Hiệp Sĩ Sainte Hermine

Chương 65

Trận đấu bước vào hồi kết. Hàng trăm tên cướp biển tấn công tàu Slúp chỉ còn chưa đấy chục tên sống sót và phần lớn đều bị thương, chúng kết thúc bằng việc giết lẫn nhau và biển hoàn tất nốt công việc của nó.

- Giương tất cả buồm lên, - Kernoch hô to - hướng mũi tàu về phía bắc.

Cánh buồm ngoan ngoãn hứng gió rồi lao đi theo hướng đã định. Vài người còn sống lềnh bềnh trên mặt biển, bám vào những mảnh vụn của thuyền Mã Lai. Vài kẻ khác đánh lẫn nhau mà không còn sức để bơi đến thanh gỗ dài, những kẻ khác nữa thì biến mất do cá mập kéo xuống đáy biển sâu. Đoàn người của René chỉ còn cách bờ họ phải đến khoảng hơn hai trăm dặm nữa.

 

Kernoch đã có một ngày vẻ vang. Nhờ sáng tạo của ông ta mà chiếc thuyền Mã Lai đã bị hạ, toàn bộ quân cướp trên tàu bị rớt xuống biển. Ai mà biết được nếu hơn sau mươi tên đó có thể lên tàu thì chiếc tàu Slúp của René sẽ ra sao.

 

René đến cạnh hai cô gái đang ngồi trên chiếc cầu thang nhỏ dẫn lên khoang thượng. Tóc bay phất phơ trong gió, chiếc áo sơ mi rách bươm bởi những đường dao, tay cầm cây giáo đẫm máu, nhìn anh đẹp như tráng sĩ trong trường ca Homère. Vừa nhìn thấy anh, Jane sung sướng reo lên, tiếng kêu ấy pha lẫn cả lòng ngưỡng mộ nữa. Cô giang tay về phía anh nói:

- Lần thứ hai, anh lại là người cứu chúng tôi!

René cầm tay cô và đưa lên môi. Hélène ngước mắt nhìn anh bày tỏ lòng biết ơn vì đã bảo vệ em mình.

- Lòng biết ơn của tôi - Hélène nói - với anh, tuy không vồn vã bằng tình cảm của Jane nhưng không phải thế mà không lớn lao, xin anh hiểu cho. Chúa đã trở thành người tốt trong nỗi đau. Người dành cho chúng tôi. Người lấy đi một người cha của chúng tôi nhưng lại cho chúng tôi một người anh, một người bảo vệ, một người bạn, tôi biết nói sao đây để bày tỏ lòng biết ơn vô hạn của chúng tôi. Chúng tôi sẽ ra sao khi không có anh?

- Một người khác sẽ thay thế cho tôi - René nói - Chúa không thể không gửi người giúp đỡ các cô. Không có tôi, một thiên thần sẽ xuống mặt đất để bảo vệ các cô.

Trong khi đó, François đã thu lượm tất cả vũ khí của René mang đến cho anh.

- Cho tất cả những thứ đó vào phòng của tôi đi François - René nói - thật may là lúc phải dùng đến những vũ khí giết người này cũng đã qua.

- Thưa ngài, - Chàng trai Paris nói - ngài đừng coi thường chúng thế. Hai tên khốn kia, - François chỉ vào hai tên Mã Lai đã nhảy vào phòng tấn công hai chị em Hélène - chúng cũng không phải những tên vừa đâu.

- Nhanh lên các bạn - René nói với các thủy thủ đang lau boong - Hãy làm nhanh tay lên và đừng để sót giọt máu nào trên boong này. Thuyền trưởng Kernoch cho phép tôi thưởng các bạn ba chai arack uống vì sức khoẻ các quý cô đây và trả gấp đôi thù lao hôm nay. Thôi các quý cô, chúng ta hãy về phòng đã, để mấy người thợ sửa sang lại đã. Có lẽ các cô nên nán lại bên mạn hoặc vào phòng tôi cho đến khi các vị có thể về phòng.

- Vậy chúng ta lên khoang thượng - Hélène nói.

Cả ba cùng lên khoang thượng ngồi nghỉ, mắt hướng ra biển.

Kiệt tác của Chúa luôn an ủi những việc làm của con người. Cả ba đều bất giác nhìn lại phía chiến trường khuất dần.

- Khi nghĩ lại - René nói và vỗ tay lên trán - ai mà ngờ được chỗ ấy cách đây không lâu lại có những con người xâu xé nhau bằng dao găm lưỡi lê, và với tên cuối cùng suýt nữa tôi mất mạng.

