Nếu tôi biết chuyện đó xảy ra, tôi sẽ gọi điện báo ốm. Tôi có thể đã tránh được một đội quân ma quỷ, một trận chiến với một thần khổng lồ Titan, và trò gian trá gần như làm cho những người bạn của tôi và tôi bị quăng vào trong bóng đêm vĩnh hằng.
Nhưng không, tôi phải tham dự cuộc thi Anh văn ngu ngốc. Vì thế tôi đang ở đây, ngày cuối cùng của học kỳ mùa đông ở trường Trung học Goode, ngồi trong thính phòng với tất cả học sinh mới vào trường và đang cố kết thúc bài tiểu luận tôi-không-đọc-nó-nhưng-tôi-giả-vờ-như-tôi-đã-đọc A Tale of Two Cities, thì O’Leary xộc vào sân khấu, quát tháo như người điên.
O’Leary là con chó ngao cưng của tôi. Nó là một con quái vật màu đen có bộ lông bờm xờm có kích thước của một chiếc Hummer, với răng nanh sắc như dao cạo, móng vuốt bén nhọn như thép, và đôi mắt đỏ phát sáng. Nó thật sự rất ngọt ngào, nhưng nó thường ở tại Trại Con Lai, trại đào tạo á thần của chúng tôi. Tôi hơi ngạc nhiên khi nhìn thấy nó trên sân khấu, giẫm nát cây thông Noel và các người lùn của ông già Noel và tất cả bộ trang trí Winter Wonderland.
Mọi người ngước nhìn lên. Tôi khá chắc là những đứa trẻ khác đang hoang mang và chạy toán loạn đến các lối ra, nhưng họ chỉ bắt đầu cười khúc khích và cười lớn tiếng. Một vài cô gái nói, “Aaaa, dễ thương chưa!”
Thầy giáo dạy tiếng Anh của chúng tôi, Tiến sĩ Boring (Tôi không đùa, đó là tên thật của thầy ấy), chỉnh lại mắt kính và cau mày.
“Được rồi,” thầy ấy nói. “Con chó xù này của ai?”
Tôi thở phào nhẹ nhõm. Cám ơn các thần vì Màn Sương Mù – lớp màn ma thuật giúp con người tránh được việc nhìn thấy mọi vật dưới hình dáng thật sự của chúng. Tôi đã nhìn thấy nó uốn cong sự thật rất nhiều lần trước đây, nhưng quý cô O’Leary là một con chó xù sao? Điều đó thật ấn tượng.
“Ừm, đó là con chó xù của em thưa thầy,” tôi đứng dậy nói. “Xin lỗi! Chắc nó đi theo em.”
Ai đó ngồi sau lưng tôi bắt đầu huýt sáo bài “Mary had a Little Lamb”. Những đứa trẻ khác vỗ tay tán thưởng.
“Đủ rồi!” Tiến sĩ Boring ngắt lời. “Percy Jackson, đây là kỳ thi cuối kỳ. Tôi không thể để con chó xù này
“Woof!” tiếng sủa của con O’Leary làm toàn bộ thính phòng rung bần bật. Nó vẫy đuôi, đánh ngã thêm một vài người lùn. Rồi nó cúi xuống trên hai chân trước và ngước nhìn tôi như thể nó muốn tôi đi theo vậy.
“Em sẽ đưa nó ra khỏi đây, Tiến sĩ Boring,” tôi hứa. “Dù sao em cũng đã kết thúc bài tiểu luận của mình.”
Tôi đóng cuốn sách bài tập lại và chạy về phía sân khấu. O’Leary vọt ra phía cửa ra vào và tôi chạy theo sau, những đứa trẻ khác vẫn đang cười và gọi lớn phía sau lưng tôi, “Gặp lại sau nhé, anh chàng Chó xù!”
Con O’Leary chạy xuống cuối Đường Đông về phía dòng sông.
“Chậm lại!” tôi hét lớn. “Mày chạy đi đâu đấy?”
Tôi nhận thấy một vài ánh nhìn kỳ lạ từ các khách bộ hành, nhưng đây là New York, vì thế một cậu bé đuổi theo một con chó xù chắc chắn không phải điều kỳ lạ nhất mà họ từng thấy.
Con O’Leary vẫn tiếp tục chạy phía trước tôi. Nó thỉnh thoảng lại quay lại sủa như thể muốn nói Di chuyển đi, đồ chậm chạp! Nó chạy qua ba khu nhà về phía bắc, chạy thẳng vào Công viên Carl Schurz. Khi tôi đuổi kịp nó, nó nhảy qua một hàng rào sắt và biến vào bên trong một bức tường bụi cây được tạo hình phủ đầy tuyết.
“Aa, thôi nào,” tôi than phiền. Tôi đã không kịp có cơ hội để lấy áo khoác khi còn ở trường. Tôi đang chết cóng, nhưng tôi đã trèo qua hàng rào và lao vào một bụi cây phủ đầy băng.
Phía bên kia là một khoảng rừng thưa – một cánh đồng cỏ phủ đầy băng giá rộng nửa mẫu Anh bao quanh với những thân cây trơ trụi. Con O’Leary đang ngửi quanh, điên cuồng vẫy đuôi. Tôi không thấy bất cứ điều gì khác thường. Phía trước tôi, Sông Đông nhuộm màu thép chầm chậm chảy. Những chùm lông vũ trắng cuồn cuộn từ trên mái nhà Queens. Phía sau tôi, Upper East Side hiện ra lờ mờ, lạnh lẽo và thinh lặng.
