Hậu Cung Chân Hoàn Truyện

Quyển 7 - Chương 25: Hoa tàn người vắng ai mà biết ai[27]

[27]

Trích Táng hoa từ, Tào Tuyết Cần. Dịch thơ: nhóm Vũ Bội Hoàng. Nguyên văn Hán

Việt: Hoa lạc nhân vong lưỡng bất tri - ND.

Màn đêm tựa nỗi u buồn không ngớt dâng lên

nơi đáy lòng tôi lúc này, hết sức lạnh lẽo và hiu quạnh.

Chợt Lý Trường vội vã chạy từ xa tới, cười

trừ, nói: “Rốt cuộc nô tài cũng tìm được nương nương và công tử rồi, Hoàng

thượng nói là muốn dùng bữa tối với hai vị đấy!”

Tôi khẽ gật đầu. “Phiền công công đi báo

lại một tiếng rằng bản cung thay xiêm y xong sẽ lập tức cùng huynh trưởng qua

bên đó ngay.”

Lý Trường ngẩng đầu nhìn tôi, dè dặt nói:

“Ly Phi đột nhiên qua đời, vậy...”

Tôi đưa mắt nhìn những áng mây phiêu đãng

giữa bầu trời đêm mông lung, mờ mịt, trầm giọng nói: “Công công cũng đã nói là

đột nhiên rồi cơ mà. Chuyện lần này là tự bản thân cô ta nghĩ quẩn đấy thôi,

hoàn toàn không liên quan tới người khác.”

“Nương nương nói rất phải.” Lý Trường lén

đưa mắt liếc qua phía ca ca, tôi biết ý của y, bèn nói: “Gia huynh suốt cả buổi

chiều đều ở trong cung của bản cung, chưa từng tới nơi nào khác, ắt không có

tin đồn bậy bạ nào truyền ra ngoài đâu, công công cứ yên tâm.”

Lý Trường khẽ mỉm cười. “Dạ phải, xét cho

cùng đều là tại đám người hầu hạ Ly Phi không cẩn thận đó thôi.”

“Ừm.” Tôi đưa mắt liếc y. “Công công hẳn đã

biết rõ nên bẩm báo thế nào với Thái hậu rồi.” Lý Trường khom người rời đi, tôi

quay sang nói với ca ca: “Ca ca hãy quay về rửa mặt đi đã.”

Ca ca thoáng lộ vẻ uể oải, hờ hững nói: “Ta

thấy hơi mệt rồi!”

Tôi khẽ kéo tay áo ca ca, nhẹ nhàng cất

tiếng: “Nếu không đi thì tức là còn mang lòng oán hận. Tâm tư của y rất khó

đoán, ca ca nhất định phải cẩn thận mới được.”

Níu tay áo nhau trò chuyện thế này vốn là

cử chỉ thân mật giữa hai huynh muội chúng tôi hồi còn ở nhà, y không kìm được

khẽ nở một nụ cười mỉm, thở dài than: “Hoàng thượng từng hoài nghi ta như thế,

bây giờ gặp mặt thực là có chút khó xử.”

Tôi khẽ cười, nói: “Ca ca, làm người không

chỉ cần xem kịch, còn phải biết diễn kịch nữa mới được. Huynh thử nghĩ mà xem,

ngay đến Hoàng thượng còn có thể tỏ ra thản nhiên như thế, tại sao huynh lại

không thể? Làm bạn với vua như chơi với hổ, ơn vua vô thường, chẳng có ai đắc

thế vĩnh viễn, cũng chẳng có ai thất thế vĩnh viễn, điều quan trọng là huynh có

còn giá trị lợi dụng hay không. Hiểu được điều này rồi thì huynh sẽ chẳng còn

muốn để tâm xem ơn vua là thật tình hay là giả bộ nữa.”

Ca ca chăm chú nhìn tôi một lát, cất giọng

xót xa: “Hoàn Nhi, hình như muội đang nói tới chính bản thân mình.”

“Tất cả mọi người trong thiên hạ đều chỉ là

thần tử của y, nói tới ai mà không giống nhau đây? Ca ca bất tất phải nghĩ

nhiều làm gì.” Tôi giúp y chỉnh lại cây trâm bạch ngọc cài trên búi tóc, dịu

giọng nói: “Chúng ta đi thôi!”

Tôi cố tình ăn mặc thật đơn giản, không đeo

bất cứ món đồ trang sức hoa lệ nào, sau đó một tay dắt Lung Nguyệt, một tay bế

Linh Tê, cùng ca ca bế theo Dư Hàm đi tới chỗ Huyền Lăng. Chúng tôi vừa định

hành lễ thì Lung Nguyệt đã giãy ra khỏi tay tôi, chạy tới nhào vào lòng Huyền

Lăng cất giọng ngọt ngào: “Phụ hoàng.”

Huyền Lăng bế con bé lên, cười, nói: “Hôm

nay con ngoan lắm, lại biết tự đi theo mẫu phi cơ đấy, đã ra dáng một tỷ tỷ lắm

rồi.”

Lung Nguyệt chớp chớp cặp mắt tròn xoe. “Đó

là vì phụ hoàng thương Lung Nguyệt, Lung Nguyệt tất nhiên phải ngoan rồi.” Hơi

dừng một chút, con bé lại ngó quanh bốn phía. “Sao mẫu phi còn chưa tới thế?”

Lung Nguyệt lúc này đã có mấy phần khí thế của một công chúa, ngoảnh mặt qua

nói với Tiểu Hạ Tử: “Đức phi nương nương hãy còn chưa tới, Tiểu Hạ Tử, ngươi

mau đi mời đi!”

Tiểu Hạ Tử không biết phải trả lời ra sao,

đành nói: “Thục phi nương nương đã tới rồi.”

Lung Nguyệt trề môi làm bộ giận dữ, Huyền

Lăng vội cười, nói: “Hôm nay cữu cữu của con tới đây, chỗ ngồi thì lại không

đủ, Đức phi liền nói là nhường cho cữu cữu của con.”

Tôi đành khom người dỗ dành: “Đức mẫu phi

biết là con thích ăn bánh bao thịt cua nhất, đang sai người đi làm. Bánh bao

thịt cua khó làm lắm, cần phải trông coi cẩn thận mới được. Nếu bây giờ Đức mẫu

phi của con tới đây, nhỡ đám nô tài làm hỏng mất bánh bao thì biết phải làm thế

nào?”

Lung Nguyệt hơi chu miệng lên, nhưng rồi

lại nghĩ tới bánh bao thịt cua mà chỉ mùa thu mới được ăn, thế là đành im lặng

không nói gì. Sau phen náo loạn của Lung Nguyệt, nghi lễ quân thần tất nhiên đã

bị gạt bỏ, bầu không khí theo đó ấm áp hơn mấy phần. Huyền Lăng nhìn ca ca,

nói: “Chất Thành bây giờ đã khỏe lại rồi, nhưng dịp này trời nổi gió thu,

thường ngày vẫn cần chú ý giữ gìn mới được.”

