào đã đưa cây mận từ ga về. Mận được ai trồng xuống đất cẩn thận, gốc được xới lên và vun bằng bùn ướt. Những nụ nhỏ đã sắp nở thành hoa, những cành cây mảnh dẻ vươn lên mềm mại, với những chiếc lá thon xanh ngắt.

Từ bữa ấy, hôm nào cái Bích cũng tưới nước, vun gốc cho cây mận, nó đoán mãi vẫn không biết ai đã mang cây mận về. Định thì im lặng và bắt Biên còi cũng phải giữ bí mật. Biên còi ngứa ngáy không nhịn được, mấy lần suýt “tiết lộ” ra.

Sang tháng ba, trời ấm dần. Bây giờ đã hết sơ tán, bố Bích chuyển công tác về ga Hà Nội. Bác về làng Dược Hạ đón Bích ra Hà Nội học.

Bích không thể mang cây mận đi theo. Buổi Bích rời làng, Tâm, Định, Biên còi, cô Thư và cả lớp 4B tiễn nó ra ga. Bích tần ngần đứng bên cây mận rất lâu, nó ôm bác Tâm dân dấn nước mắt, dùng dằng mãi rồi mới xách chiếc túi du lịch, cùng bố và các bạn đi ra ngõ…

Mấy năm qua, làng Dược Hạ nhiều nhà chiết giống mận ở vườn bác Tâm về trồng. Cây mận ấy tuy còn ít quả, nhưng đúng như lời cái Bích nói, quả nào cũng tím hồng, to bằng cái chén và ngọt lịm. Mọi người gọi là “mận cái Bích”.

Cái Bích ở Hà Nội, học trong một ngôi trường to và đông, vẫn nhớ làng Dược Hạ, nhớ lớp 4B, nhớ các bạn và cây mận. Không hiểu Bích đã đoán ra ai mang cây mận về trong cái đêm mưa rét ấy chưa?

Mùa xuân, những con tàu đi qua chân núi Mào Gà, thấy chen dưới màu xanh của cọ và dây lạc tiên, những cây mận nở hoa trắng xóa.