- Im nào! - Gã Gascon nói sau khi đã đi được khoảng trăm bước khỏi căn lều mà chúng vừa ăn tối xong, - chúng ta nghỉ một chút chứ, đệ nghĩ sao?
- Xin tuân lệnh, - Passepoil đáp. - Lão già thì nặng mà tiền chi thì ít.
Chúng đặt ngài bá tước de Barbanchois xuống cỏ, ông này đã hơi tỉnh lại nhờ khí trời đêm mát mẻ, bắt đầu lặp lại điệp khúc ưa thích của mình:
- Chúng ta đi đâu? Chúng ta đi đâu?.- Tội nghiệp lão say! - Cocardasse nhận xét, - lão ta thật tò mò, anh bạn thân mến ạ!
- Chúng ta đi tới đám ma của mình, - Passe-poil thở dài nói bằng một giọng nhẫn nhục. -Hã y can đảm, chúng ta mang lão đi thôi, - gã đế thêm.
Nhưng trước khi lại cất gánh nặng lên, chúng ôm nhau thắm thiết.
- Thế còn cậu ấy, - Passepoil hỏi, - huynh đã gặp chưa?
Cocardasse hạ thấp giọng.
- Chưa, - gã trả lời. - Nhưng ta đã được nghe nói về cậu ấy. Quan Nhiếp chính không dùng bữa tối. Ngài đã giam mình hơn một giờ đồng hồ với Gonzague. Cậu bé Paris tội nghiệp của chúng ta chỉ có mà chịu trận.
- Đệ rất sợ, - môn đệ Passepoil thở dài, -họ sẽ nẫng mất cậu ấy của chúng ta.
Cocardasse đang đi phía trước bỗng dừng lại, khiến cho ngài nam tước de Barbanchois bật ra một tiếng rên.
- Đệ này, - gã nói, - hãy tin chắc cậu ấy sẽ trụ được; cậu ấy đã từng gặp bao nhiêu chuyện khác như thế rồi!
- Có khác nào dùng gầu tát nước... - Passe-poil than thở.
Gã chưa kịp nói hết câu tục ngữ thì có tiếng chân người bên đài nước. Hai anh hào của chúng ta theo thói quen nấp vội vào một bụi cây. Động tác đầu tiên của chúng bao giờ cũng là lẩn trốn.
Tiếng chân lại gần. Đó là một toán người mang vũ khí, đi đầu là Bonnivet, giám mã của bà de Berri. Khi toán người tuần tra đi vào một con đường nhỏ, ánh sáng cũng tắt theo. Liền đó Cocardasse và Passepoil nghe thấy tiếng toán người nói với nhau.
- Hắn ở trong vườn! - Viên đội khẳng định với các lính gác. - Ta đã hỏi tất cả các lính canh và đội lính gác cổng. Trang phục của hắn rất dễ nhận ra; người ta không hề thấy hắn đi ra ngoài.
Họ đi xa dần.
Một toán tuần tra khác đi ngang qua cung điện, một toán khác nữa hướng về phía các lùm cây bao quanh những ngôi nhà trên phố Neuve-des- Petits-Champs. Khắp nơi ánh sáng tắt theo khi họ đi qua. Có cảm tưởng như trong chốn vui thú này người ta đang chuẩn bị một trò ác hiểm gì đấy..Đêm tối đen. Không còn mấy chùm đèn được thắp sáng trong vườn, trừ ở quanh các dãy lều theo lối thổ dân da đỏ. Người ta thấy các cửa sổ ở tầng hai tòa nhà quan Nhiếp chính vẫn sáng ánh đèn.
Một cửa sổ mở ra. Đích thân quan Nhiếp chính xuất hiện trên ban công và nói với những quân hầu vô hình:
- Các vị hãy lấy đầu ra bảo đảm, cần phải bắt sống hắn!
Lagardère và Aurore vừa đi đến quyết định chạy trốn. Lagardère không hề hồ nghi về những gì đang diễn ra trong vườn. Chàng hy vọng có thể đi qua, cùng với người bạn đường, theo lối cổng mà bác Le Bréant gác. Chàng đã mặc lại chiếc áo đôminô đen, và mặt Aurore lại được che dưới mặt nạ. Họ rời căn phòng. Hai người đàn ông đang quỳ ngoài ngưỡng cửa.