“Chất Thành” là tên tự của ca ca, thường

ngày chỉ có những người gần gũi mới xưng hô như vậy. Nghe giọng Huyền Lăng hiển

nhiên là thân mật vô cùng, cũng không để ý tới lễ nghĩa quân thần. Ca ca nghe vậy

liền khom người nói: “Đa tạ Hoàng thượng quan tâm.”

Tôi cười, nói: “Tứ lang suốt ngày chỉ biết

nói người khác thôi, bản thân thì chẳng chú ý tới thân thể gì cả.” Dứt lời liền

ngoảnh đầu gọi Hoa Nghi lại, chỉ tay vào một bát canh trên bàn, nói tiếp: “Biết

là Hoàng thượng tối nay nhất định sẽ kêu Ngự thiện phòng làm canh gạch cua, mà

cua vốn tính mát, do đó thần thiếp đã bảo Hoa Nghi hâm nóng rượu vàng với cánh

hoa cúc, đợi lát nữa uống vừa hay có thể làm ấm dạ dày.”

Lung Nguyệt lập tức nói: “Cũng chuẩn bị cho

mẫu phi một phần nữa.”

Dư Hàm và Linh Tê đã dần hiểu chuyện, đang

lúc bi bô tập nói, Dư Hàm nghe Lung Nguyệt nói xong liền học theo tỷ tỷ: “Cũng

chuẩn bị cho phụ hoàng một phần nữa.”

Huyền Lăng vô cùng mừng rỡ, không kìm được

nở một nụ cười hiền từ rất mực, bế Dư Hàm lại thơm lấy thơm để, ca ca thì chỉ

mỉm cười ngồi nhìn. Huyền Lăng ngẩng đầu thấy y như vậy thì cười, nói: “Bây giờ

ngươi cứ cô độc một mình thế này cũng không hay, trong nhà chẳng có ai chủ trì

công việc, phụng dưỡng cha mẹ thật là không tiện chút nào. Thân thể dù sao cũng

khỏe lại rồi, ngươi nên nghĩ tới việc lập gia thất mới đi thôi.”

Nụ cười của ca ca trở nên cứng đờ, tôi biết

là y không kìm được nhớ tới tẩu tẩu và Trí Ninh. Tẩu tẩu chết thảm, An Ly Dung

lại vừa đột ngột qua đời, lúc này ca ca tất nhiên không có lòng dạ nào mà nghĩ

tới chuyện cưới hỏi, nhưng nếu như thoái thác thì rất có khả năng Huyền Lăng sẽ

nghi ngờ rằng ca ca vẫn còn ghi hận chuyện năm xưa. Tôi cười tủm tỉm, rót một

chén rượu đưa tới bên môi Huyền Lăng, nói: “Trách nhiệm của cữu cữu không nhỏ

chút nào đâu, nếu ca ca cưới vợ về rồi thì đâu còn thời gian nữa. Thần thiếp

vốn muốn ca ca đích thân dạy Hàm Nhi đọc sách, cưỡi ngựa, bắn cung, tứ lang thì

hay lắm, lại định để huynh ấy có cơ hội lười nhác.”

Huyền Lăng bật cười, nói: “Chất Thành, nhìn

muội muội của ngươi xem này, mồm mép càng lúc càng lợi hại hơn rồi.” Sau đó đưa

đũa gắp một miếng thịt luộc cho tôi. “Trẫm vốn cũng chỉ có ý tốt thôi, nếu nàng

không thích thì trẫm xin lỗi nàng là được chứ gì.” Cười đùa một phen xong,

Huyền Lăng không nhắc gì tới việc kia nữa. Dư Hàm tuy còn ít tuổi nhưng rất giữ

quy củ, trông rất đáng yêu, Lung Nguyệt thì nói cười như nhả ngọc, làm ai cũng

thích, bầu không khí thực là vui vẻ vô cùng. Tôi gọi Hoa Nghi lại dặn dò:

“Ngươi hãy về xem tứ điện hạ đã ngủ dậy chưa, nếu dậy rồi thì nhớ kêu Bình

Nương nấu cháo sữa bò cho điện hạ ăn.”

Hoa Nghi vâng lời rời đi. Sự bình lặng bất

ngờ bị những bước chân dồn dập của Lý Trường phá vỡ, y ghé đến bên cạnh Huyền

Lăng, nói khẽ: “Hoàng thượng, Ly Phi nương nương qua đời rồi.” Vừa nói, y vừa

lén liếc nhìn sắc mặt Huyền Lăng, ngay sau đó lập tức cúi đầu.

Huyền Lăng không kìm được rùng mình một

cái, đôi đũa bạc trong tay rung lên nhè nhẹ. Ca ca vội vàng đứng dậy, nói:

“Hoàng thượng xin hãy bớt đau thương.”

Huyền Lăng ngẩn ra, kế đó liền hờ hững nói:

“Chỉ là một tội nhân mà thôi, bớt đau thương gì chứ?”

Tôi làm bộ như vừa mới hay tin, cất tiếng

hỏi: “Chuyện xảy ra khi nào vậy?”

“Dạ, vào giờ Dậu một khắc, Ly Phi nương

nương nói là muốn ăn hạnh nhân, liền kêu người mang tới một ít. Kỳ thực lượng

hạnh nhân như thế hoàn toàn không thể gây ra chuyện gì, ai ngờ Ly Phi nương

nương đã tích trữ hạnh nhân từ nhiều ngày trước, đến hôm nay mới mang ra ăn.

Thái y sau khi kiểm tra đã nói là chết do trúng độc vì ăn quá nhiều hạnh nhân.”

Huyền Lăng thoáng lộ vẻ buồn bã, đặt mạnh

đôi đũa xuống bàn, trầm giọng nói: “Nhất định là cô ta đã hay tin An Bỉ Hòe bị

xử tử, do đó mới ôm lòng tìm đến cái chết. Trẫm đã rộng lượng tha mạng cho cô

ta rồi, thế mà cô ta còn không biết cảm kích ơn vua, có chết cũng không đáng

tiếc.”

Lý Trường vội vàng quỳ xuống, nói: “Đều tại

nô tài không cẩn thận nên mới để Ly Phi nương nương tự vẫn như thế.” Y hơi dừng

lại, cúi đầu lộ rõ vẻ tự trách. “Phi tần tự vẫn là việc chẳng lành, tất thảy

đều là lỗi của nô tài.”

Huyền Lăng nghe nhắc tới hai chữ “chẳng

lành” thì thoáng để lộ một tia chán ghét và buồn bã không dễ gì phát giác, đoạn

y xua tay một cái ra hiệu cho Lý Trường đứng dậy. “Nếu không vì có lòng tìm tới

cái chết từ sớm thì An thị đã chẳng tích trữ hạnh nhân như vậy rồi, chuyện này

không trách ngươi được.”

