Hậu Cung Chân Hoàn Truyện

Quyển 6 - Chương 25: Áo xanh phất phới bay theo gió

Giữa làn gió hiu hiu thổi nhẹ, Thượng Lâm

uyển dần đượm sắc xuân, những bông hoa đào thấm nước mưa càng thêm kiều diễm,

đôi nhành liễu hơi nhú lộc non, khắp nơi đều là vẻ mơn mởn tươi mới, đẹp như

trong tranh. Mới thoáng đó mà bây giờ đã là đầu tháng Ba rồi.

Hôm ấy tôi bế Linh Tê và Dư Hàm tới chỗ

Thái hậu thỉnh an, mỗi dịp đông đến, bệnh cũ của Thái hậu đều phát tác, khi vào

xuân mới dần đỡ hơn. Những lần như vậy, Tôn cô cô thường cất lời than vãn: “Nếu

không phải năm xưa bị phế Hậu và Ngọc Ách phu nhân liên thủ với nhau làm nhục,

Thái hậu bây giờ đã chẳng như vậy rồi.”

Khi tôi tới Di Ninh cung thì Hồ Chiêu nghi

đã ở đó rồi, đang cùng Hòa Mục Công chúa ngồi bên cạnh Thái hậu ân cần trò

chuyện, mà càng hiếm có hơn là Hoàng hậu cũng có mặt. Thái hậu xưa nay vốn

không thích Hoàng hậu lắm, rất ít khi gọi nàng ta tới hầu hạ, tôi thấy cảnh này

thì không khỏi thầm ngạc nhiên, xem ra hôm nay là ngoại lệ rồi.

Bởi vì mùa xuân đã tới, rèm cửa sổ trong

cung của Thái hậu nhất loạt được đổi thành loại rèm cánh ve mỏng tang, gần như

có thể nhìn xuyên thấu qua được để thấy cảnh xuân bên ngoài, vừa có cái vận vị

của cảnh mây khói đất Giang Nam lại vừa mang theo mấy nét mông lung, mờ ảo,

khiến người ta bất giác mê mẩn, đắm say.

Trên chiếc bàn chân ngắn bên cạnh Thái hậu

có mấy bông nghênh xuân vừa hái được cắm trong một chiếc bình sứ hai màu đỏ

trắng đan xen, những cánh hoa đều mỏng manh và mang màu vàng nhạt, nhìn hết sức

tươi mới, thanh tân.

Thái hậu nở một nụ cười vui vẻ, tay chống

cằm ngắm hoa. “Rốt cuộc đã tới mùa xuân rồi, ngắm những bông hoa này, lòng ta

cũng thấy dễ chịu hơn không ít.”

Hồ Chiêu nghi cười ngọt ngào, nói: “Nếu

Thái hậu thích, mỗi ngày thần thiếp đều sẽ sai người chọn những bông hoa đẹp

nhất đưa tới đây cho Thái hậu ngắm.”

Thái hậu vén mấy sợi tóc rối ra sau tai,

mỉm cười, nói: “Rốt cuộc vẫn là con hiếu thảo.”

Hoàng hậu đưa tay khẽ xoa đầu Hòa Mục, cười

nói: “Nào chỉ có mình Uẩn Dung hiếu thảo, Hòa Mục mỗi lần tới chỗ Thái hậu đều

tươi cười ngọt ngào thế này, rõ ràng là cũng hiếu thảo lắm đấy chứ!”

Thái hậu hơi nhếch khóe môi coi như nở nụ

cười, không nhìn Hoàng hậu mà quay sang nhìn tôi. “Hoàng thượng gần đây vẫn

ngày ngày quanh quẩn ở chỗ An thị đúng không?”

Tôi vội vàng đứng dậy thưa: “Dạ, không hẳn

là ngày ngày, thỉnh thoảng cũng có qua chỗ Chiêu nghi và các phi tần khác.”

Thái hậu hơi cụp mắt xuống, cất giọng hững

hờ vẻ như đang hỏi tới một chuyện chẳng hề quan trọng: “Vậy y tới chỗ Thục viện

và Trinh Quý tần được mấy lần?”