- Chúng tôi đã làm những gì có thể, thưa ngài hiệp sĩ, - Cocardasse và Passepoil cùng nói, chúng đã tiêu đến những đồng xu cuối cùng để lấy lại tâm can, - xin hãy tha lỗi cho chúng tôi!
- Thế đấy! - Cocardasse đế thêm.
- Đức Chúa lòng lành, - Passepoil thốt lên.
Cocardasse lau mắt.
- Đứng dậy! - Lagardère ra lệnh.
Chợt chàng nhận ra những khẩu hỏa mai của đám quân túc vệ ở đầu lối nhỏ.
- Thế này là thế nào? - Chàng hỏi thêm.
- Thế này có nghĩa là cậu đã bị phong tỏa, cậu bé khốn khổ của ta! - Passepoil đáp.
Chính là nhờ những đồng xu nướng sạch vào rượu mà gã mới thốt ra những lời lẽ bỗ bã như thế. Lagardère thậm chí không đòi phải giải thích.
Chàng đã đoán ra tất cả. Cuộc vui đã kết thúc, và đây là điều khiến cho chàng kinh hãi. Giờ giấc đã trôi qua với chàng ngắn như giây lát; chàng đã không tính đến thời gian; chàng đã muộn mất rồi. Chỉ có đám đông nhộn nhịp của buổi lễ lẽ ra mới có thể giúp chàng trốn được dễ dàng.
- Các ngươi có chắc chắn thực lòng theo ta không? - Chàng hỏi.
- Xin một sống một chết! - Hai anh hào của chúng ta trả lời, tay đặt lên ngực.
Chúng không hề nói dối.
- Hãy nghe đây, - Lagardère nói, - cần phải đánh liều một ăn cả ngã về không. Các ngươi không phải lo cho ta, ta tự biết cách khu xử; ta có một cái lốt để ngụy trang. Các ngươi sẽ cùng nàng vào dưới phòng tiền sảnh của quan Nhiếp.chính, rẽ trái, cửa phòng của ngài Le Bréant ở đầu hành lang đầu tiên, các ngươi sẽ đeo mặt nạ đi qua và nói: "Chúng tôi đến theo lệnh của người ở dưới vườn, trong phòng của ngài..." ông ta sẽ mở cổng thông ra ngoài đường cho các ngươi, và các ngươi sẽ đợi ta đằng sau nhà thờ điện Louvre.
- Rõ! - Cocardasse nói.
- Còn điều này nữa. Các ngươi có dám thà chịu chết còn hơn giao nộp cô gái này?
- Lè lẹ nào! Chúng tôi sẽ nghiền nát kẻ nào cản đường mình. - Gã Gascon hứa.
Và cả hai cùng nói:
- Lần này ngài sẽ được hài lòng về chúng tôi.
Lagardère hôn tay Aurore và nói:
- Dũng cảm lên, đây sẽ là thử thách cuối cùng của chúng ta.
Nàng đi ra, được hộ tống bởi hai anh hào của chúng ta. Họ phải đi qua viên trường Diane.
- ‰! - Một tên lính nói, - lại thêm một cô nàng không biết đường về nhà.
- Này các cậu, - Cocardasse nói, - đây là một quý bà danh giá đấy.
Gã không khách khí lấy tay đẩy những người đứng trước mặt ra và trâng tráo nói thêm:
- Điện hạ đang đợi chúng tôi.
Những người lính phá lên cười và tránh ra cho họ đi.