Tôi không chắc tại sao, nhưng phía sau cổ tôi bắt đầu ngứa ran. Tôi lấy cây bút máy ra và mở nắp. Ngay lập tức nó biến thành thanh kiếm đồng, Thủy Triều, lưỡi kiếm tỏa sáng yếu ớt trong ánh sáng mùa đông.
Con O’Leary nhấc đầu lên. Lỗ mũi nó run run.
“Đó là gì thế?” tôi thì thầm.
Đám cây bụi kêu xào xạc và một con h vàng chạy xuyên qua. Khi tôi nói vàng, tôi không đề cập đến màu vàng. Con vật đó có bộ lông kim loại và cặp sừng trông giống như vàng thật 14 ca-ra. Nó tỏa sáng lung linh với ánh sáng của vàng, khiến nó trông quá sáng để có thể nhìn. Nó chắc chắn là con vật đẹp nhất mà tôi đã từng thấy.
Con O’Leary liếm môi mình như nó đang nghĩ về món hamburger hươu! Rồi bụi cây lại kêu xào xạc lần nữa và một dáng người trong chiếc áo parka trùm đầu nhảy vào khu rừng thưa, mũi tên được kéo căng trên cái cung.
Tôi đưa kiếm lên. Cô gái nhắm vào tôi – rồi đứng yên.
“Percy sao?” Cô ấy đẩy chiếc mũ bạc của chiếc áo parka. Mái tóc đen của cô ấy dài hơn nhiều so với những gì tôi nhớ được, nhưng tôi biết đôi mắt xanh sáng ngời đó và hình lưỡi liềm bằng bạc biểu thị rằng cô ấy chính là trợ tá của nữ thần Artemis.
“Thalia!” tôi nói. “Cậu làm gì ở đây thế?”
“Đuổi theo con hươu vàng,” cô ấy nói, như thể đó là một chuyện quá rõ ràng vậy. “Đó là con vật thiêng của nữ thần Artemis, tớ nghĩ rằng nó là một kiểu dấu hiệu nào đó. Và, ừm...” Cô ấy hất đầu đầy lo lắng về phía con O’Leary. “Cậu muốn nói cho tớ biết con vật đó đang làm gì ở đây thế?”
“Đó là con thú cưng của tớ - Quý cô O’Leary!”
Con O’Leary đang ngửi ngửi con hươu và quan trọng là nó không tôn trọng không gian riêng tư của con hươu. Con hươu húc vào mũi con chó ngao. Ngay sau đó, cả hai con cùng chơi một trò chơi kỳ lạ ném bóng cho nhau quanh khoảng rừng thưa.
“Percy...” Thalia cau mày. “Chuyện này không thể là một sự trùng hợp. Cậu và tớ tới cùng một nơi cùng một thời gian?”
Cô ấy đã đúng. Các á thần không có sự trùng hợp. Thalia là một người bạn tốt, nhưng tôi đã không gặp cô ấy trong hơn một năm, và giờ đột nhiên, hai chúng tôi đều đang ở cùng một nơi.
“Một vị thần nào đó đang đùa giỡn với chúng ta,” tôi đoán.
“Chắc thế.”
“Nhưng rất vui được gặp cậu.”
Cô ấy nở nụ cười miễn cưỡng. “Ừm. Sau khi chúng ta thoát khỏi chuyện này, tớ sẽ mua cho cậu một cái hamburger thịt băm pho mát. Annabeth thế nào?”
Trước khi tôi có thể trả lời, một đám mây bay che kín bầu trời. Con hươu vàng tỏa sáng và biến mất, để lại con O’Leary sủa với một đống lá.
Thanh kiếm của tôi đã sẵn sàng. Thalia kéo căng cây cung. Theo bản năng, chúng tôi đứng đấu lưng vào nhau. Một mảng bóng tối bao phủ khoảng rừng thưa và một cậu bé nhào ra khỏi đó như thể bị ai đó quẳng ra vậy, rồi đáp xuống trên bãi cỏ ngay chân chúng tôi.
“Ối,” cậu ấy làu bàu. Cậu ấy phủi phủi chiếc áo khoác kiểu phi công. Cậu bé khoảng mười hai tuổi với mái tóc đen, quần jeans, áo phông đen và một chiếc nhẫn hình đầu lâu bạc trên tay phải. Một thanh kiếm được đeo bên hông.
“Nico?” tôi nói.
Đôi mắt Thalia mở lớn. “Em trai của Bianca?”
Nico quắc mắt nhìn. Tôi nghi ngờ việc cậu ấy thích được giới thiệu là em trai của Bianca. Chị của cậu ấy, một Thợ săn của nữ thần Artemis, đã chết cách đây hai năm, và điều đó vẫn là một nỗi đau nhức.
“Sao anh lại mang em đến đây?” Cậu ta càu nhàu. “Một phút trước em đang ở nghĩa địa New Orleans. Phút sau – đây có phải New York không? Nhân danh Hades, em đang làm cái quái gì ở đây thế này?”
“Bọn anh không mang em đến đây,” tôi cam đoan với cậu ấy. “Chúng ta...” Một cơn rùng mình chạy dọc xuống lưng tôi. “Chúng ta đều bị đưa đến đây. Cả ba chúng ta.”
“Anh đang nói về điều gì?” Nico hỏi gặng.
“Những đứa con của ‘Bộ Tam Vĩ Đại’,” tôi nói. “Thần Zeus, thần Poseidon và thần Hades.”
Thalia hít sâu. “Lời Tiên tri. Cậu không nghĩ Kronos...”