Tôi thoáng lộ vẻ lúng túng, cười trừ, đáp:

“Thục viện đang có thai, Trinh Quý tần thì đang mang bệnh nên cũng không tiện

hầu hạ, có điều Hoàng thượng vẫn thường xuyên tới chỗ bọn họ trò chuyện tâm

tình.”

Thái hậu khẽ “hừ” một tiếng, chậm rãi đứng

dậy. “Con không cần che giấu cho Hoàng thượng làm gì. Bệnh của Trinh Quý tần là

từ đâu mà ra trong lòng mọi người đều rõ cả, nàng ta lại là thân mẫu của nhị

Hoàng tử, Hoàng thượng vốn nên tới chỗ nàng ta nhiều một chút, vừa là để làm

tăng thêm tình cảm cha con vừa là để nàng ta yên lòng, như thế nàng ta mới mau

mau khỏi bệnh được.”

Hoàng hậu rót một chén canh ngân nhĩ đưa

tới cho Thái hậu, khẽ cười, nói: “Hoàng thượng vẫn thường xuyên tới chỗ Thục

phi ngồi chơi, do đó tam Hoàng tử bây giờ gần gũi với Hoàng thượng lắm.”

Lòng tôi bất giác nhói lên một cái, đang

định cất lời thì Thái hậu đã khẽ mỉm cười. “Như vậy mới tốt chứ. Hoàng thượng

giờ chỉ có ba đứa con, vốn nên gần gũi với tất cả chúng nó, nếu có thời gian

rảnh để tự mình dạy chúng đọc sách cưỡi ngựa thì càng tốt.” Hơi dừng một chút,

bà ta nhìn quanh mọi người, thở dài than: “Ai ai cũng nói hoàng gia phú quý,

nhưng họ đâu hay con cháu hoàng gia cũng có nỗi khổ riêng, vừa phải tuân thủ

quy củ vừa phải giữ đạo quân thần, tình cha con vì thế mà trở nên hời hợt, thực

là trái với cái lẽ luân thường. Các con cứ nhìn Hoàng trưởng tử bây giờ thì rõ,

cứ gặp phụ hoàng của nó là lại giống như chuột thấy mèo, thực là đáng thương.”

Hoàng hậu vội vàng đưa chén canh trong tay

về phía trước thêm một chút, cất giọng kính cẩn: “Tất thảy đều là lỗi của thần

thiếp, không thể dạy dỗ Hoàng trưởng tử cho tốt.”

Thái hậu không hề đón lấy, chỉ tiện tay

ngắt một bông nghênh xuân, hờ hững nói: “Đó tất nhiên là lỗi của con rồi. Ai

gia biết con chỉ có duy nhất một đứa con nuôi này, khó tránh khỏi kỳ vọng quá

cao, thứ nhất là quá mức nuông chiều, mọi thứ cần dùng thường ngày đều sai

người đưa tới tận tay, làm nó mất đi sự tự lập của một đấng nam nhi; thứ hai là

mỗi ngày con đều bắt nó đọc quá nhiều sách, lại còn phải tập cưỡi ngựa bắn

cung, mãi đêm khuya mới được ngủ, thực đã làm tổn hại đến cái căn bản của nó.”

Chén canh ngân nhĩ bốc hơi nghi ngút ngay trước mặt Thái hậu, làn nước sóng

sánh phản chiếu khuôn mặt có chút mờ ảo của bà ta. “Con có nhiều thời gian như

thế, chẳng bằng hãy chịu khó dạy dỗ các phi tần trong cung để bọn họ sinh con

đẻ cái cho Hoàng thượng, nối dài dòng dõi cho hoàng gia.”

Hoàng hậu vẫn bình thản như thường, mỉm

cười, nói: “Mẫu hậu dạy dỗ rất phải, con xin ghi nhớ kĩ.”

Hồ Chiêu nghi hai mắt sáng quắc, cười tươi,

nói: “Hoàng hậu nương nương đã làm được cả rồi mà, không phải là vừa tiến cử An

Chiêu viện đó sao? Biểu ca có vẻ rất vừa ý đấy!” Sau đó liền nhìn Hoàng hậu

chăm chú. “Vẫn là biểu tỷ hiểu tâm ý của biểu ca nhất.”

