Hậu Cung Chân Hoàn Truyện

Quyển 7 - Chương 15: Sông trừng dưới nguyệt nước trong veo (hạ

Mấy ngày sau, Huyền Lăng lấy việc Quản Văn

Uyên bất kính với Thục phi làm cớ để hỏi tội nhà họ Quản, dùng thế sấm rền gió

quật lật lại chuyện nhà họ Quản vu cáo ba nhà Chân, Tiết, Lạc năm xưa, lại điều

tra ra một số tội trạng của nhà họ Quản trong mấy năm vừa rồi như tham ô hối

lộ, kéo bè kết cánh, làm việc bất nhân, khiến cả triều đình đều chấn động.

Hôm ấy trời mưa vừa tạnh, cái nóng hoàn

toàn bị xua tan, Trinh Quý tần ngồi đánh cờ với tôi, sau khi đặt một quân cờ

xuống mới khẽ thở dài. “Hoàng thượng làm gì chẳng biết nhà họ Quản có tội, chỉ

là việc triều chính thường có mối liên quan rất lớn, không thể vọng động. Hơn

nữa một việc lớn như thế cũng cần xử trí từ từ, không ngờ lần này Hoàng thượng

lại có vẻ chuẩn bị chặt đứt căn cơ của bọn họ như thế.”

Tôi tất nhiên cũng hiểu đạo lý này, nhưng

nếu xử trí từ từ thì biết phải đợi đến ngày nào mới thấy được kết quả, mà đã ra

tay rồi thì tất nhiên cần nhổ cỏ nhổ tận gốc, không cho kẻ địch có cơ hội tro

tàn cháy lại.

Tôi khẽ mỉm cười. “Quản Văn Uyên kiêu căng

ngang ngược, hai gã ca ca của thị thì cũng chẳng phải hạng tốt đẹp gì. Hoàng

thượng lần này đột ngột ra tay, bọn hắn tất nhiên trở tay không kịp.”

Trinh Quý tần nở một nụ cười điềm đạm.

“Quản Văn Uyên tốt xấu gì thì cũng đắc sủng mấy năm, gia tộc lại có chút quyền

thế, có lý nào lại chẳng kiêu căng, ngang ngược. Tỷ cứ nhìn An thị mà xem,

trước mặt Hoàng thượng, cô ta ra vẻ ngoan ngoãn đến thế nào, nhưng nghe nói sau

khi phụ thân cô ta được Hoàng thượng phong làm Tri phủ thì chẳng hề yên phận.

Kẻ làm quan với làm phi tần đều như nhau cả, một khi được ân sủng là khó tránh

khỏi lộ rõ nguyên hình.”

Tôi cầm một quân cờ lên, lộ vẻ trầm ngâm,

khẽ lẩm bẩm nói: “Hoàng thượng đêm qua lại nghỉ ở chỗ An thị nữa rồi.”

Trinh Quý tần hơi nhướng mày, có chút hụt

hẫng nói: “Sau điệu múa đêm trừ tịch, Hoàng thượng liền coi cô ta như chí bảo,

tuy vì cái chết của Đức phi mà có ghẻ lạnh một thời gian nhưng rốt cuộc vẫn

không dứt ra được. Hoàng thượng dạo này rất ít khi tới Không Thúy điện, chẳng

qua chỉ không muốn để ta nhìn thấy mặt Xích Thược nữa mà thôi.”

“Hoàng thượng đối xử với cô ta quả thực rất

tốt.” Tôi khẽ mỉm cười. “Chúng ta đều ở trong cung cả ngày, làm sao biết được

phụ thân cô ta ở bên ngoài là người ra sao, xét cho cùng Chu Bội muội muội có

người làm quan trong triều tin tức vẫn nhanh nhạy nhất.”