Cô ấy không cần nói hết suy nghĩ của mình. Tất cả chúng tôi đều biết về Lời Tiên Tri lớn đó: một cuộc chiến đang đến, giữa các thần khổng lồ Titan và các vị thần. Đứa con tiếp theo của ba vị thần quan trọng, người sẽ được mười sáu tuổi sẽ đưa ra một quyết định rằng cứu hay hủy diệt thế giới. Người được nói đến là một trong số ba chúng tôi. Cách đây một vài năm, vị thần đứng đầu các thần khổng lồ Titan, Kronos đã khéo léo điều khiển chúng tôi riêng biệt. Giờ... liệu ông ta có đang bày mưu tính kế gì khi mang tất cả chúng tôi đến đây không?
Mặt đất rung bần bật. Nico rút thanh kiếm của cậu ấy ra màu đen làm bằng sắt Stygian. Con O’Leary nhảy lùi lại và sủa báo động.
Đã quá trễ, tôi nhận ra nó đang cố cảnh báo tôi.
Mặt đất mở rộng bên dưới chân Thalia, Nico và tôi, và chúng tôi rơi vào bóng tối.
Tôi tin rằng mình sẽ rơi mãi mãi, hoặc có thể bị nghiền nát thành một chiếc bánh kếp á thần khi chúng tôi rơi xuống bên dưới. Nhưng điều tiếp theo tôi biết, Thalia, Nico và tôi đang đứng trong một khu vườn vẫn đang gào thét vì khiếp sợ, điều đó khiến tôi cảm thấy mình thật ngớ ngẩn.
“Gì... chúng ta đang ở đâu?” Thalia hỏi.
Khu vườn tối đen. Các luống hoa bạc phát sáng yếu ớt, phản chiếu ánh sáng từ các loại đá quý ở các luống cây – kim cương, ngọc bích, và hồng ngọc có kích thước của quả bóng bầu dục. Các cây uốn cong phía trên đầu chúng tôi, các cành của chúng đầy các loại hoa màu vàng cam và trái cây thơm mát. Không khí mát mẻ và ẩm ướt – nhưng không giống với một New York trong mùa đông. Giống như không khí trong động hơn.
“Tớ đã từng ở đây trước đây,” tôi nói.
Nico hái một trái lựu xuống khỏi cây. “Khu vườn của mẹ kế Persephone của em.” Cậu ấy nhăn nhó mặt mày và quẳng trái cây ấy xuống. “Đừng ăn bất cứ thứ gì.”
Cậu ấy không cần phải nói tôi điều đó hai lần. Chỉ cần nếm một chút thức ăn của Địa ngục, và chúng tôi sẽ không bao giờ có thể rời khỏi đó.
“Ngẩng đầu lên,” Thalia cảnh báo tôi.
Tôi quay lại và nhìn thấy cô ấy đang chĩa cung vào một người phụ nữ cao lớn trong bộ áo đầm màu trắng.
Lúc đầu tôi cứ nghĩ người phụ nữ đó là một con ma. Áo đầm của bà ấy dâng lên cuồn cuộn quanh bà ấy như khói. Mái tóc đen dài lơ lửng và uốn quăn như thể nó không có trọng lực. Khuôn mặt bà ấy khá xinh đẹp nhưng khá xanh xao.
Nhưng rồi tôi chợt nhận ra áo đầm của bà ấy không phải màu trắng. Nó có tất cả các loại màu luân phiên thay đổi – các loài hoa màu đỏ, xanh, và vàng nở rộ trên nền vải – nhưng nó héo đi một cách kỳ lạ. Đôi mắt bà ấy cũng thế, có nhiều màu nhưng nhanh chóng phai đi, như thể Địa ngục đã làm suy yếu đi sức mạnh của bà ấy. Tôi có cảm giác rằng khi ở thế giới trên kia bà ấy sẽ rất xinh đẹp, thậm chí rất chói lọ
“Ta là Persephone,” bà ấy nói, giọng nói yếu ớt và nhẹ như giấy. “Chào đón các á thần!”
Nico nghiền nát trái lựu dưới giày mình. “Chào đón ư? Sau lần vừa rồi, bà vẫn còn dám chào đón tôi sao?”
Tôi bứt rứt không yên, vì nói chuyện kiểu như thế với một vị thần có thể khiến bạn bị nổ tung thành từng hạt bụi nhỏ. “Ừm, Nico...”
“Không sao đâu,” nữ thần Persephone lạnh nhạt nói. “Chúng ta đang có một cuộc cãi vã nhỏ của gia đình.”
“Những cuộc cãi vã nhỏ của gia đình?” Nico gào lớn. “Bà đã biến tôi thành hoa bồ công anh!”
Nữ thần Persephone lờ đi cậu con trai ghẻ của mình. “Như ta đang nói, các á thần, ta chào đón các ngươi đến khu vườn của ta.”
Thalia hạ cung tên xuống. “Bà đã gửi hươu vàng đến sao?”
“Và cả con chó ngao nữa,” nữ thần thừa nhận. “Và bóng tối thì thu thập Nico. Vì có chuyện khẩn cấp nên ta mới tập trung các ngươi lại với nhau.”
“Có chuyện gì sao?” tôi hỏi.
Nữ thần Persephone nhìn chằm chằm vào tôi, và tôi cảm thấy những đóa hoa nhỏ bé lạnh lẽo đang nở rộ trong dạ dày tôi.