Nhưng trong bóng tối một bồn cam rậm rạp án ngữ góc tòa nhà, có hai người dường như đang mai phục: đó là Gonzague và Peyrolles. Họ đang chờ Lagardère bất chợt lúc nào cũng có thể xuất hiện. Gonzague ghé tai Peyrolles nói gì đấy. Tên này giữ liên lạc với năm sáu gã đeo kiếm dài phục kích sau bụi cây. Tất cả bám theo sát gót hai anh hào của chúng ta khi chúng vừa leo lên bậc thềm, lăm lăm hộ tống người mặc bộ đôminô đỏ. Ngài Le Bréant mở cửa thông ra phố Cour-aux- Ris, đúng như Lagardère đã dự tính. Chỉ có điều, bác ta mở những hai lần, một lần cho Aurore và đội hộ tống của nàng, lần thứ hai cho Peyrolles và đồng bọn của y.
Còn Lagardère thì đã trườn tới đầu lối nhỏ để xem vị hôn thê của mình có đến được tòa nhà bình yên vô sự không. Khi chàng định về lại chái phòng của Le Bréant thì đường đã bị chặn:
một toán quân túc vệ đã bao vây con đường..- Này ngài hiệp sĩ! - Viên chỉ huy thét, giọng có hơi lạc đi, - xin chớ kháng cự, ngài đã bị vây mọi phía.
Viên giám mã Bonnivet dũng cảm có bước đi như sói tiến đến từ phía sau, dùng tay giữ lấy người chàng. Lagardère không hề tìm cách thoát ra, và hỏi lần thứ hai:
- Các vị muốn gì tôi?
Có tới sáu mươi người vây quanh Henri, họ dẫn chàng đi - đúng hơn là điệu chàng - tới dãy phòng của Philippe d’Orléans. Rồi họ đóng cửa vào tiền sảnh, và ở dưới vườn không còn một ai, trừ ngài de Barbanchois tốt bụng vẫn ngáy ngon lành trên thảm cỏ ẩm ướt.
Khi Lagardère vào thì đã có nhiều người, điều đó có vẻ giống như một phiên tòa.
Mươi mười lăm người trang bị vũ khí tới tận răng vây quanh Lagardère. Chỉ có một người phụ nữ duy nhất: vương phi de Gonzague ngồi phía bên phải quan Nhiếp chính.
- Thưa ngài, - ông ta đột ngột nói khi nhìn thấy Lagardère, - chúng ta không đặt ra điều kiện là ngài đến quấy rối lễ hội của chúng tôi. Điều đó khiến chúng tôi sớm phải hối hận là đã tỏ ra khoan dung với ngài.
Từ lúc bị bắt giữ, khuôn mặt Lagardère đã hóa đá.
Nhưng quan Nhiếp chính vốn rất lười biếng và đang muốn ngủ, ngài không thể dừng lại lâu vì chuyện tầm phào này.
- Thưa ngài, - ông ta tiếp tục, - chúng tôi tha thứ cho ngài về tất cả những chuyện đó; nhưng xin hãy cẩn thận, có một điều mà chúng tôi sẽ không tha thứ cho ngài được. Ngài đã hứa với vương phi de Gonzague là ngài sẽ trao lại con gái cho bà. Có đúng vậy không?
- Vâng, thưa đức ông, tôi đã hứa như thế.
- Ngài đã phái đến ta một người đưa tin, và người đó đã nhân danh ngài hứa cùng một điều đó. Ngài có thừa nhận không?
- Vâng, thưa đức ông.
- Ngài đoán rằng, ta nghĩ thế, ngài đang đứng trước một phiên tòa. Tiểu thư de Nevers đâu?
- Tôi không biết. - Lagardère đáp.
- ông ta nói dối! - Vương phi hăng hái hét lên..- Không, thưa bà. Tôi đã hứa hẹn một điều không thuộc về mình, tất cả chỉ có thế.
Trong đám người có tiếng xì xào phản bác.
Henri cất cao giọng nói tiếp và đưa mắt nhìn xung quanh:
- Tôi không quen biết tiểu thư de Nevers.
Quan Nhiếp chính nghiêm khắc nhìn La-gardè re:
- Thưa ngài, - ông ta nói, - xin hãy nghĩ kỹ những gì ngài nói.
- Thưa đức ông, suy nghĩ không làm được gì thêm cho sự thật và cũng không bớt mất được gì: tôi đã nói sự thật.