Vừa khéo lúc này Tiễn Thu vén rèm bưng theo

hoa quả tươi đi vào, nghe thấy thế liền cười tủm tỉm, nói: “Giọng Chiêu nghi

nương nương nghe thật hay quá, cứ như là tiếng hót của hoàng oanh vậy, khiến nô

tỳ nghe mà mê mẩn. Chỉ là cái gì mà biểu ca, biểu tỷ thật rắc rối quá, làm nô

tỳ cứ thấy đau đầu.” Thị hơi khom người một chút, sau đó mới lại tiếp: “Hoàng

thượng là biểu ca của Chiêu nghi, cứ như vậy mà xét, Chiêu nghi không phải nên

gọi nương nương nhà nô tỳ một tiếng biểu tẩu sao?”

Hồ Chiêu nghi đưa mắt lườm Tiễn Thu một

cái, ngay sau đó đã lại nở nụ cười. “Gọi biểu tẩu làm sao thân mật bằng biểu tỷ

được, dù sao cũng đều là người một nhà, lẽ nào Tiễn Thu ngươi muốn bản cung xa

lánh Hoàng hậu biểu tỷ sao?”

Tiễn Thu vội nói: “Nô tỳ không dám...”

“Thị tất nhiên không dám rồi.” Thái hậu

chợt cất tiếng cắt ngang lời của Tiễn Thu, rồi liền quay sang nhìn Hồ Chiêu

nghi, nói: “Chỉ là cung đình có quy củ của cung đình, con dù sao cũng là phi

tần, chớ nên suốt ngày gọi “biểu ca, biểu tỷ” nữa, kẻo khiến người ta cho rằng

Tấn Khang và ai gia nuông chiều con quá thành hư.”

Hồ Chiêu nghi ngượng ngùng cười khẽ, đáp

“dạ” một tiếng, sau đó lại cất giọng nũng nịu: “Hài nhi hiểu rồi.”

Thái hậu đưa mắt nhìn qua phía Hoàng hậu

lúc này vẫn đang kính cẩn đứng hầu, chậm rãi nói: “Ai gia biết con muốn làm một

người vợ hiền thục, có điều cũng chớ nên dung túng cho Hoàng thượng quá. Con

tiến cử An thị cố nhiên là muốn lấy lòng Hoàng thượng, nhưng cũng cần phải có

chừng mực mới được, chiều ý Hoàng thượng thì không sai, song lại càng nên

khuyên y giữ gìn thân thể.”

Hoàng hậu hai má ửng hồng, vội vàng thưa:

“Con nhất định sẽ chú ý.”

Thái hậu chăm chú nhìn nàng ta một lát,

thần sắc dần trở lại bình thường, chỉ tay vào chiếc ghế tử đàn trổ hoa bên

cạnh, nói: “Ngồi đi, ai gia còn có việc này muốn hỏi con. Đoan Phi và Kính Phi

đều đã vào cung hầu hạ Hoàng thượng từ rất lâu rồi, mãi không được tiến phong

thì thôi cũng đành, dù sao cũng đã là một trong Tam phi, có điều Tam phi tới

giờ vẫn còn trống một vị trí, lẽ nào con muốn bỏ đó để chờ An thị hay sao?”

Hoàng hậu vội vàng đứng dậy cười trừ, nói:

“Con không dám, con tiến cử An thị kỳ thực cũng chỉ là vì muốn Hoàng thượng

được thư thái một chút thôi. An thị phúc bạc đến giờ vẫn chưa mang thai, phong

làm Chiêu viện đã là quá mức rồi, con nhất định sẽ trông chừng cẩn thận, không

để cô ta nảy sinh suy nghĩ quá phận.”

Thái hậu khẽ gật đầu, đưa tay vuốt ve khuôn

mặt mũm mĩm, non nớt của Hòa Mục vẻ đầy trìu mến, miệng thì nói: “Uẩn Dung đã

sinh được Hòa Mục, cũng nên tấn phong làm Phi rồi.”

Hồ Uẩn Dung hơi mím môi lại, mỉm cười cụp

mắt xuống, nhưng khuôn mặt thì lộ rõ vẻ mừng rỡ, chậm rãi đứng dậy cung kính

nói: “Đa tạ Thái hậu thương yêu.”