“Thần Hades đang gặp rắc rối,” bà ấy nói. “Và nếu các ngươi biết điều gì tốt cho mình, các ngươi sẽ phải giúp ông ấy.”
Chúng tôi ngồi trong mái hiên tối đen nhìn ra phía khu vườn. Những người hầu gái của nữ thần Persephone mang thức ăn và nước uống đến, và chúng tôi không đụng gì đến chúng. Những người hầu gái đó thật xinh đẹp ngoài trừ sự thật rằng họ đã chết. Họ mặc những chiếc áo đầm màu vàng, với vành hoa làm từ cây độc cần và hoa cúc trên đầu. Đôi mắt họ trống rỗng, và họ nói chuyện bằng các âm thanh ríu rít như dơi của các vong hồn.
Nữ thần Persephone ngồi trên một ngai vàng bằng bạc và nhìn chăm chú chúng tôi. “Nếu hiện giờ là mùa xuân, ta sẽ có thể chào đón các người một cách đúng đắn hơn ở thế giới trên kia. Than ôi, giờ đang là mùa đông, thế nên đây là điều tốt nhất ta có thể làm.”
Giọng bà ấy nghe thật chua xót. Sau tất cả chừng ấy thiên niên kỷ, tôi đoán bà ấy vẫn không bằng lòng sống với thần Hades nửa năm. Bà như bị tẩy trắng và lúng túng, như một bức ảnh mùa xuân cũ kỹ.
Bà ấy quay lại nhìn tôi như thể đọc được các ý nghĩ của tôi vậy. “Thần Hades là chồng và là ông chủ của ta, cậu trai trẻ. Ta sẽ làm bất cứ điều gì cho ông ấy. Nhưng trong trường hợp này ta cần sự giúp đỡ của ngươi, và phải nhanh lên. Nó có liên quan đến thanh kiếm của thần Hades.”
Nico cau mày. “Cha tôi không có thanh kiếm nào. Ông ấy sử dụng gậy trong các trận chiến và chiếc mũ gieo rắc kinh hoàng.”
“Ông ấy đã không có một thanh kiếm,” nữ thần Persephone sửa lại câu nói của Nico.
Thalia đứng bật dậy. “Ông ấy đang rèn một vật tượng trưng cho sức mạnh mới sao? Và điều đó không được phép của thần Zeus sao?”
Nữ thần mùa xuân chỉ tay. Phía trên mặt bàn, một hình ảnh đột nhiên xuất hiện: các thợ rèn chiến binh xương làm việc chăm chỉ trong một lò rèn có những ngọn lửa màu đen, sử dụng những chiếc búa có hình dáng những chiếc đầu lâu kim loại để đánh vào chiều dài của một thanh sắc đang biến thành một lưỡi kiếm.
“Cuộc chiến với các thần khổng lồ Titan sắp diễn ra,” nữ thần Persephone nói. “Chúa tể Hades của ta phải được chuẩn bị sẵn sàng.”
“Nhưng thần Zeus và thần Poseidon sẽ không bao giờ cho phép thần Hades được rèn một vũ khí mới!” Thalia phản đối. “Điều đó sẽ làm mất cân bằng hiệp ước chia sẻ sức mạnh của họ.”
Nữ thần Persephone lắc đầu. “Ý ngươi là điều đó sẽ khiến cho thần Hades ngang bằng với họ sao? Hãy tin ta, con gái của thần Zeus, Chúa tể Cái chết chẳng có ý định chống lại hai em của mình đâu. Ông ấy biết họ sẽ không bao giờ hiểu, đó là lý do tại sao ông ấy lại rèn nó trong im lặng.”
Hình ảnh trên mặt bàn tỏa sáng lung linh. Một người thợ rèn xác ướp đưa thanh kiếm vẫn còn nóng lên. Có thứ gì đó kỳ lạ được gắn vào đuôi kiếm – không phải là đá quý. Trông giống với...
“Đó có phải là một chiếc chìa khóa không?” tôi hỏi.
Nico cười gằn. “Đó là chìa khóa của thần Hades?”
“Chờ đã,” Thalia nói. “Chìa khóa của thần Hades là gì?”
Nico trông còn xanh xao hơn cả mẹ kế của cậu ấy. “Thần Hades có một chuỗi các chìa khóa vàng có thể mở hoặc đóng cái chết. Ít nhất... đó chỉ là một huyền thoại.”
“Điều đó có thật,” nữ thần Persephone nói.
“Làm thế nào để mở và đóng cái chết lại?” tôi hỏi.
“Những chiếc chìa khóa đó có sức mạnh để cầm tù một linh hồn ở địa ngục,” nữ thần Persephone nói. “Hoặc thả nó ra.”
Nico nuốt xuống. “Nếu một trong những chiếc chìa khóa đó được lắp lên thanh kiếm...”
“Người sử dụng có thể gây ra cái chết,” nữ thần Persephone nói, “hoặc giết chết bất cứ sinh vật sống nào và gởi linh hồn của nó đến địa ngục chỉ với cái chạm nhẹ vào lưỡi kiếm.”
Tất cả chúng tôi đều im lặng. Vòi nước trong bóng tối chảy róc rách trong góc. Những người hầu gái lơ lửng quanh chúng tôi, mang đến những khay trái cây và kẹo có thể khiến chúng tôi ở lại mãi mãi dưới địa ngục.
“Đó là một thanh kiếm nguy hiểm,” cuối cùng tôi cũng cất tiếng.
“Nó sẽ khiến cho thần Hades không thể bị đánh bại,” Thalia đồng ý.