Theo làn gió thu đầu tiên thổi tới, sự suy bại

của nhà họ Quản đã trở nên hết sức rõ ràng. Gia tộc này nổi lên từ việc bình

định Nhữ Nam Vương, huy hoàng suốt sáu, bảy năm trời, nhưng cuối cùng vẫn không

tránh khỏi kết cục tan đàn xẻ nghé. Đến khi sắc thu heo hắt phủ khắp Tử Áo

Thành, vận mệnh của người nhà họ Quản rốt cuộc đã được quyết định, nam tử

trưởng thành nhất loạt chém ngang lưng, chưa đủ mười bốn tuổi lưu đày đến vùng

biên cương phía tây, nữ quyến thì nhất loạt sung làm nô tỳ, Quản Lộ sau khi hay

tin đã tuyệt vọng tự vẫn trong ngục.

Đêm ấy, Canh y Quản Văn Uyên đầu xõa tóc,

chân để trần đứng ngoài Nghi Nguyên điện gào khóc van cầu, tiếng gào khóc của

nàng ta nghe thê lương tột độ, vang vọng khắp bầu trời đêm trên Tử Áo Thành.

Ngoài Thái hậu và Ngọc Diêu, tất thảy mọi người đều không ngủ nổi, ai nấy đều

đang lắng nghe, ai nấy đều đang nhìn bằng đôi mắt và trái tim của mình. Thái

hậu thì đã quá quen với việc như vậy, còn Ngọc Diêu, đôi tai của muội ấy ngoài

tiếng gõ mõ và tiếng tụng kinh ra thì tạm thời không thể nghe thấy âm thanh gì

khác.

Đương nhiên, trước đó Quản Văn Uyên cũng

từng cầu xin Hoàng hậu, thế nhưng Hoàng hậu vốn đang dần thất sủng chẳng thể và

cũng chẳng muốn giúp nàng ta. Hoàng hậu đóng chặt cửa cung, nói với bên ngoài

là “bệnh đau đầu lại phát tác”.

Lúc này, tôi và Huyền Lăng đang ngồi đối

diện với nhau trong gian phòng phía tây của Nghi Nguyên điện, y cầm một cuốn Thái bình ngự lãm, tôi thì cầm một cuốn Thái thượng cảm ứng thiên, cả hai đều

chỉ lặng im xem sách.

Đối với tôi mà nói, tiếng kêu gào của Quản

Văn Uyên lúc này căn bản chẳng cần để ý tới, còn Huyền Lăng thì chẳng có lòng

dạ nào mà để ý đến. Huyền Lăng cũng từng sai Lý Trường đi truyền khẩu dụ tới

nàng ta: “Trẫm niệm tình nàng từng hầu hạ trẫm nhiều năm, chỉ phế nàng làm thứ

dân chứ không ban cái chết cho nàng, nàng mau về đi.”

Quản Văn Uyên đập cửa điện, khóc lớn:

“Hoàng thượng đã xử tội nhà mẹ đẻ của thần thiếp rồi, thần thiếp làm gì còn nhà

để về nữa! Thần thiếp bây giờ sống không bằng chết! Hoàng thượng, người ban cái

chết cho thần thiếp mà tha cho người nhà của thần thiếp đi!”

Huyền Lăng không thèm để ý đến nàng ta nữa,

tôi cũng không cho ai tới kéo nàng ta đi, sự tuyệt vọng này sẽ gặm nhấm nàng

ta, nhấn chìm nàng ta trong đau khổ. Tiếng van cầu của Quản Văn Uyên càng lúc

càng thê thảm, sau khi không được đáp lại thì bắt đầu biến thành sự oán hận,

oán Huyền Lăng vô tình, oán tôi tàn độc. Bên ngoài chợt có tiếng sấm vang lên,

thời tiết oi ả nhanh chóng bị xua tan bởi một trận mưa dông hiếm thấy.