Hélène thở dài lại ngồi cùng Jane và René trên một chiếc ghế.

- Cô không có bà con nào ở Pháp? - René hỏi - Vậy tôi có thể chuyển tin tức của các cô cho ai khi tôi trở về đó và nhờ ai bảo vệ các cô?

- Chuyện về gia đình tôi là một câu chuyện dài và rất buồn. Cái chết đến thật đột ngột. Bác tôi qua đời sau khi chồng bà mất. Tiếp đến là ba đứa con trai, người đầu bị xử bắn, người thứ hai bị xử trảm trong hoàn cảnh cực kỳ đáng sợ. Còn người con thứ ba thì biến mất một cách đầy bí hiểm khiến cha tôi mất rất nhiều công sức để đi tìm nhưng vẫn không thấy.

- Thế các cô chưa từng gặp chàng trai ấy à? - René hỏi.

- Có chứ. Tôi còn hình dung ra anh ấy nữa kia, khi chúng tôi còn nhỏ. Anh ấy từng làm việc cho cha tôi hồi ông ấy làm thuyền trưởng. Đó là một cậu bé rất đáng yêu khi mặc bộ đồ thủy thủy tí hon con dao đeo bên cạnh và chiếc mũ hải quân trên đầu. Hồi ấy anh ấy chỉ mười hai mười ba còn tôi lên sáu hay bảy tuổi. Em gái tôi nhỏ hơn nên không nhớ. Cha tôi thậm chí đã muốn gắn bỏ hai gia đình lại hơn nữa vì chúng tôi bị mất liên lạc khá lâu. Tôi còn nhớ hồi bé, chúng tôi không chỉ gọi nhau là anh yêu quý, em gái yêu quý mà còn gọi là chồng yêu quý của em, vợ yêu quý của anh nữa cơ. Đó là những ký ức trẻ con xa xưa mà đáng lẽ phải quên khi mà nhớ lại chẳng được gì. Nhưng khi được tin bất hạnh đến với anh ấy, chúng tôi tìm đủ mọi cách nhưng anh ấy vẫn bặt vô âm tín và cha tôi coi anh ấy như một đứa con tội nghiệp bị mất tích. Rồi đến thảm hoạ khi tướng Cadoudal, Pichegru và công tước Enghien chết, cha tôi chán cảnh nước Pháp quyết định chỉ chăm lo đến mảnh đất xa xôi tận cùng trái đất. Tại London, chúng tôi có quen ông James Asplay, ông ấy cũng sống ở Ấn Độ từ bảy, tám năm và đang đóng quân ở Calcutta. Ông ấy trở thành hàng xồm của chúng tôi. Ông ấy đã nghiên cứu đạo Hindu và biết có thể thu lợi được gì. Ông ấy là tay săn giỏi. Ông ấy mơ được có một xứ sở cho mình với chu vi khoảng 60 dặm. Tôi chỉ như Hamlet, ít tham vọng, xứ của tôi dù chỉ nhỏ bằng cái bánh tôi cũng hạnh phúc rồi miễn là em tôi cũng được sung sướng.

Hélène nghiêng đầu về phía em và choàng tay ôm lấy Jane rất dịu dàng.

 

René lắng nghe lời kể ấy rất chăm chú, thỉnh thoảng từ lồng ngực anh lại nén tiếng thở dài như thể chính anh cũng có vài kỷ niệm gắn với những kỷ niệm của các cô gái.

 

Rồi anh đứng dậy đi vài vòng ngang dọc trên khoang thượng rồi lại ngồi xuống cạnh hai cô gái lẩm bẩm hát một đoạn bài hát của Chateaubriand rất mốt vào thời đó:

 

Tôi có kỷ niệm dịu dàng rất đỗi

Từ chốn ấu thơ sáng đẹp ngời ngời

Ôi những ngày vàng son chị hỡi

Trên đất Pháp

Ôi đất nước tôi, là tình yêu của tôi

Mãi muôn đời

 

Mỗi người lại chìm vào im lặng theo dòng suy tư của mình và có Chúa mới biết sự im lặng ấy sẽ kéo dài bao lâu nếu François không đến báo bữa trưa đã sẵn sàng. Vì trong lúc giao chiến, phòng ăn bị tổn thất khá nhiều nên lần này họ ăn trong phòng của René.

 

Chưa bao giờ hai tiểu thư Sainte-Hermine đặt chân vào càn phòng này. Họ ngạc nhiên khi thấy dáng vẻ nghệ thuật của nó.