“Các ngươi thấy đấy,” nữ thần Persephone nói, “tại sao các ngươi không giúp tìm nó lại.”
Tôi liếc nhìn bà ấy. “Bà vừa nói là giúp tìm nó lại phải không?”
Đôi mắt của nữ thần Persephone thật xinh đẹp và hết sức đáng sợ, như những bông hoa độc đang nở rộ. “Lưỡi kiếm đã bị đánh cắp khi nó gần hoàn thành. Ta không biết lý do tại sao, nhưng ta nghi ngờ một á thần, một vài tay chân của Kronos đã làm việc đó. Nếu lưỡi kiếm đó rơi vào tay của người đứng đầu các thần khổng lồ Titan...”
Thalia đứng bật dậy. “Bà đã để cho lưỡi kiếm bị đánh cắp! Việc đó mới ngu ngốc làm sao? Kronos giờ ắt hẳn đã có nó trong tay!”
Các mũi tên của Thalia biến thành các cây hoa hồng leo. Cây cung biến thành cây kim ngân với những bông hoa màu trắng và vàng.
“Cẩn thận đấy, cô thợ săn,” nữ thần Persephone cảnh báo. “Cha cô có thể là thần Zeus, và cô có thể là trợ tá của Artemis, nhưng cô không được phép nói với ta bằng giọng không tôn trọng như thế ở cung điện của chính ta.”
Thalia nghiến răng. “Trả... lại... cung tên... cho... tôi.”
Nữ thần Persephone vẫy tay mình. Cung và tên trở lại bình thường. “Giờ hãy ngồi xuống và lắng nghe. Thanh kiếm có thể còn chưa ra khỏi địa ngục. Thần Hades đã dùng các chìa khóa còn lại của mình để đóng tất cả cửa ở địa ngục. Không ai hay cái gì có thể ra hoặc vào cho đến khi ông ấy tìm thấy thanh kiếm, và ông ấy đang sử dụng tất cả sức mạnh của mình để định vị tên trộm.”
Thalia miễn cưỡng ngồi xuống. “Thế bà muốn chúng tôi làm gì cho bà?”
“Việc tìm kiếm lưỡi kiếm không thể thông báo rộng rãi được,” nữ thần nói. “Chúng ta đã phải đóng cửa Địa ngục, nhưng không nói rõ lý do của việc đó, hay các bầy tôi của Hades không thể dùng trong cuộc tìm kiếm. Họ không thể biết được việc lưỡi kiếm đó tồn tại cho đến khi mọi việc kết thúc. Dĩ nhiên, họ không thể biết được nó đang biến mất.”
“Nếu họ nghĩ thần Hades đang gặp rắc rối, họ có thể rời bỏ ông ấy,” Nico đoán. “Và sẽ gia nhập vào đội quân của các vị thần khổng lồ Titan.”
Nữ thần Persephone không đáp trả, nhưng nếu một nữ thần có thể lo lắng, bà ấy đang như thế. “Tên trộm ắt phải là một á thần. Không có vị thần bất tử nào có thể trực tiếp cướp đi vũ khí của các vị thần bất tử khác. Ngay cả Kronos cũng phải tuân theo quy luật cổ xưa đó. Ông ta có một tay trong nào đó ở dưới này. Và để bắt một á thần... chúng ta sẽ sử dụng ba người các ngươi.”
“Tại sao lại là chúng tôi?” tôi hỏi.
“Các ngươi là con của ba vị thần quan trọng,” nữ thần Persephone nói. “Ai có thể chịu được sức mạnh kết hợp của ba ngươi? Ngoài ra, khi các ngươi lấy lại được lưỡi kiếm cho Hades, các ngươi sẽ gởi một thông điệp đến đỉnh Olympus. Thần Zeus và thần Poisedon sẽ không chống lại vũ khí mới của Hades nếu nó được chính ba người con của họ trao cho ông ấy. Nó sẽ thể hiện rằng các ngươi tin tưởng Hades.”
“Nhưng tôi không tin ông ấy,” Thalia nói.
“Đồng ý,” tôi nói. “Tại sao chúng tôi làm mọi việc cho thần Hades, đừng nói đến việc chúng tôi phải mang đến cho ông ấy một siêu vũ khí? Đúng không, Nico?”
Nico nhìn chằm chằm lên mặt bàn. Những ngón tay của cậu bé gõ gõ vào lưỡi kiếm Stygian màu đen của mình.
“Đúng không, Nico?” tôi nhắc
Phải mất một giây cậu ấy mới ngước nhìn tôi. “Em phải làm điều này, Percy. Ông ấy là cha em.”
“Ôi, không phải chứ,” Thalia phản đối. “Cậu không thể cho rằng việc đó là một ý kiến hay được!”
“Thế chị thà để lưỡi kiếm đó rơi vào tay của Kronos sao?”
Cậu bé cũng có điểm đúng.
“Chúng ta đang lãng phí thời gian,” nữ thần Persephone nói. “Tên trộm có thể có đồng bọn ở địa ngục, và hắn ta đang tìm cách ra khỏi nơi này.”
Tôi cau mày. “Tôi nghĩ bà đã nói rằng toàn bộ nơi này đã bị phong kín.”
“Không một nhà tù nào có thể kín kẽ được, thậm chí ngay cả Địa ngục. Các linh hồn thường tìm được cách thoát ra ngoài nhanh hơn cả việc Hades có thể đóng chặt chúng. Các ngươi phải tìm lại được thanh kiếm trước khi nó thoát khỏi đây, nếu không tất cả đều sụp đổ.”