Đó là một cơn mưa lớn rơi suốt cả đêm,

những hạt mưa nặng trịch cuốn phăng đi cái nóng đã ứ đọng trong Tử Áo Thành

suốt mấy ngày vừa rồi, cũng làm tâm trạng ngột ngạt của tôi thoải mái hơn đôi

chút. Tôi đứng bên Huyền Lăng, nhìn y khởi thảo chiếu thư, đó là một tờ chiếu

thư minh oan cho phụ thân và ca ca của tôi, đồng thời cũng là một sự khởi đầu

cho việc cha mẹ tôi yên hưởng tuổi già. Tôi đã đặc biệt cầu xin Huyền Lăng, hy

vọng y đừng để cha tôi đảm nhiệm chức vụ gì quá cao nữa, ông thật sự đã già

rồi.

Tiếng mưa rơi càng lúc càng lớn, tôi dần

dần không còn nghe thấy tiếng kêu của Quản Văn Uyên nữa.

Mưa lớn đã ngừng rơi, trước khi ánh bình

minh đầu tiên chiếu xuống, tôi đi tới trước Nghi Nguyên điện thì không còn thấy

bóng dáng Quản Văn Uyên đâu. Lý Trường nói với tôi là nàng ta đã chết trong

trận mưa lớn hôm qua, thân thể tựa như một cánh bèo trôi dạt, cuối cùng bị

người ta kéo đến bãi tha ma.

Tôi không nói gì, chỉ lặng lẽ rời đi. Một

ngày mới đã bắt đầu, thứ đang đợi tôi phía trước là vô vàn chuyện vụn vặt trong

cung.

Ngọc Ẩn vào cung cầu kiến rồi nói với tôi:

“Cố Giai Nghi đã tự rời đi rồi, hành tung bất định.” Sau đó lại hỏi: “Tại sao

tỷ không cho dùng hình với Quản Văn Uyên để ép cô ta khai ra người đứng phía

sau là Hoàng hậu?”

Tôi lắc đầu, nói: “Nhà họ Quản vẫn còn

người chưa chết, cô ta sẽ không để bọn họ bị liên lụy đâu. Hơn nữa cô ta hận ta

đến thấu xương, chẳng lý nào lại hy vọng mất đi một người có thể khắc chế ta.”

Ngọc Ẩn thầm buồn bực, nhưng ngay sau đó

lại vui vẻ nói: “Những năm qua Vương gia đã thu thập được rất nhiều tội chứng

của nhà họ Quản, bây giờ rốt cuộc đã có chỗ dùng rồi.”

Tôi thầm cảm kích, nhưng ngoài miệng thì

chỉ nói: “Vương gia là phu quân của muội, dốc sức cho nhà vợ cũng là điều nên

làm. Sau này muội đi lại ngoài cung cũng tiện, việc chăm sóc cha mẹ đành phiền

muội và Vương gia vậy.”

Ngọc Ẩn gật đầu, nói: “Điều này là đương

nhiên, trưởng tỷ yên tâm.”

Tôi khẽ nở nụ cười. “Vương gia chịu dốc sức

như vậy rốt cuộc vẫn là vì có muội trong vương phủ.” Hơi dừng một chút, tôi lại

hỏi: “Người đó tính tình thế nào? Có khiến muội phải chịu chút ấm ức nào

không?”

“Trưởng tỷ nói tới Tĩnh phi ư?” Ngọc Ẩn mỉm

cười điềm đạm, dải tua đính trên cây trâm hình hoa đỗ quyên làm bằng hồng ngọc

nhè nhẹ đung đưa, càng khiến dung nhan kia thêm phần diễm lệ. “Cô ta có thể

khiến muội phải chịu ấm ức gì được chứ? Bọn muội là loại người giống nhau, hơn

nữa cô ta quả đúng là một người trầm lặng, trầm lặng đến mức gần như không tồn

tại trong vương phủ. Hơn nữa thân thể cô ta tuy đã đỡ hơn rất nhiều nhưng cả

ngày vẫn không thể rời khỏi bát canh sâm. Vương gia thương xót cô ta, chuyện ăn

mặc không có gì thiếu thốn, có điều cô ta cả ngày chẳng nói được mấy câu, Vương

gia chưa từng nghỉ lại chỗ cô ta lần nào.”