Thái hậu khẽ cười uể oải, lại tựa người vào

chiếc gối sau lưng, chậm rãi nói: “Vậy Thục phi hãy bắt tay vào chuẩn bị luôn

đi.”

Dõi mắt nhìn Hoàng hậu rời khỏi Di Ninh

cung, tôi và Hồ Chiêu nghi cũng đồng loạt đứng dậy cáo từ. Hòa Mục đang tuổi

hiếu động ưa náo nhiệt, nhìn thấy Linh Tê có lý nào chẳng thích, liền tò mò

trêu chọc tiểu muội không ngừng, miệng thì vui vẻ cười vang khanh khách.

Thấy Hòa Mục như vậy, tôi và Hồ Chiêu nghi

cũng không tiện lập tức tách nhau ra. Về cung cũng đã được một thời gian, nhưng

tôi chưa từng đi cùng với nàng ta thế này bao giờ, tranh thủ lúc đầu xuân cảnh

đẹp, hai chúng tôi liền chậm rãi đi về hướng hồ Thái Dịch, thỉnh thoảng lại tán

gẫu chuyện con cái.

Bờ nam của hồ Thái Dịch nhiều ánh dương

nhất, những bông liễu trắng xóa phất phơ bay, nhìn từ xa cứ như là có tuyết rơi

vậy. Hồ Chiêu nghi vốn đang kể với tôi về những chuyện thú vị của Hòa Mục hồi

nhỏ, nhìn thấy những bông liễu đó thì không kìm được dừng chân lại, xoay người

định đi.

Tôi cười, nói: “Sắc trời đang đẹp, tơ liễu

phất phơ bay, sao Chiêu nghi không ở lại đây cùng ngắm cảnh?”

Hồ Chiêu nghi đột nhiên để lộ một tia chán

ghét, xoay người đi luôn. “Ta ghét nhất là cây liễu, như hoa mà chẳng phải hoa,

là cây mà không cứng cỏi, chỉ biết đung đưa theo gió, chẳng có chút khí tiết

nào.”

Tôi không biết cớ sao nàng ta lại đột nhiên

giận dữ như vậy, vừa khéo lúc này một cơn gió thổi tới, khiến vô số bông liễu

bay về phía chúng tôi. Hồ Chiêu nghi lập tức biến sắc mặt, Quỳnh Chi thì kinh

hãi kêu lên một tiếng, vội vàng bước lên chắn trước người nàng ta, kéo cả khuôn

mặt nàng ta vào lòng mình, bộ dạng như gặp phải đại địch.

Tôi còn chưa biết là có chuyện gì xảy ra,

nhìn quanh bốn phía, thấy chỉ có tơ liễu phất phơ bay, hết sức đẹp mắt. Một hồi

lâu sau, tơ liễu bị gió thổi tan đi cả, Quỳnh Chi dần yên tâm, vừa xoa vai Hồ

Chiêu nghi vừa nói: “Tiểu thư, ổn rồi, ổn rồi.”

Hồ Chiêu nghi tới lúc này mới dám ngẩng đầu

lên, bộ dạng còn chưa hết kinh hồn, đang định mở miệng nói gì thì mấy bông liễu

nhỏ vừa bị gió thổi đậu trên cành cây đột nhiên rơi xuống đậu vào chóp mũi nàng

ta. Hồ Chiêu nghi vốn còn đang hít thở nặng nề, sắc mặt lập tức trở nên trắng

bệch, sau đó thì dần trở nên tím tái, lồng ngực không ngớt phập phồng, dường

như vô cùng khó chịu.

Biến cố đột ngột xảy ra, Linh Tê trong lòng

tôi bị bộ dạng của Hồ Chiêu nghi làm cho kinh sợ, không kìm được khóc ré lên.

Tôi vội vàng giao con bé cho nhũ mẫu, bước tới đỡ lấy Hồ Chiêu nghi lúc này còn

không đứng vững nổi, kinh hãi thốt lên: “Chiêu nghi sao vậy?”