Như một nhà hoạ sĩ tài hoa, René đã phải vẽ tất cả những cảnh đẹp, những hình ảnh đáng nhớ mà anh thích thú. Giữa những bức hoạ ấy là một sưu tập những chiến lợi phẩm quý giá nhất. Đối diện với các chiến lợi phẩm là một số nhạc cụ. Hai chị em vốn là những nhạc sĩ, tò mò lại gần. Trong số các nhạc cụ ấy có một cây đàn ghi ta mà Jane rất thích chơi. Hélène cũng rất giỏi dương cầm nhưng từ khi cha cô qua đời ngay cả ý định lại gần cây đàn cô cũng không dám dù trong phòng hai chị em cũng có một cây đàn.

 

Một mối liên hệ mới lại giúp họ thêm gần gũi với nhau hơn, đó là âm nhạc. Trong phòng René có đàn dương cầm nhưng anh có cách chơi rất khác không bao giờ anh dạo những khúc vui tươi ồn ã của các tác giả bậc thầy đương đại mà chỉ chơi vài đoạn nhẹ êm dịu, du dương buồn bã hợp với tâm trạng của anh như Một cơn sốt nóng của Gretry, hay Suy nghĩ cuối cùng của Weber. Thông thường ây đàn chỉ là một vật vọng lại những kỷ niệm xa ngái lạ lẫm với tất cả mọi người trừ anh chính vì thế mà bàn tay anh hoà quyện thật nhịp nhàng với âm điệu đến mức không phải chỉ để cất lên những âm thanh mà nó còn như một thứ ngôn ngữ nữa.

Buổi tối, các cô gái thường nghe thấy tiếng nhạc xuất phát từ phòng của René, một thứ âm nhạc run rẩy hài hoà như tiếng sột soạt của gió trong các sợi dây căng hay sự tụ hội của những âm thanh trong đêm tối mà các du khách cổ đại dành cho những lời thánh ca trên biển. Chưa bao giờ các cô lại được thưởng thức những tiếng thở than của sóng biển với nỗi buồn bất tận vang lên từ tay một người đàn ông và những phím dương cầm lạnh lùng.

Nhưng sau bữa trưa, để không phải lên boong dưới những tia nắng hừng hực của mặt trời xích đạo, họ ở lại trong phòng René.

Thế là anh chỉ cho hai cô gái cây dương cầm và các nhạc cụ treo trên tường. Song thấy mắt hai thiếu nữ đang ngấn lệ, anh nghĩ đến thi thể của cha họ, đến cuộc hành trình anh đi cùng họ vào một xứ sở lạ lẫm đầy nguy hiểm. Thế là trên cây đàn, những ngón tay của chàng trai đánh thức dậy tâm trạng man mác mà Vienne Weber mới sáng tác. Bản nhạc này như một bài thơ buồn của André Chéner và Miuevoye vừa mới xuất hiện và bắt đầu nổi tiếng trên những miền đất mới bị các cuộc cách mạng các cuộc chiến tranh xô đẩy, gây ra bao nhiêu điều phải rơi lệ. Dù không muốn nhưng anh vẫn bị tình cảm cuốn đi khúc nhạc toả ra trên những ngón tay anh và rút gọn trong những hợp âm đơn giản khiến nó chỉ càng thêm thống thiết.

Khúc nhạc buồn của Weber kết thúc, theo bản năng, những ngón tay của René vẫn trải rộng trên phím đàn và những hồi ức của tác giả như bày ra trước mặt anh. Đó là trong những lúc bất ngờ không thể cắt nghĩa nổi, tâm hồn của chàng trai trẻ bùng phát hoàn toàn. Những ai cô khả năng đọc trong âm nhạc như trong một cuốn sách sẽ thấy qua một áng mây mờ, một thung lũng đẹp, một đồng bằng trù phú sẽ sinh ra, thế giới cô tịch nơi những dòng suối thay những thì thầm lại rền rĩ rền rĩ, những bông hoa thay vì toả hương lại khóc thút tha. Thứ âm nhạc này thật mới và lạ đến độ các cô không nhận ra những giọt nước mắt vẫn lặng lẽ chảy trên má họ. Khi các ngón tay của René đã dừng lại thì Jane đứng dậy đến quỳ trước Hélène nói:

- Chị ơi một khúc nhạc êm dịu và thành kính như một lời cầu nguyện.

Hélène chỉ đáp lại bằng tiếng thở dài và ôm chặt em vào lòng. Rõ ràng từ vài ngày qua, hai thiếu nữ đang sống trong một cuộc sống mới và những ấn tượng hoàn toàn khác mà chính các cô cũng nhận ra.