Tôi bất giác có chút chấn động trong lòng,

ngay sau đó liền cười, nói: “Vương gia vốn chẳng có tình cảm gì với cô ta,

trong khi đó đã quen biết muội nhiều năm rồi, hai bên tất nhiên là không giống

nhau. Vương gia đã không qua đêm ở chỗ cô ta, vậy hẳn là mỗi đêm đều được muội

hầu hạ thỏa đáng rồi.”

Ngọc Ẩn ngượng ngùng cười, nói: “Trưởng tỷ

toàn trêu muội thôi! Có điều Vương gia đối xử với muội thật sự rất tốt.”

Có lẽ như vậy cũng không tệ, mọi người đều

có vẻ thương yêu, kính trọng lẫn nhau, tựa như diễn kịch vậy.

Đời người kỳ thực có khác gì một vở kịch

đâu, giống như tôi và Huyền Lăng vậy, diễn kịch lâu quá rồi thì sẽ nhập vai,

người ngoài nhìn vào cứ tưởng là tình sâu tựa bể, thực tế thế nào chỉ có bản

thân là rõ nhất.

Sau đó Ngọc Ẩn cùng tôi đi thăm Ngọc Diêu.

Ngày đó, khi tôi nói với Ngọc Diêu tin tức “Quản Khê đã chết”, Ngọc Diêu chỉ

bình tĩnh lắng nghe, mặt không đổi sắc, tựa như đang nghe tin về một người

chẳng hề liên quan tới mình.

Tôi đặt một chiếc nhẫn ngọc tới trước mặt

Ngọc Diêu, hai mắt muội ấy đột ngột sáng bừng, bất giác cầm lấy nó, nắm chặt

trong lòng bàn tay, ngơ ngẩn nói: “Y vẫn còn giữ nó! Không ngờ y vẫn còn giữ

nó!” Sau đó bất ngờ đứng dậy, dải tua đính trên cây thoa cài đầu phát ra những

tiếng đinh đang, khuôn mặt tràn ngập vẻ xót xa, đau đớn. “Đại tỷ, y vẫn còn nhớ

tới muội, y chưa quên muội. Muội muốn đi gặp y, tỷ hãy để muội đi nhìn mặt y

lần cuối đi!” Muội ấy không nén được những tiếng nghẹn ngào trong cổ họng. “Tỷ

tỷ, y đã chết rồi, sau này muội không thể nhìn thấy y nữa rồi.”

Tôi bất giác thầm cảm thấy chua xót, kéo

tay Ngọc Diêu lại. “Muội điên rồi! Y tự có thê thiếp khóc tang cho y ở pháp

trường, muội chạy đến đó làm gì chứ?”

Ngọc Diêu lúc này đang cơn nôn nóng làm sao

chịu nghe, tuy thân thể yếu ớt nhưng khi phát lực thì không dễ gì kéo lại. Ngọc

Ẩn thấy muội ấy giãy giụa liền vội vàng ngăn cản, đồng thời cất tiếng khuyên:

“Tam muội mau tỉnh táo lại đi! Chiếc nhẫn này Quản Khê đâu có giữ bên người,

chẳng qua là được lấy từ trên tay tiểu thiếp Liễu thị của hắn thôi. Trưởng tỷ

sợ muội thương tâm nên còn không cho ta nói.” Lồng ngực Ngọc Ẩn phập phồng

không ngớt. “Tam muội quên việc trước đây rồi sao? Hôm nay muội mà bước ra

ngoài thì có khác nào phản bội lại gia tộc, ngày mai nhà họ Chân ta ắt sẽ trở

thành trò cười lớn nhất trong kinh thành!”