- Đức ông chịu được thế sao? - Vương phi nói, khó khăn lắm bà mới kiềm chế được. - Tôi xin lấy danh dự, tôi xin lấy sự cứu rỗi ra thề, ông ta nói dối. ông ta biết con gái tôi ở đâu, vì ông ta vừa mới nói với tôi thế, cách đây mươi bước, ở dưới vườn.
- Hãy trả lời đi, - quan Nhiếp chính ra lệnh.
- Lúc ấy cũng như bây giờ, - Lagardère đáp, - tôi đều nói sự thật, lúc ấy tôi vẫn còn hy vọng thực hiện được lời hứa của mình.
- Thế còn bây giờ? - Vương phi lắp bắp, bà như phát khùng.
- Bây giờ, tôi không còn hy vọng nữa.
Quan Nhiếp chính nhắc nhở:
- Chỉ bằng vào những hy vọng mơ hồ mà ngài đã viết cho quan Nhiếp chính Pháp quốc sao? Khi ngài cho người đến nói với ta: "Con gái của bạn ngài sẽ được trao lại..." - Tôi đã hy vọng sẽ là như thế.
- Ngài đã hy vọng!
- Nhưng, thưa đức ông, - vương phi thốt lên, tay vặn vào nhau, - ngài không thấy ông ta đánh cắp con gái của tôi sao? ông ta đang giấu nó!
Chính ông ta là người tôi đã trao con gái mình vào cái đêm chồng tôi bị sát hại; tôi vẫn nhớ mà! Tôi biết và tôi thề là như thế!
Thái dương Lagardère khẽ co giật mà không ai nhận thấy. Những giọt mồ hôi đọng lại dưới tóc chàng, nhưng chàng vẫn bình thản trả lời:
- Vương phi nhầm rồi.
- ôi! - Bà nói, tức phát điên lên, - không thể nhầm người này được!
- Chỉ cần một nhân chứng..., - quan Nhiếp chính bắt đầu.
Ngài dừng lại vì Henri đã đứng thẳng người lên, nhìn Gonzague vừa hiện ra ở cửa chính với vẻ khiêu khích. Gonzague vào đã gây ít nhiều ấn.tượng. ông ta cúi chào từ xa vương phi vợ mình và Philippe d’Orléans, rồi đứng lại bên cửa.
Mắt ông ta bắt gặp ánh mắt Henri, chàng nói bằng một giọng thách thức:
- Vậy hãy cho nhân chứng ra đi, và thách nhân chứng dám nhận ta đấy!
Tuy nhiên trong phòng vẫn yên lặng. Bên cửa bỗng có một sự xáo động nhỏ. Gonzague lại gần ngưỡng cửa, và khuôn mặt vàng vọt của Pey-rolles ló ra khỏi bóng tối.
- Cô ta ở trong tay chúng ta! - Y khẽ nói.
- Còn giấy tờ?
- Cả giấy tờ nữa.
Gonzague mừng đỏ cả hai má.
- Thề với cái chết của Chúa! - ông ta thốt lên, - chẳng phải ta đã có lý khi bảo ngươi gã gù này đáng giá bằng vàng?
- Không có ai trả lời, ngài thấy rồi đấy, thưa đức ông, - Lagardère nói. - Vì ngài là quan tòa, xin hãy công bằng. Vào lúc này trước mặt ngài có gì? Một chính nhân quân tử tội nghiệp bị lừa, cũng như chính ngài, vì niềm hy vọng của mình.
Tôi những tưởng có thể nhờ cậy vào một tình cảm lẽ ra là tinh khiết và mãnh liệt hơn tất cả, tôi đã hứa với sự táo bạo của một người mong muốn được đền đáp...
Chàng dừng lại và cố gắng nói tiếp:
- Bởi vì tôi nghĩ mình có quyền được đền đáp.
Lagardère cố gắng hết sức mình và tiếp tục:
- Số phận đã chơi khăm tôi, thưa đức ông; đó là tất cả tội lỗi của tôi. Điều mà tôi những tưởng nắm giữ được đã thoát khỏi tôi. Tôi tự trừng phạt mình, và trở về nơi sống lưu vong.