Một buổi sáng, thủ gác thông báo: "Đất liền!" Theo tính toán của René, nơi này hẳn là đất Miến Điện. Anh tính lại một lần nữa và khẳng định niềm tin ấy.

Kernoch nhìn anh tính toán mà không hiểu gì cả. Anh ta tự hỏi làm sao một người chưa từng đi đến đây như René lại có thể thực hiện một công việc mà chính anh ta không bao giờ có thể hiểu nổi.

Họ hướng mũi tàu về cửa sông Pégou. Bờ biển thấp đến mức chúng bị lẫn vào nhưng con sóng biển.

Khi nghe tiếng kêu "Đất liền", hai chị em chạy vội lên boong. Các cô gái gặp René trên đó tay cầm ống nhòm. Anh đưa nó cho hai cô xem nhưng tầm nhìn của họ chưa quen với chân biển nên ban đầu không thấy gì cả. Tuy thế, khi tiến lại gần bờ hơn họ cũng thấy hiện ra những đỉnh núi, như những hòn đảo.

Con tàu treo chiếc cờ mới lên cột buồm lớn, bắn mười hai phát đại bác và nhận được tiếng đại bác từ cảng, đáp lại. Sau đó Kernoch báo hiệu mình cần một hoa tiêu. Lát sau người ta thấy một chiếc tàu nhỏ đi ra từ sông Rangoon mang theo người mà Kernoch yêu cầu. Anh ta lên tàu và khi được hỏi nói tiếng gì anh ta đáp mình không phải là người Pégou hay Malacca mà là người Junchseylon. Để tránh bị làm phu cho vua Xiêm, anh ta trốn ở Rangoon và làm nghề hoa tiêu. Anh ta nói được một chút tiếng Anh và Réne có thể trực tiếp xen vào. René hỏi liệu sông Pégou có thể cho tàu của anh chạy vào được hay không khi nó có độ mớm nước từ chín đến mười bộ.

Người hoa tiêu tên là Baca đáp họ có thể ngược con sông khoảng hai mươi dặm, tức là đến tận một vùng đất thuộc về một Đức ông người Pháp. Vùng này có tên gọi là Pangoon House, chỉ có vài ngôi nhà lụp xụp. Không nghi ngờ gì nữa, đó là đất của tử tước Sainte-Hermine.

Dù con tàu nhỏ mang quốc tịch Mỹ nhưng vẫn bị kiểm tra rất gắt gao. Nó hầu như không giống với những con tàu buôn hay qua lại nơi này và phải mất ba lần xem xét, con tàu mới được phép đi vào trong sông.

Trong ngày, họ cũng đến được đất Rangoon, qua sông Rangoon, họ sẽ sang một nhánh Irrawaddy để vào sông Pégou.

Họ dừng lại ở Siriam, thành phố đầu tiên họ gặp ven sông để mua thực phẩm tươi. Ở đây, người ta có thể thấy gà, chim bồ câu, hải sản rau và cá. Nếu tiếp tục có gió nam, con tàu nhỏ có thể ngược lên tận sông Pégou trong hai ngày, còn nếu gió đổi hướng ngược lại thì họ sẽ phải nhờ tàu kéo lên sông Pégou. Điều này sẽ mất gấp đôi thời gian đi bằng buồm.

Không một người nào có ý định dừng lại để thăm thú thành Rangoon nghèo nàn dù trước đây nó từng là kinh thành, từng có một trăm ngàn dân. Ngày nay nó chỉ còn bảy nghìn, kỳ quan sót lại chỉ còn đền Gautama theo tiếng địa phương người ta gọi là Schuredagon có nghĩa là Điện vàng.

Sông Pégou rộng gần một dặm, nhưng rừng già ngày càng bồi ra khiến khiến nó không rộng hơn sông Seine đoạn từ điện Louvre đến Viện chính. Người ta cảm giác rất rõ tất cả phần không nhìn thấy của cánh rừng rậm, cao khoảng mười đến mười hai bộ - tức là đạt đến độ cao của khoang thượng, đều ẩn chứa đủ loại dã thú. Từ xà buồm, người ta có thể thấy đầu kia của cánh rừng và hai bên tả ngạn và hữu ngạn đều có cánh đồng một đầu trải dài đến ven sa mạc Sittang, đầu nữa đến tận vùng khác của các thành trì trù phú

René hiểu rất rõ việc đi trên con sông bị che phủ như vậy không phải không có nguy hiểm. Anh quyết định đích thân mình sẽ gác trên boong và mang theo súng trường và khẩu cạc bin hai viên. Đêm xuống, hai thiếu nữ lên ngồi cùng anh trên khoang thượng tò mò muốn biết trong chốn tịch mịch ấy tiếng kèn liệu đi săn sẽ có hiệu ứng gì. René cho mang chiếc tù và của mình đến nịnh thoảng, họ lại nghe thấy những tiếng động dữ dội trong rừng rậm, chắc chắn đang có cuộc hỗn chiến long trời lở đất của những cư dân trong rừng. Nhưng cư dân ấy là ai? Có thể là những con hổ, những con cá sấu, hay những con trăn khổng lồ đang quấn chặt một con bò để rồi nuốt chửng.