Quỳnh Chi sợ đến nỗi sắc mặt tái mét, nhưng

vẫn còn khá trấn định, vội vàng giật chiếc túi nhỏ thêu hình uyên ương mà Hồ

Chiêu nghi đeo bên hông xuống đưa lên mũi nàng ta, nôn nóng nói: “Tiểu thư mau

hít sâu mấy hơi đi.”

Tôi loáng thoáng ngửi thấy có mùi bạc hà

mát rượi, ngoài ra còn có một chút mùi thảo dược. Hồ Chiêu nghi hít sâu liền

mấy hơi, thần sắc đã dần tốt hơn một chút. Quỳnh Chi vội vàng kêu hai cung nữ

khỏe mạnh tới đỡ nàng ta lên kiệu, sau đó lập tức đi về hướng Yến Hy điện. Tôi

không yên tâm, vội bảo nhũ mẫu bế Linh Tê về, mình thì ngồi kiệu đi theo bọn

họ.

Yến Hy điện nằm giữa một vùng cảnh sắc

tuyệt diệu trong Thượng Lâm uyển, xung quanh bát ngát cây cối, nhưng không hề

có những loài cây có bông tơ như liễu, hợp hoan, ngô đồng. Bên ngoài điện trồng

đầy những loại hoa phú quý như mẫu đơn, thược dược, chính điện cao lớn xa hoa,

không hề thua kém Mật Tú cung của Hoa Phi năm nào.

Hồ Chiêu nghi nhếch nhác quay về, lập tức

có cung nữ tùy thân bước tới đỡ nàng ta vào trong điện, phía bên ngoài Quỳnh

Chi nôn nóng thúc giục: “Mau mang canh dơi tới đây!” Lời còn chưa dứt, một bát

thuốc nóng hổi đã được bưng tới, nước thuốc tỏa mùi tanh nồng. Quỳnh Chi đón

lấy bát thuốc mang vào trong cho Hồ Chiêu nghi uống, lại lấy từ trong ngăn kéo

bên dưới bàn trang điểm ra hai viên thuốc đen bóng cho nàng ta dùng, sau đó thì

kêu một tiểu cung nữ đi nhỏ ít dầu bạc hà vào trong lò hương. Tôi nhìn Quỳnh

Chi chỉ huy gọn gàng đâu ra đó, cảm thấy thị có vẻ đã rất quen với việc này.

Sau một hồi bận rộn, thần sắc Hồ Chiêu nghi rốt cuộc đã khôi phục được phần

nào, không còn tái mét, đáng sợ như vừa rồi nữa. Lúc này vị thái y vốn hầu hạ

Hồ Chiêu nghi thường ngày là Tỉnh Như Lương cũng đã tới, sau khi vội vã hành lễ

với tôi liền đi tới bắt mạch cho Hồ Chiêu nghi. Bắt mạch xong xuôi, y mới thở

phào một hơi, cười nói: “May mà có cô cô chăm sóc kịp thời, nương nương đã

không còn gì đáng ngại nữa rồi.”

Quỳnh Chi tới lúc này mới chậm rãi nở nụ

cười, đưa tay xoa ngực, nói: “Cũng là nhờ Tỉnh thái y y thuật tinh thâm nữa,

phương thuốc mới này quả là rất hữu hiệu.” Tỉnh thái y khiêm tốn nói: “Cô cô

quá khen rồi, ta cũng chỉ dốc hết sức mình thôi. Có điều trong mùa này nương

nương nhất định phải thật cẩn thận mới được.”

Tôi nở nụ cười tươi. “Vừa rồi bản cung nhìn

mà tim đập chân run, may mà Chiêu nghi cuối cùng không sao cả. Chẳng hay đây

rốt cuộc là bệnh gì vậy? Sao khi phát tác lại ghê gớm như thế?”

Quỳnh Chi khom người một cái thật sâu, cười

tươi, nói: “Đa tạ Thục phi nương nương quan tâm, hôm nay nếu không có nương

nương, chỉ e nô tỳ đã không thể đưa tiểu thư về cung nhanh như thế. Còn về căn

bệnh này của tiểu thư thì đã có từ trong bụng mẹ rồi, thỉnh thoảng lại phát

tác, bấy lâu nay nô tỳ hầu hạ đã quen, do đó cũng không sợ lắm.”