Ngọc Diêu ngừng giãy giụa, đứng im một chỗ

tựa như bị sét đánh trúng, thần sắc đờ đẫn, ngẩn ngơ. Ngọc Ẩn trong lúc cấp bách

nói chẳng lựa lời, thế nhưng cũng đều là lời nói thực, mắt thấy Ngọc Diêu như

vậy liền không khỏi có chút hoang mang, vội vàng gọi khẽ: “Tam muội.”

Ngọc Diêu nắm chặt chiếc nhẫn ngọc kia

trong tay, như thể muốn bóp nát nó vậy. “Nhị tỷ, nó thật sự được lấy xuống từ

trên tay nữ nhân khác ư?”

Ngọc Ẩn thở dài, than: “Liễu thị là tiểu

thiếp thứ tám của hắn.” Sau đó lại nắm lấy bàn tay Ngọc Diêu. “Tam muội, thật

sự không đáng đâu.”

Mãi một hồi lâu sau, Ngọc Diêu mới khẽ “ồ”

một tiếng, giọng nói nghe mù mịt như làn sương mù: “Muội sẽ không bao giờ nhớ

tới con người đó nữa đâu.” Giọng nói ấy nhẹ nhàng biết mấy, như thể đã chẳng

còn ở nhân gian nhưng lại vô cùng quyết liệt. Nói xong, Ngọc Diêu liền xoay

người lại, đi vào phòng trong, bước chân có chút loạng choạng như một làn khói

mênh mang, rất nhanh đã biến mất phía sau bức bình phong.

Ngọc Ẩn nắm lấy bàn tay tôi, lộ vẻ tự

trách, nói: “Đều tại muội hấp tấp quá!”

Tôi khẽ vỗ vào tay muội ấy tỏ ý an ủi, dịu

giọng nói: “Muội chỉ nói ra những lời mà ta không dám nói thôi, hơn nữa nếu

muội không phải tỷ tỷ của Ngọc Diêu thì chẳng cớ gì lại chịu nói ra những lời

như vậy.”

Ngọc Ẩn gật đầu vẻ thấu hiểu. “Trưởng tỷ

mau về nghỉ ngơi đi, đợi lát nữa còn phải nghe Kính Phi thông báo về sổ sách

tháng này. Muội cũng phải về đây.”

Tôi khẽ gật đầu, nói: “Ta sẽ bảo Hoa Nghi

trông chừng muội ấy cho tốt, trong mấy tỷ muội chúng ta, Ngọc Diêu vốn là người

mà ta yên tâm nhất, chẳng ngờ bây giờ lại khiến ta lo lắng nhất.”

Cuộc sống của Ngọc Diêu lại trở về như

trước, bình lặng như mặt giếng khô. Cái chết của Quản Khê đã khiến thế giới của

Ngọc Diêu hoàn toàn mất đi màu sắc, những tâm trạng như vui vẻ hay buồn thương

đều đã biến mất cả rồi. Tôi thầm hoài nghi thế giới của muội ấy kỳ thực chỉ còn

lại hai màu đen trắng, nhưng đáp lại tôi vẫn chỉ có những tiếng gõ mõ đều đều.

Cái chết của Quản Văn Uyên giống như một

gáo nước lạnh đột ngột giội thẳng xuống hậu cung, chỉ trong mấy ngày, các phi

tần vốn chăm chăm tranh giành đấu đá nhanh chóng dừng mọi động tĩnh, lặng lẽ

cảm nhận những tia ý vị sâu xa mà cái chết kia mang đến. Chẳng bao lâu sau,

điều khiến mọi người trong cung tiếp tục quan tâm là việc Chiêu viện An Lăng

Dung khóc lóc cầu xin cho phụ thân mình.

Sự sụp đổ của nhà họ Quản khiến Huyền Lăng

có lòng chỉnh đốn lại các quan viên, mà An Bỉ Hòe với tội danh vơ vét hơn tám

mươi vạn lạng bạc trắng và mười mấy khoảnh ruộng tốt chính là kẻ bị lôi ra

ngoài ánh sáng trong lần tra xét này.