“An thị vốn đắc sủng nhiều năm, bây giờ lại

bị cấm túc trong Cảnh Xuân điện như vậy thì làm sao chịu nổi. Theo thần thiếp

thấy, cô ta tự vẫn chẳng phải vì phụ thân mình mà là vì tuyệt vọng đó thôi.” Tôi

nhìn Huyền Lăng chăm chú. “An thị tuy gây ra rất nhiều tội ác nhưng dù sao cũng

từng hầu hạ Hoàng thượng nhiều năm...”

Y cất giọng kiên quyết: “Trẫm sẽ không đi

thăm cô ta đâu.”

“Dạ!” Hơi dừng một chút, tôi lại nói tiếp:

“Kỳ thực dù Hoàng thượng không ban cho cô ta chút thể diện nào sau khi chết thì

cũng không sao, có điều nói gì thì nói, thể diện của hoàng gia vẫn là quan

trọng nhất, nếu tin Ly Phi vốn đắc sủng nhiều năm bỗng dưng tự vẫn truyền ra

ngoài thì chỉ e người ta sẽ cho rằng Hoàng thượng vì phụ thân cô ta mà trút

giận lên cô ta, như thế thì thực là không hay chút nào.”

Y trầm giọng hỏi: “Nàng không hận cô ta ư?”

Tôi nở một nụ cười điềm đạm, thản nhiên

nói: “Thần thiếp và An thị vào cung cùng năm, bấy lâu nay vẫn luôn giao hảo,

thực không ngờ An thị lại ám hại thần thiếp như vậy. Chính vì oán hận nên thần

thiếp mới không muốn đứng ra chủ trì tang lễ của cô ta, nhưng để chặn họng

người đời thì việc này không làm không được, do đó xin Hoàng thượng hãy mời

Hoàng hậu đứng ra an bài việc này.” Tôi hơi khom người hành lễ. “Mong Hoàng

thượng hãy đích thân đi dặn dò Hoàng hậu, vậy cũng coi như là tỏ chút lòng

thành cuối cùng với Ly Phi.”

Huyền Lăng thoáng trầm ngâm rồi nói: “Trẫm

rõ rồi.” Y đứng dậy, gọi Lý Trường lại: “Trẫm bỗng thấy hơi mệt, tới chỗ Vinh

Tần thôi.” Sau đó lại ngoảnh đầu dặn dò tôi: “Thục phi, nàng hãy ngồi với Chất

Thành trêm chút nữa, trẫm qua thăm Xích Thược.”

Tôi vội vàng đứng dậy tiễn y tới bên ngoài

nghi môn, giữa làn gió đêm se lạnh, chiếc áo bào màu xanh sẫm thêu hình chín

con rồng bằng chỉ vàng của y không ngừng bay lất phất. Y khẽ nắm lấy bàn tay

tôi, trầm giọng nói: “Vừa rồi khi trẫm đề nghị ca ca nàng lấy vợ, y hình như có

vẻ buồn bã không vui thì phải.”

Tôi không khỏi thầm ngạc nhiên về sự nhạy

bén của y đêm nay, bèn ôn tồn nói: “Tẩu tẩu là thê tử duy nhất của ca ca, lại

còn Trí Ninh nữa, nó còn nhỏ như vậy mà đã chết yểu cùng ngày với mẫu thân rồi,

ca ca rất xem trọng vợ con nên bấy lâu nay vẫn luôn thương tâm rất mực. Năm ấy

ca ca thần chí thất thường cũng là do việc này mà ra.”

“Trẫm cũng thương y mất vợ mất con, có điều

người còn sống dù gì cũng phải sống tiếp thôi.”

Tôi khẽ nói: “Dạ, Hoàng thượng nói rất

phải, có điều việc này dù sao cũng cần có thời gian xoa dịu mới được.”

Y gật đầu, nói: “Vậy được rồi, thời gian

cũng không còn sớm nữa, nàng nhớ tiễn ca ca nàng rời cung cho cẩn thận.” Y hơi

dừng một chút rồi dặn dò thêm: “Hãy nói với ca ca nàng, chuyện trước đây đã

trôi qua rồi, trẫm sẽ không để uổng phí tài năng của y đâu.”

Tôi khom người tiễn y rời đi, Cận Tịch bước

tới đỡ lấy tôi, ghé đến bên tai tôi, khẽ nói: “An thị là người Thái hậu ghét

bỏ, lẽ ra không cần Hoàng thượng hao tâm tổn sức như thế mới đúng.”

Tôi vuốt nhẹ mép áo một chút, hờ hững nói:

“Người Thái hậu ghét bỏ chưa chắc Hoàng thượng đã ghét bỏ, mà cho dù có ghét bỏ

thì cũng chưa chắc đã cạn tình. Lần này để cho y trọn tình trọn nghĩa, như thế

sau này ắt sẽ chẳng còn nghĩ tới những chỗ tốt của cô ta nữa.”

“Tình cảm đã cạn, sau này ắt sẽ không còn

mối hậu họa như Mộ Dung thị nữa, xem ra hôm nay nương nương quả đã phải hao tâm

tổn trí một phen.” Nàng ta lén đưa mắt nhìn tôi. “Lần này làm phiền tới Hoàng

hậu, chắc hẳn nương nương cũng đã có những ý đồ riêng rồi.”

Tôi trầm ngâm suốt một hồi lâu rồi mới nói:

“Lý Trường là một người rất có chủ kiến, y đã ôm lòng muốn dồn Ly Phi vào chỗ

chết từ lâu, mỗi lần đều đưa một ít hạnh nhân tới cho cô ta, thời gian lâu rồi

cô ta cũng sẽ trúng độc mà chết, thần không biết quỷ không hay.”

Cận Tịch hơi cụp mắt xuống. “Phen nhục nhã

do Ly Phi mang tới khi xưa, nô tỳ và Lý Trường suốt đời không quên.”

Tôi vỗ nhẹ mu bàn tay nàng ta tỏ ý thương

xót, thấp giọng nói: “Chuyện dù sao cũng qua rồi, kỳ thực cô ta sống như thế

còn chẳng bằng chết luôn đi cho gọn ghẽ.”

Ngoài sân có trồng mấy khóm “Vãn ngọc đinh

hương”, giống hoa này có thời gian nở hoa rất dài, thường phải vào thu mười mấy

ngày rồi mới bắt đầu có dấu hiệu lụi tàn. Lúc này trên nền gạch xanh rơi đầy

những cánh hoa đinh hương màu tím, khung cảnh xiết nỗi u buồn.

Người chết cũng giống hoa rơi, chỉ cần một

cơn gió thổi qua là chẳng còn tăm tích, tựa như chưa từng đến cõi đời này.