Tôi biết Quỳnh Chi không muốn nói nhiều, mà

Tỉnh Như Lương cũng câm bặt như hến, thế là chỉ mỉm cười an ủi: “Thì ra là bệnh

cũ phát tác, xem ra bản cung không nên tới đây cho thêm rắc rối, chỉ là thực

không đành lòng khoanh tay đứng nhìn. Bây giờ Chiêu nghi đã không sao rồi, bản

cung cũng có thể yên tâm rời đi. Chiêu nghi hãy chú ý nghỉ ngơi cho tốt.”

Quỳnh Chi mỉm cười cảm tạ, tiện tay với một

chiếc áo khoác trên giá xuống, khoác lên người cho Hồ Chiêu nghi, đỡ nàng ta

vào nội điện.

Bỗng một luồng gió từ bên ngoài điện thổi

vào, tôi nhìn thấy trên chiếc áo khoác ngoài màu xanh lam bị gió thổi tung bay

của Hồ Chiêu nghi có hình thêu một con chim địch bằng chỉ bảy màu, thoạt nhìn

giống hệt phượng hoàng, không kìm được hơi sững người ra. Quỳnh Chi ngoảnh đầu

lại thấy tôi chăm chú nhìn về hướng đó, bất giác hơi cau mày, rồi liền nhanh

chóng cười nói: “Kim Nhi, mau qua đây đưa tiễn Thục phi nương nương.”

Tôi bám vào tay Hoán Bích bước ra khỏi Yến

Hy điện, sai người mang kiệu về trước, sau đó liền chọn lấy một con đường yên

tĩnh mà vừa đi vừa ngẫm nghĩ.

Lúc này sắc xuân tươi đẹp, cành lá xanh um,

khiến người ta cảm thấy hết sức dễ chịu. Tôi đang suy nghĩ đến nhập thần, phía

trước mặt chợt có một người bước ra, làm tôi giật nảy mình. Ngẩng lên tôi nhìn

thấy một nam tử không hề quen mắt, tuổi vừa đôi mươi, phía sau bộ áo gấm hoa lệ

là một đôi mắt sâu thẳm hoàn toàn không phù hợp với tuổi tác. Tỉ mỉ nhìn kĩ,

tôi thấy những đường nét trên khuôn mặt y có mấy phần tương tự với Huyền Lăng

và Huyền Thanh, chính là ấu tử của tiên đế - Bình Dương Vương Huyền Phần. Y

cung tay điềm đạm nói: “Thục phi nương nương.”

Vì quan hệ giữa y với Huyền Thanh nên tôi

bất giác sinh ra cảm giác gần gũi, liền ôn tồn nói: “Chào cửu đệ.”

Tôi gọi y cửu đệ như vậy có thể nói là tỏ

rõ sự thân mật, hoàn toàn là bằng giọng của một người tỷ tỷ gọi tiểu đệ. Y cảm

nhận được sự ôn hòa và thân thiết của tôi, cặp mắt bất giác sáng lên mấy phần,

hơi nhếch môi mỉm cười khe khẽ, để lộ những chiếc răng trắng bóng. Y vốn có bộ

dạng hơi lạnh lùng, sau khi cười lên liền như tỏa ra những làn nắng xuân ấm áp,

khiến người ta cảm thấy rất dễ chịu. Trên người y lúc này là một bộ quần áo màu

xanh lam kẻ ô vuông, ngoài sự cao quý của một bậc thân vương còn để lộ ra mấy

tia anh khí của một thiếu niên lang đang độ tuổi thanh xuân bừng bừng sức sống.

Y lại cung tay lần nữa, khẩu khí nghe chừng

đã thân thiết hơn hẳn: “Chào Thục phi tẩu tẩu.”

Tôi khẽ cười, nói: “Cửu đệ là đệ đệ ruột

của Hoàng thượng, ta cũng không câu nệ lễ tiết làm gì, xin mạo muội gọi tiếng

cửu đệ.” Sau khi quan sát y một chút, tôi mỉm cười, nói tiếp: “Trời hãy còn

lạnh, sao cửu đệ lại ăn mặc phong phanh thế này? Nên mặc thêm chút y phục nữa

vào mới phải!”