- Tôi quỳ gối trước ngài, thưa đức ông... -Vương phi bắt đầu.
- Thôi đi, bà! - Philippe d’Orléans ngắt lời.
Ông ra hiệu giữ im lặng bằng một cử chỉ uy nghi, và ai nấy đều ngậm miệng lại. Hướng về phía Lagardère, ông nói tiếp:
- Thưa ngài, ngài là một chính nhân quân tử, ít nhất thì đó cũng là điều ngài nói. Nhưng những gì ngài làm lại không xứng với một người quân tử. Hãy chịu sự trừng phạt bằng chính sự xấu hổ của mình. Kiếm đâu, thưa ngài!
Lagardère lau mồ hôi đầm đìa trên trán. Khi chàng tháo dây lưng đeo kiếm, một giọt nước mắt lăn trên má chàng..Nhìn thấy Lagardère giao kiếm cho hầu tước Bonnivet, Chaverny quay mắt đi.
Trong giây lát, mọi người tưởng Lagardère sẽ đập nát những hàng cột trong gian phòng.
- Thưa đức ông, - chàng cúi người nói, - tôi chấp nhận phán quyết của Điện hạ. Chàng đi ra phía cửa giữa đám đông im phăng phắc. Trước đó quan Nhiếp chính đã nói nhỏ với vương phi: "Xin bà chớ lo, sẽ có người bám theo hắn".
Đến giữa phòng, Lagardère chạm trán hoàng thân de Gonzague, ông ta vừa rời chỗ Peyrolles.
- Thưa Điện hạ, - Gonzague hướng về phía công tước d’Orléans nói, - tôi cản đường người này.
Taranne thúc khuỷu tay Oriol.
- Ngài hầu tước bé nhỏ điên mất rồi, - ông ta thì thầm.
- Tại sao ngài cản đường người này? - Quan Nhiếp chính hỏi.
- Bởi vì đức tin của ngài đã nhầm, thưa đức ông, - Gonzague đáp. - Việc tước danh hiệu quý tộc không phải là sự trừng phạt thích hợp với những tên sát nhân!
Khắp gian phòng nháo nhác cả lên và quan Nhiếp chính đứng dậy.
- Kẻ này là một tên giết người! - Gonzague kết thúc và kề lưỡi kiếm trần lên vai Lagardère.
Giữa toàn thể đám đông huyên náo - vì những người theo Gonzague đều hò hét và tỏ ra lên án, Lagardère bỗng phá lên cười sằng sặc.
Chàng gạt lưỡi kiếm ra và túm lấy cổ tay Gon-zague xiết mạnh đến nỗi thanh kiếm rơi xuống.
Chàng dẫn Gonzague hay đúng hơn là điệu ông ta tới sát bàn, chỉ vào bàn tay ông ta mà do đau đã phải xòe ra, chàng nói, ngón tay chỉ vào vết sẹo sâu hoắm:
- Vết tích của tôi! Tôi đã nhận ra vết tích của mình!
ánh mắt quan Nhiếp chính sầm tối. Mọi người nín thở.
- Gonzague tiêu rồi! - Chaverny thì thào.
Gonzague tỏ ra táo bạo phi thường.
- Thưa Điện hạ, - ông ta nói, - đã mười tám năm tôi chờ đợi điều này! Philippe, người anh em của chúng ta sẽ được trả thù. Tôi đã bị vết thương này khi bảo vệ mạng sống của Nevers.
Bàn tay Lagardère bỗng nới lỏng và cánh tay buông thõng dọc bên sườn. Chàng đứng đực ra trong giây lát, trong khi một tiếng thét lớn cất lên trong gian phòng:
- Kẻ sát hại Nevers! Kẻ sát hại Nevers!
Vương phi lấy tay bưng mặt vẻ kinh hoàng.
Bà không nhúc nhích. Bà ngất lịm đi. Lagardère.dường như bừng tỉnh khi các cung thủ do Bon-nivet dẫn đầu vây lấy chàng theo hiệu lệnh của quan Nhiếp chính.