Hoàng hậu đã bị ghẻ lạnh một thời gian dài,

thế mà lần này lại được Huyền Lăng đích thân tới nhờ cậy chủ trì tang lễ, tất

nhiên không dám sơ suất chút nào. Nàng ta vì muốn cầu phúc cho hậu cung nên đã

cho đặt linh vị của Ly Phi tại Diên Niên điện và mời pháp sư tới khấn vái đủ

bảy bảy bốn mươi chín ngày, đồng thời bắt đầu an bài mọi việc trong tang lễ.

Lúc này đã là đầu đông, Hoa Nghi ôm một bó

hoa mai nở sớm về cắm vào bình, chậm rãi nói: “Phi tần tự vẫn là việc chẳng

lành, Hoàng hậu liền nói với bên ngoài là Ly Phi đột ngột qua đời để bưng bít.

Kỳ thực mọi người trong cung tuy ngoài miệng không nói gì nhưng ai mà chẳng

biết cô ta sợ tội tự sát. Xét cho cùng vẫn là An thị gặp may, được chôn cất với

tên thụy là Ly Âm Quý tần.”

“Ly Âm Quý tần?” Tôi cười phì một tiếng,

đưa tay khẽ vuốt ve chiếc nhẫn bạc trên ngón tay trắng ngần. “Chắc đây chính là

kiệt tác của Hoàng hậu rồi.”

“Dạ!” Hoa Nghi nhíu chặt đôi mày, cất giọng

nghi hoặc: “Hoàng thượng đã lâu lắm rồi không qua thăm Hoàng hậu, chẳng dễ dàng

gì mới nhờ cậy cô ta một việc thế này, ấy vậy mà cô ta lại không tự mình lo

liệu, các sự vụ đều giao cả cho Lưu An nhân và Tiễn Thu, chỉ nói là mình vẫn

chưa hết đau đầu. Cô ta chịu hao tâm tổn sức để nghĩ tên thụy cho An thị như

thế thật chẳng rõ là vì nguyên nhân gì nữa?”

“Có gì đâu mà phải nghĩ nhiều.” Tôi đưa tay

hái lấy một bông mai đỏ vừa hé nở, thoạt nhìn trên đầu ngón tay tựa như có một

bông hoa máu đỏ tươi. “Mọi người trong chốn hậu cung này dù có làm gì đi chăng nữa

thì xét cho cùng cũng đều là vì bản thân mà thôi.”

Hoa Nghi “dạ” một tiếng, lại nói tiếp: “Sau

khi được Hoàng thượng ghé thăm, Hoàng hậu vẫn chẳng thể nào đắc sủng trở lại.

Bây giờ tang lễ của Ly Âm Quý tần đã kết thúc, dường như Hoàng thượng lại càng ghét

bỏ Hoàng hậu, thường ngày rất ít khi gặp mặt.”

Tôi khẽ gật đầu, khoác áo đứng dậy, nói:

“Bản cung đi thăm Trinh Phi một chút.”

Khi tôi tới nơi thì Yến Nghi đang ngồi xem

sách trong điện, dáng vẻ hết sức say mê. Trên người nàng ta là một chiếc áo cân

vạt màu xanh nõn chuối thêu những đường hoa văn màu đỏ tía, phía dưới thì là

một chiếc váy dài màu xanh lục, mái tóc được búi lại gọn ghẽ trên đầu và cố

định bằng một cây trâm vàng. Tôi không kìm được thầm khen ngợi, màu xanh nõn

chuoái kia thực là hợp với tính cách dịu dàng, trầm lặng của Yến Nghi.

Không Thúy điện hết sức thoáng đãng, rộng

rãi, bên trong còn vương vất mùi hoa mai dìu dịu. Ánh dương bị bức rèm ngăn lại

một phần, chiếu vào trong điện vô số đốm sáng li ti, nhìn hệt như những bông

hoa vàng ươm rực rỡ, lại càng tôn lên dáng vẻ thanh tao của Yến Nghi lúc này.

Tôi vén rèm đi vào, khẽ cười, hỏi: “Muội

đang xem sách gì thế? Trông bộ dạng thực là say mê quá chừng.”

Nàng ta nhìn thấy tôi thì đặt cuốn sách qua

một bên, cười, nói: “Có gì đâu mà say mê, Bái Nhi khó khăn lắm mới chịu ngủ,

muội chẳng qua chỉ đọc sách để giết thời gian thôi.”

Trên bức tường bên cạnh nàng ta có treo một

bức Trang Tử thu thủy đồ vừa vẽ, bên trên chỉ có vài nét đơn sơ nhưng ý cảnh

lại được thể hiện mạch lạc vô cùng, thực không giống như tác phẩm của một nữ tử

trong khuê các. Tôi gật đầu cười, nói: “Tài vẽ của muội muội đúng là ngày càng

tiến bộ. Có điều nếu muội vẽ tranh chim cá cỏ cây hoặc là non nước hữu tình, có

lẽ Hoàng thượng sẽ vừa ý hơn đấy.”

Nàng ta mỉm cười, nói: “Hoàng thượng không

thường xuyên tới đây, tới rồi cũng chẳng để ý tới mấy tiểu tiết này, do đó vẽ

gì cũng như nhau cả, tốt nhất là cứ vẽ những thứ mình thích.”

Tôi nhẹ nhàng ngồi xuống bên cạnh nàng ta.

“An thị đã chết, muội muội bây giờ cũng có thể nhẹ lòng hơn được phần nào rồi.”

Nàng ta khẽ cười. “Khi Ly Phi còn tại thế,

muội vẫn luôn oán hận cô ta, nhưng bây giờ suy nghĩ thông suốt rồi, kỳ thực

không có cô ta thì cũng có người khác thôi. Hoàng thượng vốn chẳng có bao nhiêu

tình cảm với muội, sẽ không vì người khác mà thêm hay bớt đi mấy phần đâu.”

Tôi nhìn nàng ta chăm chú. “Nếu muội muội

thật sự nghĩ được như vậy thì hoàn toàn không cần để ý tới Vinh Tần làm gì.”

Trong mắt nàng ta lộ ra một nét buồn thương

man mác. “Nghĩ được như vậy là một chuyện, còn có làm được hay không lại là

chuyện khác.”

Ly Phi đã qua đời, tam phi bây giờ chỉ còn

lại nàng ta và Hân Phi. Kỳ thực trong các phi tần, ngoài tôi ra thì chỉ có nàng

ta là sinh được hoàng tử, địa vị tất nhiên không tầm thường. Nhưng mỗi lần đến

cung của nàng ta, tôi đều cảm thấy thời gian thật dài đằng đẵng, trên tay Yến

Nghi luôn có một tấm khăn thêu mãi vẫn không xong, có một cuốn sách đọc mãi

cũng không hết. Ngẫm phận nàng ta thật giống như cây quạt tròn bị gác bỏ một

bên giữa mùa thu, trong lòng luôn chứa chan những nỗi niềm u uất vô biên vô

tận.