Y thành khẩn nói: “Đa tạ Thục phi tẩu tẩu

quan tâm, vừa rồi mẫu phi cũng có dặn dò tiểu đệ việc này. Chỉ là Huyền Phần

cảm thấy ấm no quá mức sẽ làm nhụt chí người ta, do đó mới cố tình ăn mặc như

vậy.”

Tôi gật đầu khen ngợi: “Quá phú quý thường

dễ làm con người ta sa đọa, cửu đệ có thể suy nghĩ được như vậy đúng là rất

tốt. Có điều sức khỏe dù sao vẫn là quan trọng nhất, lỡ chẳng may đổ bệnh, dù ý

chí có kiên cường đến mấy thì cũng ích gì đây?”

Y thoáng lộ vẻ cảm kích: “Đa tạ Thục phi

tẩu tẩu quan tâm.”

Khi y cười cặp mắt sáng lấp lánh như sao,

tôi nhìn mà bất giác lòng thầm máy động, nghĩ bụng cặp mắt này của Huyền Phần

thực giống Ngọc Nhiêu quá chừng.

Tôi biết y vào cung là để thỉnh an Trang

Hòa Đức thái phi, vì thế liền hỏi thăm xem độ này thái phi ăn uống, ngủ nghỉ

thế nào. Đang lúc trò chuyện, chợt có một nữ tử vận xiêm y màu vàng nhạt chạy

về phía tôi, vừa chạy vừa cười tươi thánh thót, khiến người ta nghe mà bất giác

thầm cảm thấy thư thái dễ chịu. Sau khi chạy tới trước mặt tôi, muội ấy kéo tay

tôi, cười nói: “Tỷ tỷ làm muội phải tìm vất vả quá, tỷ mà còn không về là Hàm

Nhi sẽ khóc đấy!”

Huyền Phần thấy có người ngoài tới, vội lùi

về phía sau một bước, cúi đầu, nói: “Vị này tiểu đệ chưa từng gặp mặt, không

biết là...” Tôi thấy y như vậy thì biết là y ngờ rằng Ngọc Nhiêu là cung tần

mới được Huyền Lăng nạp vào cung, bất giác bật cười, kéo Ngọc Nhiêu lại, nói:

“Cửu đệ không cần khách sáo, đây là tiểu muội nhà ta, tạm thời ở trong cung bầu

bạn với ta. Nha đầu này còn ít tuổi chưa hiểu chuyện, chẳng mấy khi ra ngoài đi

lại, khó trách cửu đệ lại thấy lạ mắt.”

Ngọc Nhiêu xưa nay vốn lanh lợi, sao không

đoán ra suy nghĩ của Huyền Phần, bất giác đỏ bừng hai má, giậm chân cười lạnh,

nói: “Chẳng lẽ chỉ cần là người có chút nhan sắc thì đều phải gả cho vị hoàng

huynh đó của ngươi sao? Ta cứ không như thế đấy!”

Huyền Phần chắc hẳn chưa từng gặp người nào

ăn nói không biết kiêng kỵ như vậy, liền kinh ngạc ngẩng đầu lên, ánh mắt vừa

tiếp túc với khuôn mặt xinh đẹp của Ngọc Nhiêu thì lập tức sững sờ, sắc mặt

nhanh chóng đỏ lựng, lại vội vàng cúi gằm xuống.

Tôi kéo tay Ngọc Nhiêu lại, khẽ trách: “Cái

gì mà gả với không gả chứ, con gái con nứa mà ăn nói chẳng biết ý tứ gì cả.”

Dứt lời liền quay qua phía Huyền Phần, cười nói: “Tiểu muội nhà ta trưởng thành

ở đất Thục, còn chưa hiểu quy củ trong cung, mong cửu đệ chớ nên chê cười.” Sau

đó lại giục Ngọc Nhiêu: “Còn không mau bái kiến cửu Vương gia đi.”