- Đồ đê tiện! - Chàng gầm lên.
Rồi đẩy Bonnivet bắn xa chục bước khi ông ta định tra còng vào tay chàng:
- Tránh ra! - Chàng thét vang như sấm, - kẻ nào muốn chết thì cứ chạm vào ta!
Chàng quay về phía Philippe d’Orléans nói thêm:
- Thưa đức ông, tôi có giấy thông hành của Điện hạ đây.
Nói đoạn, chàng rút từ trong túi áo chẽn ra tấm da mà chàng đã gấp lại.
- Người này được tự do, dù ông ta có trở nên thế nào đi nữa! - Chàng cất cao giọng đọc.
- Ngài đã viết, ngài đã ký.
- Lạ thật! - Gonzague nói.
- Một khi có sự lừa đảo..., - Tresmes và Machault đế thêm.
Quan Nhiếp chính ra hiệu buộc họ im lặng.
- Các vị muốn rằng họ có lý khi bảo Philippe d’Orléans không giữ lời sao? - Ngài thốt lên. -Như đã được viết, như đã được ký, người này được tự do. ông ta có bốn mươi tám tiếng để ra khỏi biên giới.
Lagardère không nhúc nhích.
- Ngài nghe ta nói rồi đấy, - quan Nhiếp chính nghiêm khắc nói, - hãy đi đi!
Lagardère chậm rãi xé tấm giấy thông hành và vứt các mẩu vụn xuống chân quan Nhiếp chính.
Chàng chào quan Nhiếp chính, lấy tay gạt những kẻ vây quanh ra và nói:
- Tránh ra, ta có quyền đi.
Gonzague đã đi trước chàng, Gonzague đã biến mất.
Quan Nhiếp chính ngẫm nghĩ một lát, rồi ngài nói, tay áp lên trán:
- Các vị, đây quả là một chuyện lạ lùng!
- Một tên trơ tráo! - Trung sĩ cảnh sát Machault lẩm bẩm.
- Hoặc giả một dũng sĩ thời xa xưa, - quan Nhiếp chính nghĩ thành tiếng. - Chúng ta sẽ xem xét việc này vào ngày mai.
Lagardère một mình và không vũ khí bước xuống những bậc thang rộng của tòa nhà. ở dưới sảnh, chàng thấy tụ tập Peyrolles, Taranne, Mon-.taubert, Gironne... Ba quân hầu gác lối vào hành lang dẫn đến chỗ ở của bác Le Bréant. Gonzague đứng giữa sảnh, tay lăm lăm kiếm. Cổng lớn dẫn ra vườn đã được mở. Tất cả bốc mùi hiểm độc của một cuộc mai phục. Không những Lagardère không buồn để ý đến điều đó. Sự dũng cảm của chàng có nhược điểm của nó: chàng tưởng mình không thể bị thương tổn. Chàng tiến thẳng tới chỗ Gonzague, ông ta chĩa kiếm ra trước chàng.
- Đừng có quá vội thế, ngài Lagardère, - ông ta nói, - chúng ta có chuyện phải nói với nhau.
Tất cả các lối ra đều được khóa, và không ai nghe thấy chúng ta, trừ những người bạn trung thành này, chúng ta có thể nói chuyện thẳng thắn với nhau.
Ông ta cười mỉa mai cay độc và ác ý. La-gardè re dừng lại và khoanh hai tay trước ngực:
- Quan Nhiếp chính đã mở các cửa cho ngài, - Gonzague tiếp tục, - nhưng tôi thì đóng lại trước ngài! Cũng như quan Nhiếp chính, tôi là bạn của Nevers và tôi cũng có quyền trả thù cho cái chết của anh ấy. Đừng có gọi ta là đồ đê tiện, - ông ta cắt ngang, - chỉ vô ích thôi; chúng ta biết rằng những kẻ bị thua luôn luôn chửi rủa khi đánh bài. Ngài Lagardère, ngài có muốn tôi nói với ngài một điều sẽ làm cho lương tâm ngài được nhẹ nhõm không? Ngài tưởng rằng ngài đã nói dối, đã nói dối ra trò khi bảo rằng Aurore không...