Nàng ta tự tay rót cho tôi một chén trà

đắng, điềm đạm nói: “Bây giờ An thị đã qua đời, thế mà còn phải nhận một cái

tên thụy kỳ quái như Ly Âm Quý tần, quả là cay đắng.”

Tôi chăm chú ngửi mùi trà trong chén, cất

giọng hững hờ: “Đó là một phen khổ tâm của Hoàng hậu.”

“Tiếc rằng một phen khổ tâm ấy lại chẳng

nhận được sự thông cảm của Hoàng thượng. Sau khi nương nương thoái thác việc

chủ trì tang lễ cho Ly Phi, Hoàng hậu liền phải nhận lấy củ khoai lang nóng

bỏng này. Ly Phi là do Hoàng hậu một tay đề bạt, dù lần này trong tang lễ, cô

ta đã cố hết sức hạ thấp Ly Phi, lại mượn cớ đau đầu để không hết lòng lo liệu,

song trong mắt Hoàng thượng thì Hoàng hậu và Ly Phi vẫn là những người gần gũi

với nhau. Ly Phi nay đã chết rồi, Hoàng thượng giữ cho cô ta chút thể diện như

thế lại càng cạn hết tình xưa nghĩa cũ. Ngày sau Hoàng thượng mà nghĩ tới những

việc xấu xa do Ly Phi làm ra, ắt cũng sẽ nhớ lại buổi tang lễ phong quang của

cô ta là do Hoàng hậu chủ trì, mà lúc sinh tiền cô ta và Hoàng hậu còn rất gần

gũi. Hoàng hậu vốn lõi đời, làm gì chẳng hiểu đạo lý bên trong, có điều dù nghĩ

ra cái tên thụy Ly Âm Quý tần kia để hạ thấp An thị thì rốt cuộc vẫn không

tránh khỏi bị trút giận. Do đó suốt một thời gian dài vừa qua, cô ta dù muốn

gặp Hoàng thượng một lần cũng chẳng được.”

Tôi thầm kinh ngạc về tâm tư tinh tế của

nàng ta, không kìm được cười, nói: “Muội muội đúng là thông minh hơn người.”

“Muội đâu so được với tỷ tỷ.” Nàng ta nhìn

tôi chăm chú. “Hoàng hậu tuy hiểu rõ nguồn cơn nhưng do được Hoàng thượng đích

thân dặn dò nên chẳng thể nào thoái thác, biết rõ nguy hiểm mà vẫn phải dấn

thân vào.” Hơi dừng một chút, nàng ta để lộ vẻ nghi hoặc. “Tỷ tỷ hao tổn tâm tư

như vậy lẽ nào là bởi có lòng muốn ngồi vào ghế phượng như Trang Mẫn Phu nhân?”

Tôi khẽ lắc đầu. “Một khi ngồi lên vị trí

đó thì sẽ trở thành đích ngắm cho tất cả mọi người, ta đâu ngu ngốc đến vậy.

Huống chi nếu ta thật sự có ý này, Hồ Uẩn Dung hẳn sớm đã coi ta như cái gai

trong mắt rồi, chẳng chịu đứng chung trận tuyến với ta như bây giờ đâu.”

Nàng ta cười, nói: “Muội cũng nghĩ tỷ tỷ sẽ

không lỗ mãng như vậy.”

Trời đã đổ bóng hoàng hôn, những ngọn đèn

lồng trong các cung dần được thắp sáng, khắp nơi ánh lửa lập lòe, ánh sáng

chiếu lên mấy gốc hoa trà tạo thành một mảng màu sắc vô cùng diễm lệ. Yến Nghi

dõi mắt nhìn về phía xa, nhẹ nhàng cất tiếng: “Xích Thược vô lễ mà lại ngày

càng được ân sủng, ngay đến Xuân Tần và Hủ Tần mới vào cung cũng chẳng làm gì

được đấy.” Ba phi tần xuất thân từ các vương phủ hiện giờ rất được Huyền Lăng

sủng ái, trong đó Xuân Tần và Hủ Tần chiếm phần hơn, tựa như một cặp hoa chung

gốc, còn Anh Tần Giang Thấm Thủy thì hơi thua kém một chút nhưng cũng coi như

không tệ. Có điều dù là như thế, Xích Thược vẫn vô cùng đắc sủng, số lần Huyền

Lăng ghé thăm mỗi tháng chẳng hề giảm bớt.

Hủ Tần vốn ở chung một cung với Anh Tần

từng lén kể với tôi: “Ở những chỗ vắng người, tần thiếp thường xuyên nhìn thấy

Anh Tần rơi lệ, chẳng rõ là vì duyên cớ gì nữa.”

Tôi nói: “Chắc là ở nhà cô ta còn có cha mẹ

cho nên mới nhớ người thân đấy thôi.”

Hủ Tần khẽ lắc đầu. “Hồi mới vào cung, cô

ta đâu có nhớ người thân gì đâu, bây giờ khóc lóc như thế thực là quái lạ.”

Hủ Tần xuất thân từ phủ Thanh Hà Vương, vốn

là một ca nữ cực kỳ xuất chúng. Ngọc Ẩn từng cười, nói với tôi: “Tuy Vương gia

không có tâm tư gì với những người khác nhưng tướng mạo của Thái Chỉ thì quả có

thể xếp vào hạng nhất trong số các thị nữ trong vương phủ. Muội cũng không thể

không đề phòng, liền nhân cơ hội này đưa cô ta vào cung luôn, có một Vưu Tĩnh

Nhàn trong phủ đã là đủ lắm rồi.”

Tôi không kìm được nói: “Tính cách Vương

gia thế nào muội cũng rõ, việc gì mà phải không yên tâm như vậy.”

Ngọc Ẩn bất giác hơi cụp mi mắt, ánh mắt

nhìn về phía tôi không tránh được lộ ra mấy tia ai oán. “Tỷ tỷ tất nhiên biết

rõ tính cách của Vương gia, có điều bản thân muội vẫn cứ không thể yên tâm

được!”

Tôi tự biết lời này của mình có phần lỗ

mãng nên khiến Ngọc Ẩn cả nghĩ, đang định chuyển chủ đề câu chuyện thì chợt để

ý thấy thần sắc muội ấy vẫn tĩnh lặng như thường, trong lòng thầm nghi hoặc

không biết vừa rồi có phải mình đã nhìn nhầm hay không, bèn hỏi: “Muội trước

giờ vẫn chẳng để Vưu Tĩnh Nhàn vào lòng, cũng nói là Vương gia không để ý tới

cô ta lắm, sao bây giờ lại có vẻ lo lắng thế vậy?”

Ngọc Ẩn trầm ngâm đáp: “Vương gia quả đúng

là không thích cô ta nhưng cô ta dù sao cũng xuất thân thế gia, đọc rộng biết

nhiều, có lúc còn có thể trò chuyện với Vương gia mấy câu.” Sau đó không kìm

được lộ vẻ tiếc nuối. “Còn muội đọc sách chẳng được bao nhiêu, thực sự phải

chịu thua thiệt rất nhiều về mặt này.”