Có cái gì đó vừa kinh hãi vừa trịnh trọng trong sự im lặng bị quấy rầy ấy. Từ giờ khắc này sang giờ khắc khác, do những tiếng rú gào như thể sinh ra không phải dành cho tai người nghe nên rất nhiều lần hai thiếu nữ giang tay ngăn René đưa chiếc tù và lên miệng. Đột nhiên tiếng kèn hiệu vàng lên, rền rĩ, rung động và khiêu khích người ta nghe nó như một thứ gì đó vượt qua ngọn rừng già, lan toả, yếu dần rồi biến mất trong những miền hoang vắng mà ngay Chúa lẫn con người còn chưa đạt tên. Sau những âm thanh lạ lẫm, tất cả đều câm bặt quanh họ. Người ta tưởng như dám thú hoang dã im lặng để nhận định tiếng động lạ và mới ấy.

Gió thuận chiều và họ giọng buồn không cần thuyền kéo. Đột nhiên, thủy thủ gác kêu to:" Có thuyền phía trước"

Ở chốn này, cái gì cũng đều nguy hiểm. René trấn an hai cô gái, xách súng, tiến lên lan can khoang thượng để tận mắt xem chuyện gì. Hai cô gái đứng dậy sẵn sàng trở về phòng mình khi René ra hiệu. Đêm hôm ấy trời không tối, trăng tròn chiếu sáng hình thù giống một chiếc thuyền phía trước.

Vật đó có vẻ đi thẳng. Càng lại gần hình dạng của nó càng rõ và René nhận ra đó là một thân cây đang trôi. Nhận thấy không có gì đáng sợ từ cái vật ấy, anh gọi hai cô gái lại gần ban công khoang thượng. Khi thân cây cách con tàu khoảng hai chục bước thì René nhận ra có hai luồng sáng như hai hòn than chiếu đến.

Anh chưa thấy báo gấm bao giờ nhưng anh dễ nhận ra một con vật như thế đang đến gần. Chắc là nó đang nấp trên cây nào đó thì các cây bị cơn gió mạnh làm bật rễ đẩy nó xuống sông. Ban đầu sợ quá nó đành bám vào đó, khi bị nước đẩy đi, nó không biết làm sao để lên bờ.

- Hélène, cô muốn có một tấm thảm bằng lông thú không? - René vừa nói vừa chỉ vào con vật.

- Con thú cũng bắt đầu nhận ra các hành khách, nó dựng đứng lông, nhe nanh gầm gừ đe doạ dữ dằn.

René đưa súng lên vai nhưng Hélène đã ngăn anh lại.

- Đừng giết nó, tội nghiệp con vật.

Phụ nữ bao giờ cũng có những cử chỉ độ lượng.

- Vấn đề là - René thì thầm - đó là một kẻ sát nhân.

Cái cây và con tàu va vào nhau, người ta nghe rõ tiếng cành cây chạm vào mạn tàu đột nhiên tiếng người lái tàu hét lên khiếp đảm.

- Nằm xuống! - René ra lệnh vừa dõng dạc vừa thúc bách.

Khẩu súng trên vai anh được hạ ngay xuống tay trái và viên đạn lao đi rồi viên thứ hai cũng phát nổ cách đó chỉ một giây.

Hai chị em ôm chặt lấy nhau vì họ đã đoán được chuyện gì vừa xảy ra. Con báo bị đói trong những ngày buộc phải ở trên thân cây đã lùi lại, lấy đà và nhảy lên thành tàu. Nghe thấy tiếng động, người lái tàu quay lại và thấy con vật đang bám trên thành tàu và chỉ một cú nhảy là tới chỗ ông ta. Vậy là ông ta hét lên hoảng hốt thu hút sự chú ý của René. Anh đã ban hai phát đạn vào con vật.

Chỉ một cú chảy, René đã cầm tiếp khẩu súng thứ hai, chạy đến giữa vị trí con báo và người lấy tàu những nó đã chết, một viên đạn đã găm giữa ngực nó.