“Ngay cả khi chúng tôi muốn,” Thalia nói, “làm thế nào chúng tôi tìm ra được tên trộm đó?”
Một chậu cây xuất hiện trên bàn: một cây hoa cẩm chướng vàng cằn cỗi chỉ có một vài chiếc lá xanh. Hoa của nó nghiêng sang một bên như thể đang cố tìm kiếm mặt trời.
“Cái này sẽ chỉ đường cho các ngươi,” nữ thần nói.
“Một cây cẩm chướng ma thuật?” tôi hỏi.
“Hoa sẽ luôn hướng về phía tên trộm. Khi con mồi của các ngươi tiến gần hơn điểm trốn thoát, những cánh hoa sẽ rơi xuống.”
Khi bà ấy đang nói, một cánh hoa màu vàng biến thành màu xám và nhẹ nhàng đáp xuống đất.
“Nếu tất cả các cánh hoa đều rơi xuống,” nữ thần Persephone nói, “đóa hoa sẽ chết. Điều đó có nghĩa là tên trộm đã tìm được lối ra và các ngươi đã thất bại.”
Tôi liếc nhìn Thalia. Cô ấy dường như quá say mê về việc đuổi-theo-tên-trộm-với-một-bông-hoa này. Rồi tôi nhìn Nico. Không may, tôi nhận ra được biểu hiện trên gương mặt cậu bé. Tôi biết đó là vẻ mặt khi mong muốn được làm cho cha mình tự hào, thậm chí ngay cả khi cha bạn thật sự khó có thể yêu được. Trong trường hợp này, thật sự thật sự khó có thể yêu được
Nico sẽ làm việc này, có hay không có chúng tôi. Và tôi không thể để cậu bé đi một mình như thế.
“Đáp ứng tôi một điều kiện,” tôi nói với nữ thần Persephone. “Thần Hades sẽ phải thề với Sông Styx rằng ông ấy sẽ không bao giờ sử dụng thanh kiếm này để chống lại các vị thần.”
Nữ thần nhún vai. “Ta không phải là Hades, nhưng ta tin chắc rằng ông ấy sẽ làm điều đó – như thể là tiền thưởng vì sự giúp đỡ của các ngươi.”
Một cánh hoa cẩm chướng khác đột nhiên rơi xuống.
Tôi quay sang Thalia. “Tớ sẽ giữ chậu hoa khi cậu đánh bại tên cướp nhé?
Cô ấy thở dài. “Tốt thôi. Lên đường bắt tên trộm nào!”
Ở Địa ngục chẳng có tí nào tinh thần Giáng sinh cả. Khi chúng tôi đi xuống cuối con đường của cung điện đi vào Cánh đồng Asphodel, nó trông khá giống với những gì tôi đã nhìn thấy trong chuyến viếng thăm trước đây của mình – cực kỳ buồn rầu. Những cọng cỏ màu vàng và những cây dương còi cọc màu đen vẫn mãi mãi như thế. Các hình bóng trôi dạt vô định khắp các khu đồi, xuất hiện từ đầu và sẽ đi về nơi nào, đang trò chuyện cùng nhau và đang cố nhớ lại họ là ai khi còn sống. Ở phía trên cao chúng tôi, trần hang động nhuốm một màu đen tối ảm đạm.
Tôi cảm thấy mình khá là ngu ngốc khi ôm chặt cây hoa cẩm chướng như thế này. Nico là người dẫn đường vì lưỡi kiếm của cậu bé có thể dọn đường xuyên qua bất cứ đám đông mà không gây tổn thương. Thalia hầu như cứ làu bàu rằng cô ấy tốt hơn hết là không nên đi tìm kiếm với hai cậu con trai.
“Nữ thần Persephone dường như bực dọc nhỉ?” tôi hỏi.
Nico đi xuyên qua một đám ma, đuổi chúng đi với thanh kiếm làm từ sắt Stygian. “Bà ấy luôn hành động như thế khi có mặt em. Bà ấy ghét em.”
“Thế sao bà ấy lại đưa cậu vào cuộc tìm kiếm này?”
“Chắc chắc đó là ý tưởng của cha em.” Cậu ấy nói như thể cậu ấy muốn điều đó là sự thật, nhưng tôi không chắc lắm về điều đó.
Tôi cảm thấy kỳ lạ vì thần Hades đã không trực tiếp đề nghị chúng tôi tìm kiếm thanh kiếm cho ông ấy, tại sao ông ấy lại để nữ thần Persephone đứng ra giải thích tất cả? Thông thường thần Hades trực tiếp bắt nạt các á thần.
Nico tiến lên phía trước. Cho dù đám đông ở cánh đồng có đông đúc thế nào đi nữa – và nếu bạn đã từng nhìn thấy quảng trường Thời Đại vào đêm giao thừa, bạn sẽ rõ hơn về những gì tôi đang miêu tả - các linh hồn đều rẽ ra trước cậu bé.
“Cậu ấy có ích với đám đông toàn xác ướp này,” Thalia thừa nhận. “Nghĩ xem, tớ sẽ mang cậu ta theo vào lần tới khi tớ đi mua sắm.”
Cô ấy nắm chặt cây cung của mình như thể đang e sợ nó sẽ một lần nữa biến thành cây kim ngân. Cô ấy trông chẳng lớn hơn mấy so với năm trước đây, và thình lình tôi đột nhiên nhận ra rằng cô ấy sẽ không bao giờ già đi, giờ cô ấy đã là một thợ săn. Điều đó có nghĩa là tôi đã già hơn cô ấy. Thật kỳ quái.