Thế rồi Ngọc Ẩn liền đổi tên Thái Chỉ thành

Hàm Chỉ mà nhân tiện đưa vào cung luôn. Hủ Tần không biết duyên cớ bên trong,

lại cũng có lòng muốn báo đáp ơn thu nhận của Huyền Thanh năm xưa, thấy tôi là

tỷ tỷ của Ngọc Ẩn - trắc phi của Huyền Thanh thì thường ngày tỏ ra hết sức gần

gũi.

Trong khi tôi suy nghĩ vẩn vơ thì Yến Nghi

vẫn chỉ ngồi lặng im ở đó, tôi biết hành động của Huyền Lăng năm xưa đã làm

nàng ta thương tâm tột độ, vô vàn tình cảm chân thành như bị một chậu nước lạnh

giội lên. Nhưng dù thế nào đi nữa, nàng ta cũng vẫn còn yêu Huyền Lăng, mà

chính bởi vì yêu nên mới sinh ra những nỗi niềm ai oán.

Tôi khuyên giải vài câu rồi đành cất tiếng

cáo từ, bám vào tay Cận Tịch chậm rãi bước đi trong Thượng Lâm uyển một hồi

lâu, bóng dáng thê lương của Yến Nghi cứ vương vất mãi trong lòng. Từng làn gió

đêm nhẹ nhàng thổi lại, cành lá trong Thượng Lâm uyển xào xạc lung lay, đông

tới mang cái lạnh về, còn mang theo cả sự tiêu điều, héo hắt. Tôi kéo chiếc áo

choàng vào sát người một chút, cố gắng bước đi nhanh hơn. Bỗng có tiếng khóc

thút thít từ đâu đó vọng lại, tôi không kìm được cất giọng nghi hoặc: “Muộn thế

này rồi mà còn có ai đang khóc ở đây thế?”

Tiểu Doãn Tử vội vàng cầm đèn bước lên phía

trước tìm kiếm, chừng một tuần trà sau thì dẫn theo một người trở lại. Người đó

có thân hình yểu điệu, nhan sắc mỹ miều, không phải Anh Tần thì còn là ai? Tôi

thấy nàng ta mặc một chiếc áo dài thêu hình bướm vờn hoa màu hồng, dáng người

có vẻ yếu ớt, chắc vì đã khóc trong gió lạnh một hồi lâu nên đầu mũi đã đỏ ửng,

đôi mắt cũng hơi sưng tấy. Anh Tần nhìn thấy tôi thì sợ đến ngây người, không

kìm được lùi về phía sau hai bước, sau đó mới nhớ ra là cần phải hành lễ.

Tôi liếc thấy chiếc khăn tay buộc trên vạt

áo của nàng ta đã ướt thẫm một mảng, bèn cố kìm nén nỗi nghi hoặc trong lòng,

ân cần hỏi: “Trời đang lạnh giá thế này, sao Anh Tần muội muội lại khóc một

mình ở đây thế?”

Nàng ta hơi rụt người lại, dè dặt đáp: “Tần

thiếp không dám khóc trong cung của mình.”

Thấy nàng ta có vẻ giấu đầu hở đuôi như thế,

tôi nói năng lại càng ôn tồn hơn: “Sắp sang năm mới rồi, có phải muội muội nhớ

nhà không?” Sau đó lại quay sang dặn dò Cận Tịch: “Đợi lát nữa nhớ sai người đi

nói với Hoàng thượng là thân thể Anh Tần không khỏe, hãy để người nhà nàng ta

vào cung thăm nom một chút.” Cận Tịch đáp “vâng” một tiếng. Tôi cười, hỏi Anh

Tần: “Bản cung tự tiện làm chủ như vậy không biết Anh Tần thấy thế nào?”

Anh Tần hoang mang quỳ xuống. “Đa tạ Thục

phi nương nương có lòng xót thương. Tần thiếp phúc bạc, cha mẹ đều đã qua đời,

trong nhà chẳng còn ai thân thích, do đó mới được Đức thái phi chọn từ trong

phủ đưa vào cung.”

“Ồ?” Tôi hơi nhướng mày lên. “Đã không phải

là nhớ người thân, Anh Tần vì cớ gì mà thương tâm đến vậy? Hoàng thượng vẫn hết

sức sủng ái muội muội, lẽ nào có người nào đó gây khó dễ cho muội ư? Có điều ấm

ức gì, muội cứ việc nói với bản cung.”

Anh Tần thoáng lộ vẻ trù trừ, ngón tay đang

đeo hộ giáp bằng vàng ròng run lên lẩy bẩy, thấp giọng nói: “Đêm qua xe Phượng

loan xuân ân lại tới đón Xuân Tần đi.”

Tôi dừng ánh mắt trên khuôn mặt như phủ hơi

sương của nàng ta, chợt cười, nói: “Trong cung có nhiều phi tần như thế, Hoàng

thượng làm sao mà chiều lòng tất cả được. Muội muội hãy mở rộng lòng mình, đừng

vì thế mà thương tâm hay ghen tị, kẻo lại bị người ta chê trách là nhỏ mọn

đấy.”

Nàng ta ngước mắt lên nhìn tôi, khẽ nói:

“Nương nương không trách tội tần thiếp ư?”

Tôi bất giác bật cười. “Chúng ta đều là nữ

tử, khó tránh khỏi có lúc vì tương tư mà thương tâm ghen tị, đến bản cung cũng

chẳng thể nào tránh nổi, sao lại trách muội muội chứ?” Tôi hơi nhếch khóe môi

để lộ một nụ cười đầy ý vị. “Có điều chút tâm tư này muội muội nhất định phải

khắc chế, nhược bằng để người khác biết được thì ắt sẽ là họa chứ không phải

phúc đâu.”

Trong mắt lóe lên ánh lệ long lanh, nàng ta

lập tức quỳ xuống. “Tần thiếp xin vâng theo lời dạy bảo của nương nương.”

Anh Tần rụt rè cáo lui, tôi chăm chú nhìn

theo cái bóng của nàng ta, suốt một hồi lâu không nói năng gì. Tiểu Doãn Tử

cười, nói: “Anh Tần tiểu chủ đúng là thẳng tính, ngay đến chuyện như thế mà

cũng nói ra, chỉ qua đó thôi cũng đủ thấy nương nương đức cao vọng trọng nên

nàng ta mới không dám nói dối.”

Tôi chỉ nhìn Tiểu Doãn Tử mà cười khẽ. Cận

Tịch nói: “Nô tỳ thì thấy Anh Tần rõ ràng chỉ kiếm cớ nói bừa vậy thôi.”