Mặt Henri biến sắc.
- Thế mà, - Gonzague tiếp tục tận hưởng một cách độc ác thắng lợi của mình, - ngài chỉ gây ra một sự thiếu chính xác nhỏ, một chút sắc thái, một thứ không là gì! Giá như ngài nói không còn thay vì không, giá như ngài nói:
"Aurore không còn thuộc về tôi..." Rồi ông ta nói tiếp, vẫn với giọng chế giễu:
- Trời ơi, phải, chúng tôi đã thắng được một ván bài đẹp. Aurore thuộc về chúng tôi...
- Aurore! - Lagardère thét lên bằng một giọng tắc nghẹn.
- Aurore và một số giấy tờ...
Nghe đến đây, Lagardère run lên và xông tới Gonzague, quật ông ta ngã vật ra đằng sau. Bằng một cú nhảy, Lagardère vọt qua người ông ta và biến vào trong vườn. Gonzague mỉm cười đứng dậy.
- Không có lối thoát chứ? - ông ta hỏi Pey-rolles đang đứng ngoài ngưỡng cửa..- Không có lối thoát.
- Dưới đấy bọn chúng có bao nhiêu người?
- Năm, - Peyrolles trả lời, dỏng tai lên nghe.
- Được, thế là đủ; hắn ta không có kiếm.
Cả hai đi ra ngoài để nghe cho gần hơn.
- Sao chúng nó chậm thế nhỉ? - Gonzague lẩm bẩm.
- Ngài cảm thấy lâu đấy thôi, - Peyrolles nói.
- Bọn chúng ở dưới kia, phía sau lều.
- Ngươi giữ cô gái ở đâu? - Cocardasse hỏi, như thể ông ta muốn nói chuyện để giấu nỗi bồn chồn.
- Phố Chantre, cổng vào cùng một ngôi nhà.
- Cô ta được bảo vệ tốt chứ?
- Hai tay kiếm rắn mặt nhưng đã đánh bài chuồn khi chúng tôi nói cho chúng biết rằng Lagardère bị đả thương.
- Ngươi không nhìn thấy mặt chúng à?
- Không, bọn chúng đeo mặt nạ kín mít.
- Thế còn các giấy tờ, chúng ở đâu?
Peyrolles không kịp trả lời: một tiếng kêu hấp hối phát ra từ phía sau căn lều theo lối của thổ dân da đỏ, bên cạnh chái phòng của bác Le Bréant. Tóc Gonzague dựng ngược lên.
- Có thể đây là một tên trong bọn ta, - Pey-rolles thì thào, toàn thân run bắn.
- Không, - hoàng thân nói, - ta đã nhận ra giọng hắn.
Đúng lúc ấy, năm bóng đen chặn viên trường Diane.
- Ai chỉ huy? - Gonzague hỏi.
- Gendry, - Peyrolles đáp.
Gendry là một gã hộ pháp, từng làm cai lính gác.
- Được đấy, - gã nói. - Một chiếc cáng và hai người: chúng ta sắp loại được hắn.
- Oriol! - Gonzague gọi, - Montaubert!
Cả hai chạy lại.
- Các anh sẽ khiêng cáng, - Gonzague bảo chúng.
Oriol bạc nhược, Montaubert bất mãn nhấc cáng lên, Gendry dẫn chúng đi sâu vào các bụi cây.
- Hắn vẫn còn nóng, đi nào!
Oriol và Montaubert cất bước. Chúng đi tới tòa nhà cùng với gánh nặng mang theo.
Có điều gì đó khiến chúng rất lo sợ. Khi đi ngang qua trước chái phòng dân dã của bác Le.Bréant, chúng đã nghe thấy tiếng lá khô loạt soạt.