Lữ Chiêu dung dẫn Thục Hòa đến chỗ tôi,

Thục Hòa nhìn thấy mấy đứa em thì vui vẻ vô cùng, cười khanh khách không ngớt.

Tôi ngồi dưới hành lang chơi đùa với một con vẹt lông trắng. Lữ Chiêu dung

cười, nói: “Muội nhìn con vẹt này xem, màu lông trắng muốt như tuyết vậy, nhưng

không biết lọt vào mắt phụ thân của An Chiêu viện rồi liệu nó có bị nhìn nhầm

thành một khối bạc không nữa.”

“Lữ tỷ tỷ thực biết nói đùa!” Tôi bẻ một

chiếc lá phong lan xuống trêu con vẹt. “Dù là quan thanh liêm đi làm tri phủ

thì sau ba năm cũng phải kiếm được mười vạn lạng bạc trắng, huống chi An Bỉ Hòe

còn là quốc trượng, là ông nhạc của Hoàng thượng cơ mà, tám mươi vạn lạng bạc

có tính là gì đâu!”

Lữ Chiêu dung che miệng cười, nói: “Lão

chắc cũng muốn mình là quốc trượng lắm, nhưng như thế phụ thân của Hoàng hậu

thì tính là gì? Chỉ e cái gọi làquốc trượng đó chỉ là do lão tự phong để lừa lũ

ngốc mà thôi.”

“Nếu không có kẻ ngốc, ai chịu tặng lão

tiền bạc và ruộng tốt? Con gái đắc sủng là quan trọng nhất, ai mà thèm quan tâm

lão là quốc trượng thật hay quốc trượng giả.”

Lữ Chiêu dung đứng dậy khẽ vuốt lông con

vẹt. “Hoàng thượng kỳ thực đâu có coi lão là quốc trượng, vẫn cách chức và cho

giam lại đó thôi. Đang lúc Hoàng thượng tức giận vì chuyện của nhà họ Quản, ai

bảo An Bỉ Hòe tự đâm đầu vào? Mà cái chức tri phủ đó của lão vốn là do Hoàng

thượng nể mặt An thị nên mới phong cho, nhưng An Bỉ Hòe thì được lắm, chẳng

biết xem trọng cái ơn to như trời bể ấy mà đi làm bừa làm bậy, thế chẳng phải

là tát vào mặt Hoàng thượng để làm trò cười cho người khác ư? Với tính cách của

Hoàng thượng thì tất nhiên là không chịu được rồi.” Nàng ta vừa cười vừa cho thêm

chút ngô vào chiếc đĩa trong lồng chim. “Nghe nói An thị đã quỳ bên ngoài Nghi

Nguyên điện tháo trâm thỉnh tội hai ngày rồi, nhưng cô ta không kêu gào như

Quản Văn Uyên mà chỉ lặng im khóc lóc. Độ này trời đã bắt đầu trở lạnh, chỉ

riêng mấy cơn gió kia thổi vào người đã đủ cho cô ta chịu rồi. Nương nương có

muốn đi xem một chút không?”

Tôi vội vàng xua tay, nói: “Thôi, tỷ tỷ chớ

nên tới đó góp vui làm gì, lỡ như Hoàng thượng mềm lòng tha tội cho cha cô ta,

chờ khi cô ta đắc thế trở lại ắt sẽ tìm cách báo thù đấy.”

Lữ Chiêu dung cười, nói: “Vậy ta không đi

nữa là được. Nghe nói người tố cáo An Bỉ Hòe là một gã tiểu lại chấp bút dưới

quyền, chức quan tuy nhỏ nhưng lá gan lại rất lớn, ngay đến phụ thân của sủng

phi trong cung mà cũng dám đụng đến, nhưng qua đó cũng đủ thấy An Bỉ Hòe làm

người chẳng ra sao cả.”