“Cô ta đã không còn người nhà, phen khóc

lóc này ắt không phải là vì nhớ người thân. Mà thời gian qua Hoàng thượng vẫn

thường xuyên sủng hạnh cô ta và Xuân Tần, Hủ Tần, không hề có vẻ gì là ghẻ

lạnh, do đó chuyện này quả thực có rất nhiều điểm đáng ngờ.”

Cận Tịch nói: “Dạ phải, tội danh phi tần đố

kỵ không phải là nhỏ, vậy mà cô ta thà mạo hiểm chịu phạt chứ nhất quyết không

nói ra chân tướng, chứng tỏ tội trạng mà chân tướng ấy đem tới còn lớn hơn tội

đố kỵ kia nhiều.”

Tôi khẽ gật đầu. “Ai ai cũng có bí mật của

riêng mình, ta hà tất phải truy cứu đến cùng làm gì cho rắc rối, chỉ cần cô ta

không làm việc gì quá đáng là được rồi.” Tôi thấy Tiểu Doãn Tử có vẻ lúng túng

bèn nói: “Ngươi bây giờ đã là thái giám quản sự rồi, đừng việc gì cũng chỉ chăm

chăm nịnh nọt bản cung như thế, hãy chú ý học theo Cận Tịch nhiều vào.”

Tiểu Doãn Tử cung kính đáp “vâng” một

tiếng, sau đó liền dẫn tôi về cung. Trên đường quay về Nhu Nghi điện ắt phải đi

qua Nghi Nguyên điện, tôi vạch ngón tay ra tính toán. “Lúc này chắc Hoàng

thượng đang lật thẻ bài rồi.”

Tiểu Doãn Tử nói: “Dạ phải. Mấy ngày nay

Hoàng thượng chủ yếu chọn các vị tiểu chủ Diễm Tần, Vinh Tần, Xuân Tần, Hủ Tần

và Anh Tần.”

Lời còn chưa dứt, tôi đã nhìn thấy bên

ngoài Nghi Nguyên điện có một nữ tử vận cung trang đang đứng, ngay từ xa nàng

ta đã nhún gối hành lễ với tôi: “Tần thiếp bái kiến Thục phi nương nương, nương

nương vạn phúc kim an!”

Tôi định thần nhìn kĩ thấy hóa ra là Hủ

Tần. Để ý thấy xe Phượng loan xuân ân đang dừng ngay sau lưng nàng ta, tôi

không kìm được cất tiếng hỏi: “Trời tối gió to thế này, sao muội muội lại đứng

ở đây thế? Cẩn thận kẻo bị trúng gió đấy.”

Hủ Tần đưa mắt nhìn Nghi Nguyên điện, lộ rõ

vẻ sợ hãi, nói: “Tần thiếp vâng chỉ tới đây, vừa khéo đại điện hạ lại ở bên

trong, Lý công công nói là Hoàng thượng lúc này đang tức giận, kêu tần thiếp

tạm thời đừng vào.”

Nàng ta còn chưa dứt lời, tôi đã nghe thấy

giọng của Huyền Lăng vang lên: “Trẫm bảo con đọc Gián Thái Tông thập tứ sơ của Ngụy Trưng, con nay đã có thể đọc

thuộc lòng trôi chảy, xem ra đã bỏ ra không ít công phu. Trẫm hỏi con thế nào

là khoanh tay trị nước, con cũng biết đó là trị nước theo lối vô vi, nhưng trẫm

hỏi con Thái Tông làm thế nào để có thể khoanh tay trị nước, con lại chỉ biết

đem thiên văn chương cứng nhắc kia ra đọc cho trẫm nghe. Đường Thái Tông biết

tiếp nhận lời can gián, nghe theo những lời can trong thiên văn chương này của

Ngụy Trưng lẽ nào không phải là một cách để buông tay trị nước đó ư? Con chỉ

biết đọc sách một cách cứng nhắc mà không biết suy một ra ba, lẽ nào khi con ở

trong thư phòng, sư phụ con chưa từng kể về lối cai trị nhân đức của Thái Tông

ư?”

Hoàng trưởng tử cất giọng rụt rè: “Sách Trinh Quan chính yếu đã nói tới chuyện

này rồi, mẫu hậu cũng bảo nhi thần phải đọc cho thật kĩ.”

Huyền Lăng cười lạnh không ngớt. “Sư phụ

với mẫu hậu của con đều cần mẫn, nhưng con thì lại lười nhác quá chừng. Con năm

tuổi đã vào thư phòng, tới bây giờ đã được hơn mười năm, vậy bao nhiêu cuốn

sách từng đọc con để vào đâu hết rồi? Trẫm nhớ là hai năm trước con còn có thể

đọc thuộc lòng được mấy đoạn dài trong Trinh

Quan chính yếu, lẽ nào bây giờ đã

quên hết rồi sao? Sư phụ của con cũng nhẫn nại thực đó, nếu đổi lại là trẫm,

chỉ e sớm đã bị con làm cho tức chết từ lâu rồi!”

Hoàng trưởng tử hình như đã quỳ xuống. “Phụ

hoàng bớt giận!”

“Bớt giận? Trẫm cũng muốn bớt giận lắm chứ,

nhưng con lại làm cho trẫm không thể không tức giận! Con là con cả của trẫm,

trẫm không mong con có thể kiến công lập nghiệp gì hết, chỉ hy vọng con có thể

trở thành tấm gương cho mấy đệ đệ, muội muội của con, như thế trẫm cũng được

yên lòng hơn một chút! Trẫm thực không ngờ con lại kém cỏi tới mức này!”

Nửa đêm gió lớn, giọng nói của Huyền Lăng

vang đi rất xa, ngay đến cái bóng của y in lên cửa sổ cũng thấp thoáng lộ ra

mấy tia giận dữ. Hủ Tần vào cung chưa lâu, chưa từng nhìn thấy Huyền Lăng nổi

giận như vậy, không kìm được run rẩy đưa mắt nhìn tôi. Tôi mỉm cười, nói:

“Hoàng thượng là bậc thiên tử tôn quý nhất trên đời, tất nhiên không thể ôn

hòa, điềm đạm như Vương gia rồi.”

Hủ Tần mỉm cười nền nã. “Vương gia bây giờ

còn chưa có con, ngày sau mà có rồi, một khi dạy con chỉ sợ còn nghiêm khắc hơn

Hoàng thượng bây giờ ấy chứ.”

Tôi nghe nàng ta nói vậy, trái tim bất giác

nảy lên một cái, hai bờ má nóng bừng, thậm chí còn không phát hiện có một làn

gió lạnh thổi tới, khi ngẩng đầu lên thì bỗng thấy Hoàng trưởng tử mặt mày ủ

dột đi ra. Tiếng quát đầy giận dữ của Huyền Lăng vang vọng ra ngoài theo làn

gió: “Ba ngày tới con hãy đọc thiên văn chương ấy cho thông suốt, nếu còn chưa

hiểu ý nghĩa của nó thì đừng tới gặp trẫm!”