Chúng tin chắc rằng những bước chân ngắn và mau lẹ đã bám theo chúng từ lúc đó. Quả thật, gã gù đã theo sát gót chúng khi chúng leo lên bậc thềm. Gã gù trông tái nhợt và dường như phải khó khăn lắm mới đứng vững được. Tuy nhiên gã vẫn giữ nguyên tiếng cười the thé chói tai. Không có Gonzague, mọi người chẳng coi hắn ra gì. Gã nói với Gonzague bấy giờ chẳng hề để ý đến việc giọng gã lạc hẳn đi:
- Thế nào, thế nào, ông ta đến rồi chứ?
Tay gã giật giật chỉ vào cái thây mà Gendry vừa ném một chiếc áo choàng lên. Gonzague vỗ lên vai gã. Gã gù lảo đảo và suýt chút nữa thì ngã quỵ.
Tất cả đi vào hành lang. Ngài de Gonzague trở về dinh thự cùng với Peyrolles. Oriol, Mon-taubert và Gendry có nhiệm vụ mang cái xác ra sông Seine. Bọn chúng đi theo phố Pierre-Lescot.
Đến nơi, chúng tưởng muốn tắt thở. Trả cho mỗi tên một đồng pixton, viên cựu đội trưởng lính gác cho phép chúng đặt cái thây lên một đống gạch vỡ. Hắn nhấc chiếc áo choàng lên, mọi người mang cáng vất ra một chỗ xa hơn rồi đi ngủ.
Đó là lý do vì sao, sáng hôm sau, ngài nam tước de Barbanchois, chẳng hề hay biết chuyện gì đã xảy ra, thức dậy giữa đường phố Pierre-Le-scot nhớp nhúa, trong một tình trạng mà chúng tôi không cần phải tả. ông ta chính là cái xác mà Oriol và Montaubert đã khiêng trên cáng.
Gã gù ra cuối cùng, theo lối cổng nhỏ của bác Le Bréant.
Từ góc cung điện đến chỗ ở của ngài de Lagardère trên phố Chantre chỉ cách có mươi bước. Gã bò bằng cả chân và tay lên thang gác dẫn đến phòng của kiếm sư Louis. Khi đi qua, gã thấy cửa mở ra đường đã bị phá và mở toang.
Cửa căn nhà của kiếm sư Louis mở toang và cũng bị phá. Gã gù vào phòng đầu tiên. Cửa căn phòng thứ hai, nơi không ai được phép vào, bị hất vào bên trong. Gã gù đứng dựa vào khung cửa, họng gã thở hắt ra. Gã khuỵu gối và cứ thế bò tới chiếc rương đã từng đựng một cái gói được niêm phong bằng ba dấu xi lớn. Chiếc rương bị phá vỡ bằng rìu; cái gói đã biến mất. Gã gù nằm dài ra trên sàn như một tội nhân khốn khổ đang chờ đòn trí mạng.
Chuông nhà thờ điện Louvre điểm năm giờ sáng. Những ánh ban mai đầu tiên ló rạng. Chậm.chạp, hết sức chậm chạp, gã gù chống tay đứng dậy. Gã đã cởi được hàng khuy bộ đồ len đen, và lôi ra một chiếc áo chẽn bằng xa tanh trắng thấm đẫm máu. Có thể đoán rằng chiếc áo chẽn bóng bẩy ấy đã được vò nhàu để bịt một vết thương rộng.
Rên rỉ và xuýt xoa, gã gù lần tới bên một chiếc thùng và tìm được khăn và ít nước. ít ra thì gã cũng có thứ để lau vết thương, máu đã thấm đẫm chiếc áo chẽn.
Chiếc áo chẽn là của Lagardère, nhưng vết thương thì rỉ máu trên vai gã gù. Gã gắng sức băng vết thương và uống một ngụm nước. Rồi gã ngồi xụp xuống, cảm thấy dễ chịu hơn đôi chút.
- Thế đấy! - Gã thì thầm, - trơ trọi! Bọn chúng đã lấy của ta tất cả: vũ khí và trái tim.
Gã nặng nề gục đầu giữa hai tay. Rồi gã đứng thẳng người lên chỉ để nói:
- Chúa ơi, xin hãy ở bên con! Con chỉ có hai mươi tư giờ để bắt đầu lại nhiệm vụ của mình suốt mười tám năm qua.