Tôi vẫn khẽ mỉm cười, đúng thế, chỉ là một

gã tiểu lại mà thôi, ngoài tôi và Chu Bội ra, ai mà biết An Bỉ Hòe cũng từng

làm một gã tiểu lại trông coi kho lương dưới quyền phụ thân Chu Bội ba năm

trời. Chỉ sợ ngay đến An Lăng Dung cũng chẳng nhớ ra nổi. Tôi cười nhạt, nói:

“Tỷ tỷ nói rất phải, là tự bản thân lão không biết làm người, lại còn xui xẻo

nữa.”

Thế nhưng đêm đó, khi xe Phượng loan xuân

ân đón tôi đến phòng đông của Nghi Nguyên điện, tôi đã nhìn thấy An Lăng Dung.

Nàng ta lúc này bỏ hết đồ trang sức, đầu tóc buông xõa, những bộ đồ hoặc tao

nhã hoặc diễm lệ thường ngày đã được thay bằng một chiếc áo trắng không hề có

hoa văn, hy vọng có thể chịu tội thay cho phụ thân mình. Nàng ta đã quỳ liền hai

ngày hai đêm, nghe nói chưa ăn uống gì, thân thể lung lay như sắp ngã tới nơi.

Khi đi ngang qua bên cạnh nàng ta, tôi dừng

chân lại, dịu giọng nói: “Muội muội việc gì phải khổ thế này? Xét cho cùng thì

sức khỏe của bản thân vẫn là quan trọng nhất.”

Nàng ta ngoảnh mặt qua nhìn tôi, hờ hững

nói: “Lẽ nào ngay đến một cơ hội tháo trâm thỉnh tội mà tỷ tỷ cũng không chịu

cho muội ư?”

“Sao lại thế được!” Tôi cúi đầu nhìn nàng

ta, tà váy dài thêu hình hoa hải đường lê đi trên mặt đất sát bên chiếc váy của

nàng ta, tựa như một bông hoa diễm lệ nở giữa bùn đất. “Ta chỉ lo lúc này đêm

khuya trời lạnh, muội muội quỳ ở đây sẽ bị ốm thôi, hoặc lỡ như có con chuột

nào đó đột ngột chạy ra cắn muội muội làm muội muội bị sốt rét thì biết phải

làm sao?”

Nàng ta bất giác rùng mình một cái, cố

gượng cười. “Tỷ tỷ nói đùa rồi, nơi này là Nghi Nguyên điện thì làm gì có

chuột.”

“Đúng thế, ta quên mất, chỉ ở trong ngục

mới có chuột thôi. Xem ra ta không nên lo cho muội muội mà phải lo cho An bá

phụ mới đúng.”

Lý Trường bước tới, khom người nói: “Nương

nương, Hoàng thượng đang đợi nương nương trong kia đấy.”

Tôi nhìn An Lăng Dung, ôn tồn nói: “Trời

lạnh quá, muội muội cẩn thận kẻo lại đổ bệnh đấy, giờ ta sẽ đi cầu xin Hoàng

thượng giúp muội.”

Tôi cất bước rời đi, để lại nàng ta một

mình giữa gió sương. Vừa mới bước vào Nghi Nguyên điện, Huyền Lăng đã đưa tay

về phía tôi, khẽ cười, nói: “Nàng làm trẫm phải đợi lâu quá!”

Tôi cất giọng dịu dàng: “Thấy An muội muội

quỳ ngoài kia đáng thương quá, thần thiếp liền khuyên muội ấy mấy câu.”

“Nàng ta chẳng chịu nghe đâu.” Huyền Lăng

khẽ “hừ” một tiếng. “Trong lòng nàng ta lúc này chỉ có gã phụ thân chẳng ra gì

kia thôi. Trẫm đã cho y làm tri phủ, thăng quan cho y, thế mà y lại không biết

nghĩ tới ân đức của trẫm, còn làm trẫm mất mặt.”