Ngọc Nhiêu vốn rất giận Huyền Lăng, dù đã

vào cung rồi cũng chỉ cùng Ngọc Diêu ở trong Vị Ương cung cả ngày, chưa từng

chạm mặt Huyền Lăng lần nào, lúc này cơn giận còn chưa tan, thế là liền trút

giận lên người Huyền Phần vốn là ấu đệ của Huyền Lăng. Muội ấy chỉ hành lễ qua

loa một chút, rồi mỉm cười, nói: “Cũng khó trách Vương gia lại nhận nhầm, chắc

hẳn những nữ tử hơi có chút nhan sắc trong cung đều nhận được ơn mưa móc của

Hoàng thượng, do đó Vương gia mới có phán đoán này.”

Thấy Ngọc Nhiêu nói năng vô phép như vậy,

tôi không kìm được trầm mặt xuống, quát khẽ: “Càng ngày càng càn rỡ hơn rồi!”

Huyền Phần không hề khó chịu, chỉ cười điềm

đạm, nói: “Vậy thì cũng cần cô nương phải thực sự có nhan sắc mới được, chứ nếu

là hạng như Đông Thi thì Huyền Phần đã chẳng phán đoán bậy bạ rồi.” Y hơi ửng

hồng đôi má, bên khóe miệng thoáng hiện nụ cười. “Cô nương tâm cao khí ngạo như

vậy, ngay đến sự phú quý của phi tần cũng chẳng để vào trong mắt, chắc hẳn chỉ

có những bậc tài danh như lục ca mới lọt được vào mắt cô nương.”

Ngọc Nhiêu còn chưa xuất giá, không kìm

được thẹn đến mặt đỏ tía tai, liền đưa mắt liếc y mấy cái rồi cười lạnh, nói:

“Sao lại chỉ có những nam tử tông thất hoàng tộc mới là tốt thế? Hay là tất cả

nữ tử trong thiên hạ đều phải vào cửa hoàng tộc thì mới có thể an tâm vui vẻ?

Vị Thanh Hà Vương kia danh tiếng đúng là lớn thật, nhưng Chân Ngọc Nhiêu ta

chưa chắc đã để vào lòng. Ngày sau nếu có người nào ta nhìn vừa mắt, dù là ăn

mày ta cũng chịu gả, nhưng cửa son thịt để ôi, ngoài đường xương chết buốt[39],

những chuyện đen tối trong chốn cung cấm quan trường thật sự quá nhiều, ta thà

gả cho hạng thất phu sống qua loa cả đời cũng quyết không bước chân vào cửa

cung đình hay vương phủ nửa bước!”

[39]

Trích Tự kinh phó Phụng Tiên huyện vịnh hoài ngũ bách tự, Đỗ Phủ. Dịch thơ

Khương Hữu Dụng. Nguyên văn Hán Việt: Chu môn tửu nhục xú, lộ hữu đống tử cốt -

ND.

Hoán Bích thấy Ngọc Nhiêu đã thật sự nổi

giận, lời lẽ cử chỉ quá ư thất lễ, Huyền Phần thì trước giờ vốn tính tình quái

dị, rất ít khi qua lại với người ta, cũng chẳng có giao tình gì với Nhu Nghi

điện, bất giác sợ đến tái mặt, vội bịt miệng Ngọc Nhiêu lại, đồng thời cười,

nói: “Tam tiểu thư chắc là vừa uống chút rượu, bây giờ hơi rượu xộc lên, Vương

gia chớ trách!”

Huyền Phần hơi cúi đầu, bên khóe miệng

thoáng hiện một nụ cười mỉm, cung tay, nói: “Thực thất lễ quá, là tại hạ đã coi

thường cô nương rồi.”

Ngọc Nhiêu vốn mau mồm mau miệng, sau khi

nói xong thì hối hận vô cùng, khuôn mặt bất giác đỏ bừng, không nói gì thêm

nữa, xoay người rời đi luôn. Hoán Bích thấy không kéo lại được, chỉ đành vội vã

đuổi theo sau.

Tôi thầm thở phào một hơi, ôn tồn nói:

“Tiểu muội nhà ta xưa nay vẫn luôn như vậy, ăn nói chẳng chịu suy nghĩ, không

phải là cố ý bất kính đâu, mong Vương gia chớ trách.”

Huyền Phần mỉm cười điềm đạm, mắt nhìn một

chiếc lá non mới nhú màu vàng nhạt trên cành đến ngẩn ngơ, dường như chẳng hề

nghe thấy những lời vừa rồi của tôi