Hoàng trưởng tử nhìn thấy tôi và Hủ Tần thì

không kìm được đỏ mặt tía tai, vội cúi đầu, chắp tay nói: “Nhi thần kính chào

Thục mẫu phi, Hủ mẫu phi.”

Hủ Tần và Hoàng trưởng tử tuổi tác xấp xỉ

nhau, nhận lễ như vậy của y thì không khỏi đỏ mặt, nàng ta vội lùi về phía sau

hai bước. Tôi cười, nói: “Muội tuy còn trẻ nhưng bối phận cao thấp bày ra đó,

nhận một lễ này của Hoàng trưởng tử cũng không sao hết.” Hủ Tần tới lúc này mới

yên tâm nhận lễ. Tôi nói: “Muội cũng đợi khá lâu rồi, mau vào trong đi. Hoàng

thượng lúc này đang tức giận, ăn nói nhớ phải dịu dàng, cẩn thận một chút.”

Hủ Tần khẽ gật đầu, vội vàng đi vào trong

điện.

Tôi đưa mắt nhìn Dư Ly, thấy y đã là một

thiếu niên mười sáu, mười bảy tuổi, vì được nuôi ở cung của Hoàng hậu nên lời

lẽ, cử chỉ đều rất hợp với lễ nghi. Tướng mạo của y vốn không tầm thường, chiếc

áo lông cáo màu xanh viền đen trên người lại càng khiến phong thái của y thêm

phần xuất chúng. Thế nhưng y từ nhỏ đã bị quản thúc nghiêm ngặt, thần sắc không

tránh khỏi có chút e dè, trong mắt chẳng có vẻ bừng bừng rạng rỡ, đã thế lúc

này còn có thêm mấy tia ủ dột, buồn bã. Tôi đưa tay vỗ nhẹ lên bờ vai y, dịu

giọng an ủi: “Phụ hoàng con đang lúc tức giận, nói năng khó tránh khỏi có hơi

nặng nề, con đừng để vào lòng. Cha con dù sao cũng là cha con, chờ mấy ngày nữa

mọi việc sẽ lại đâu vào đấy thôi.”

Dư Ly thấp giọng đáp: “Dạ. Đa tạ Thục mẫu

phi quan tâm!”

Tôi ôn tồn nói: “Trời cũng tối rồi, con còn

phải xuất cung về vương phủ, đường ban đêm lại khó đi, mau về nhanh đi.”

Y lại càng cúi đầu thấp hơn, gần như đã vùi

mặt vào vạt áo. “Mẫu hậu còn đang ở trong cung chờ hỏi bài nhi thần.”

Tôi thoáng lộ vẻ ngạc nhiên. “Đã muộn thế

này rồi cơ mà. Ngày mai giờ nào thì con phải tới thư phòng?”

“Giờ Dần ba khắc.”

Tôi bật thốt: “Giờ Dần ba khắc? Lúc đó trời

vẫn còn tối đen mờ mịt, mỗi ngày con chỉ được ngủ ít như vậy thôi sao?”

“Mẫu hậu thường nói vụng về thì phải lo

thân sớm, nhi thần không được thông minh như người khác nên cần phải chăm chỉ

chuyên cần, ngày đêm khổ học.”

Tôi thở dài, than: “Hoàng hậu mong con hăng

hái phấn đấu như thế kỳ thực không sai, nhưng con cũng nên quý trọng thân thể

của mình một chút.” Sau đó lại mỉm cười nhìn y. “Nghe nói phụ hoàng của con

đang chọn vương phi cho con rồi đấy, xem ra ta lại sắp được uống rượu mừng

rồi.”

Dư Ly nghe vậy thì không hề tỏ ra mừng rỡ.

“Mẫu hậu nói nhi thần còn nhỏ, học tập vẫn là quan trọng nhất, đừng vì chuyện

nhi nữ tình trường mà phân tâm kẻo làm phụ hoàng tức giận.”

Tôi đành nói: “Hoàng hậu nuôi dưỡng con

cũng vất vả, con cứ chịu khó nghe lời đi vậy.”

Tôi xoay người định đi, chợt Dư Ly thấp

giọng gọi khẽ: “Thục mẫu phi xin dừng bước!”

Tôi ôn tồn hỏi: “Còn có chuyện gì vậy?”

Y ngẩng đầu lên, trong mắt lộ ra mấy tia ấm

áp, chân thành. “Nghe nói mẫu phi của nhi thần được truy phong là nhờ ý tốt của

Thục mẫu phi, nhi thần không thể tới tận nơi bái phỏng đã là bất hiếu, hôm nay

xin có lời cảm tạ tại đây.”

Tôi bất giác sững người, chợt nhớ ra mẫu

phi mà y nói tới ở đây là thân mẫu Cẩn Phi của y, không kìm được cười, nói:

“Con là trưởng tử của Hoàng thượng, mẹ ruột của con lại qua đời sớm, được truy

phong như thế cũng là lẽ thường, con không cần cảm tạ ta làm gì cả.”

Sắc mặt y lộ rõ vẻ u uất, hệt như thời tiết

lúc này. “Mẫu phi của nhi thần chết một cách không rõ ràng, bao năm nay trong

cung đầy rẫy tin đồn, ngay đến phụ hoàng cũng chẳng buồn xót thương. Nhi thần

là người làm con mà chẳng thể làm gì, mãi đến dịp vừa rồi cũng phải nhờ phúc

của Thục mẫu phi mới có thể làm tròn phận hiếu, ơn này nhi thần quyết chẳng dám

quên.”

Dư Ly khom người vái một cái thật sâu, tôi

vội vàng ngăn y lại. “Đây vốn chẳng phải tâm ý của một mình ta. Hoàng hậu là

đích mẫu của con, việc này xét cho cùng cũng cần Hoàng hậu ân chuẩn mới được.”

Dư Ly miễn cưỡng nhếch khóe môi. “Mẫu hậu

đối xử với nhi thần quả thực không tệ, nhưng người vẫn luôn cho rằng mẫu phi là

người có tội, thậm chí còn không cho nhi thần được nhắc tới chứ đừng nói gì đến

chuyện khác. Thục mẫu phi không cần an ủi nhi thần làm gì.” Y cung tay, thấp

giọng nói: “Trời đêm lạnh lẽo, Thục mẫu phi xin bảo trọng. Nhi thần cáo lui!”

Cẩn Phi qua đời sớm, Dư Ly lại không được

phụ thân thương yêu, Hoàng hậu thì dạy dỗ nghiêm khắc, thành ra tuy là trưởng

tử nhưng mười mấy năm nay cuộc sống của y vẫn luôn ngột ngạt, bức bối vô cùng,

chưa có lúc nào thật sự được vui vẻ. Tôi dõi mắt nhìn theo bóng lưng hơi cong

của y lúc rời đi, không kìm được khẽ thở dài một tiếng