Tôi đưa tay khẽ vuốt ve bờ má y. “Hoàng

thượng chớ nên tức giận. An Bỉ Hòe có tệ đến mấy thì cũng chỉ là chuyện của An

Bỉ Hòe, không liên quan gì tới An muội muội. Hoàng thượng hãy bảo muội ấy đứng

dậy đi!”

Huyền Lăng nắm lấy bàn tay tôi. “Tay nàng

lạnh quá, nhất định là vì vừa nãy đã đứng ngoài kia nói chuyện với nàng ta

rồi.” Sau đó liền hà hơi mấy cái vào lòng bàn tay tôi. “Trẫm cũng đâu có muốn

trách phạt gì nàng ta, là nàng ta tự mình quỳ ở đó muốn chịu tội thay cha đó

thôi. Thật chẳng ra thể thống gì cả!”

Tôi tựa đầu vào vai y. “Hoàng thượng chớ

nên trách An muội muội, muội ấy cũng vì nghĩ tới phụ thân nên có chút nôn nóng

mà thôi.” Dừng một chút, tôi lại hỏi: “Liệu Hoàng thượng có định tha cho An Bỉ

Hòe không?”

Y khẽ “hừ” một tiếng. “Tất nhiên là không

rồi. Trẫm sẽ không trút giận lên người nàng ta, nhưng cũng sẽ không vì nàng ta

mà tha cho An Bỉ Hòe.”

“An muội muội đã hai ngày nay không ăn

không uống gì rồi, hơn nữa còn không ngủ không nghỉ, Hoàng thượng không sợ muội

ấy xảy ra chuyện ư?”

Y hơi nhếch khóe môi để lộ một tia lạnh

lùng. “Phi tần tự vẫn là tội lớn, sẽ làm liên lụy tới người nhà. Nàng ta không

dám đâu.”

Lý Trường gõ cửa hai tiếng rồi khẽ bẩm:

“Hoàng thượng, đêm khuya rồi mà Chiêu viện nương nương còn múa bên ngoài điện.”

Huyền Lăng thoáng do dự, cuối cùng vẫn cất

bước ra ngoài.

Chỉ thấy trên bậc thềm trước điện, An Lăng

Dung đang nhẹ nhàng múa điệu Kinh Hồng, mái tóc dài lả lướt tung bay, tà váy

hệt như một bông hoa nở rộ, đôi tất trắng ngần dưới chân để mặc cho những giọt

sương thu thấm ướt.

Tôi thầm kinh hãi. Trong ký ức, Huyền Lăng

không thể nào kháng cự lại điệu múa này.

“Đẹp! Đẹp quá!” Y cất tiếng khen tự đáy

lòng, thần thái như si như mê, giữa đôi hàng lông mày là vẻ tán thán và một nét

nhớ nhung nồng đậm.

Tôi khẽ nói: “Đáng tiếc.” Y ngoảnh đầu lại

nhìn tôi. Tôi đứng dưới ánh trăng, lẩm bẩm nói một mình: “Một điệu múa đẹp thế

này vốn không nên dính dáng gì tới những sự khao khát mong cầu. Nếu nhảy múa

với một mục đích gì đó, vậy là đã đánh mất đi cái chân ý của Thuần Nguyên Hoàng

hậu khi sáng tác ra điệu múa này rồi.”

Sau một hồi lâu trầm lặng, Huyền Lăng mới

khẽ nói: “Thuần khiết, đó mới là điều mà một điệu múa cần có nhất.” Sau đó, y

liền cầm lấy một chiếc áo khoác lên người An Lăng Dung, cất giọng hững hờ đáp

lại ánh mắt chan chứa nỗi chờ mong của nàng ta: “Nửa đêm trời lạnh, đưa Chiêu

viện về đi.” Chẳng buồn quan sát nỗi thất vọng nặng nề trong mắt nàng ta, y nói

tiếp: “Trẫm bây giờ mới chỉ giam An Bỉ Hòe lại, nếu nàng còn cầu xin nữa, trẫm

nhất định sẽ giết ông ta.”