“Vậy,” tôi cất tiếng hỏi. “Cảm nhận của cậu về sự bất tử thế nào?”
Cô ấy đảo tròn mắt. “Nó không hoàn toàn bất tử, Percy. Cậu biết điều đó mà. Bọn tớ vẫn có thể chết trong trận đánh. Nó chỉ là... bọn tớ không bao giờ già đi hay đau ốm, vì thế bọn tớ sống mãi mãi nếu bọn tớ không bị quái vật cắt lát.”
“Vẫn mãi nguy hiểm.”
“Luôn vậy.” Cô ấy nhìn quanh, và tôi nhận ra cô ấy đang cẩn thận nhìn vào mặt của những người đã chết.
“Nếu cậu đang tìm kiếm Bianca,” tôi nói khẽ để Nico không nghe thấy, “cô ấy đang ở Elysium. Cô ấy chết như một anh hùng.”
“Tớ biết điều đó,” Thalia ngắt lời tôi. Rồi cô ấy ôm lấy chính mình. “Không phải thế, Percy. Tớ chỉ... Đừng bận tâm.”
Một cảm giác mạnh mẽ lan khắp người tôi. Tôi nhớ ra rằng mẹ của Thalia đã chết trong một tai nạn xe hơi một vài năm trước đây. Họ chưa bao giờ gần gũi nhau, nhưng Thalia chưa bao giờ được nói chào tạm biệt. Nếu bóng của mẹ cô ấy đang lảng vảng quanh đây – không lạ gì tại sao Thalia lại trông hốt hoảng như thế.
“Tớ xin lỗi,” tôi nói. “Tớ đã không nghĩ đến việc đó.”
Đôi mắt chúng tôi gặp nhau, và tôi có cảm giác cô ấy đã hiểu. Nét mặt cô ấy nhẹ nhõm dần. “Tớ ổn. Chúng ta hãy nhanh chóng kết thúc việc này.”
Một cánh hoa cẩm chướng khác lại rơi xuống khi chúng tôi tiếp tục đi
Tôi không vui khi cây hoa dẫn chúng tôi đi về hướng Cánh đồng Trừng phạt. Tôi đang hy vọng chúng tôi thay đổi hướng đi về phía Elysium để chúng tôi có thể gặp mặt với những người xinh đẹp và những buổi tiệc tùng, nhưng không như thế. Cây hoa dường như thích nơi khắc nghiệt nhất và xấu xa nhất của Địa ngục. Chúng tôi nhảy qua một dòng suối nham thạch và đi ngang qua một vài cảnh tra tấn khủng khiếp. Tôi sẽ không miêu tả chúng vì bạn sẽ hoàn toàn không thể nào ăn ngon miệng được, nhưng tôi đã ước gì mình có những quả cầu bông trong tai để ngăn chặn được những tiếng gào thét vào âm nhạc của những năm 1980.
Cây hoa cẩm chướng nghiêng hoa về phía một ngọn đồi bên tay trái chúng tôi.
“Ở trên kia,” tôi nói.
Thalia và Nico ngừng lại. Cả người họ bao phủ bồ hóng khi lê bước qua cánh đồng Trừng phạt. Tôi chắc chắn trông cũng chả khá hơn họ là mấy.
Một tiếng nghiến ken két lớn xuất hiện từ phía bên kia của khu đồi, như thể ai đó đang kéo một chiếc máy giặt. Rồi cả khu đồi lắc lư với một tiếng boom và tiếng chửi rủa của một người đàn ông.
Thalia nhìn Nico. “Đó có phải là người chị nghĩ không?”
“E là vậy,” Nico nói. “Chuyên gia số một về cái chết giả.”
Trước khi tôi có thể hỏi cậu bé những điều cậu bé nói có ý gì, cậu đã dẫn chúng tôi lên đến đỉnh đồi.
Người đàn ông ở phía bên kia khu đồi không đẹp, và ông ta không vui vẻ chút nào. Ông ta trông giống một trong những con búp bê giữ kho báu với làn da màu vàng cam, một cái bụng phệ, chân và tay gầy nhẳng, và một cái khố tã lót lớn được quấn quanh eo ông ta. Mái tóc bù xù của ông ta dựng đứng như một ngọn đuốc. Ông ta đang nhảy quanh, chửi rủa và đá mạnh vào một tảng đá lớn gấp hai lần so với ông ta.
“Tôi sẽ không!” ông ta gào lớn. “Không, không, không!” Rồi ông ta phát ra một loạt những tiếng chửi rủa bằng một vài thứ tiếng khác nhau. Nếu tôi có một trong những cái bình, nơi bạn bỏ vào hai mươi lăm cent cho một từ xấu, tôi có thể kiếm được khoảng năm trăm đôla.
Ông ta bắt đầu đi khỏi tảng dá, nhưng chỉ sau mười bước chân, ông ta lại lảo đảo lùi lại, như thể có một lực vô hình nào đó đã kéo ông ta lại vậy. Ông ta đi loạng choạng về lại phía tảng đá và bắt đầu đập đầu mình vào đó.
“Được rồi!” ông ta hét lớn. “Được rồi, nguyền rủa ngươi!”
Ông ta xoa đầu mình và làu bàu thêm một vài từ chửi rủa. “Nhưng đây là lần cuối nhé. Ngươi có nghe ta nói không?”
Nico nhìn chúng tôi. “Đi thôi. Khi ông ta đang ở giữa những lần nỗ lực.”
Chúng tôi bò xuống đồi.
“Sisyphus!” Nico gọi.
Người đàn ông đó ngước nhìn với vẻ mặt đầy ngạc nhiên. Rồi ông ta lùi lại phía sau tảng đá. “Ôi, không! Ngươi không lừa được ta với những cải trang đó đâu! Ta biết ngươi chính là Thần báo thù!”
“Chúng tôi không phải Thần báo thù,” tôi nói. “Chúng tôi chỉ muốn nói chuyện.”
“Đi đi!” ông ta hét vang. “Hoa hoét cũng chẳng làm cho mọi việc trở nên tốt hơn đâu. Đã quá trễ để nói lời xin lỗi!”
“Nghe này,” Thalia nói, “chúng tôi chỉ muốn...”
“La-la-la!” ông ta hét lớn. “Ta không muốn nghe!”
Chúng tôi đuổi theo ông ta quanh tảng đá cho đến khi cuối cùng Thalia, người nhanh chân nhất, đã túm được tóc ông ta.
“Ngừng lại!” ông ta khóc thét lên! “Ta còn có tảng đá phải di chuyển. Tảng đá phải di chuyển!”
“Tôi sẽ di chuyển tảng đá hộ ông!” Thalia đề nghị. “Vì thế nên im lặng và nói chuyện với những người bạn của tôi.”
Sisyphus ngừng lại. “Ngươi... ngươi sẽ di chuyển tảng đá giúp ta sao?”
“Thế còn tốt hơn là nhìn thấy ông.” Thalia liếc nhìn tôi. “Nhanh lên nhé.” Rồi sau đó cô ấy đẩy Sisyphus về phía chúng tôi.
Cô ấy đặt vai mình lên tảng đá và bắt đầu từ từ đẩy nó lên đỉnh đồi.
Sisyphus quắc mắt nhìn tôi đầy hoài nghi. Ông ta bóp lấy mũi tôi.
“Ôi!” tôi nói.
“Vậy cậu không phải là Nữ thần báo thù,” ông ta nói với vẻ mặt đầy kinh ngạc. “Cây hoa đó dùng để làm gì?”
“Chúng tôi đang tìm kiếm một người nói. “Cây hoa này đang giúp chúng tôi tìm người đó.”
“Nữ thần Persephone!” Ông ta nhổ nước bọt vào đất. “Đó là một trong số các thiết bị truy tìm của bà ta, phải không?” Ông ta nghiêng người tới trước, và tôi bắt gặp một hơi thở khó chịu của một-lão-già-muôn-đời-lăn-đá. “Tôi đã lừa bà ấy một lần trước đây, cậu biết không. Tôi đã lừa tất cả bọn họ.”
Tôi nhìn Nico. “Dịch nghĩa lời nói đó nào?”
“Sisyphus đã lừa dối cái chết,” Nico giải thích. “Đầu tiên ông ta xích Thanatos, người thu nhặt linh hồn, vì thế không ai có thể chết. Sau đó khi Thanatos thoát ra được và sắp sửa giết ông ta, Sisyphus bảo vợ mình làm sai lễ tang để ông ta sẽ không được an nghỉ. Sisy này – liệu tôi có thể gọi ông là Sisy?”
“Không!”
“Sisy đã lừa Persephone cho ông ta quay trở lại thế gian để thăm vợ mình. Và ông ta đã không quay trở lại.”
Người đàn ông già cười khúc khích. “Ta đã sống thêm ba mươi năm nữa trước khi họ cuối cùng cũng tìm được ta.”
Thalia hiện đang ở giữa lưng đồi. Cô ấy cắn chặt răng, dùng lưng mình đẩy tảng đá. Biểu cảm trên mặt cô ấy như muốn nói Nhanh lên đi!
“Vậy đó là sự trừng phạt dành cho ông,” tôi nói với Sisyphus. “Lăn một tảng đá lên đồi mãi mãi. Liệu nó có đáng không?”
“Chỉ là một thất bại tạm thời!” Sisyphus gào lớn. “Ta sẽ nhanh chóng thoát khỏi đây thôi, và khi ta làm thế, tất cả họ đều phải hổ thẹn!”
“Làm sao ông thoát khỏi Địa ngục?” Nico hỏi. “Nó đã được khóa, ông biết điều đó mà.”
Sisyphus cười một cách tinh quái. “Đó cũng là câu hỏi mà một người khác đã hỏi ta.”
Dạ dày tôi thắt lại. “Một người nào đó đã hỏi ý kiến ông sao?”
“Một anh bạn trẻ đầy giận dữ,” Sisyphus nhớ lại. “Không lịch sự lắm. Chĩa kiếm vào cổ ta. Cũng chẳng đề nghị lăn hòn đá giùm ta.”
“Ông đã nói gì với hắn ta?” Nico hỏi. “Hắn ta là ai?”
Sisyphus xoa xoa đôi vai mình. Ông ta ngước nhìn Thalia, người đang đẩy hòn đá lên gần đỉnh đồi. Khuôn mặt cô ấy đỏ bừng và mồ hôít.
“Ồ... thật khó nói,” Sisyphus nói. “Chưa bao giờ gặp cậu ta trước đây. Cậu ta mang theo một kiện hàng được bọc bằng vải đen. Ván trượt tuyết, có thể? Cái xẻng? Hoặc có thể nếu các cậu đợi ở đây, ta có thể đi tìm cậu ta...”
“Ông đã nói với cậu ta điều gì?” tôi gặng hỏi.
“Không thể nhớ.”