Hậu Cung Chân Hoàn Truyện

Quyển 2 - Chương 18: Hoa lê

Đầu tháng tư vốn là mùa hoa hải đường nở, trong Đường Lê cung trời

vẫn còn lạnh, phía sau đình viện hoa lê đã nở rộ hết. Vì vết thương trên mặt tôi vẫn chưa khỏi hẳn nên không tiện đi lại, cũng vì có thai gần

hai tháng, thân thể ngày càng phì nhiêu, suốt ngày ngồi trên giường hoặc là ngủ để giết thời gian. Khi Huyền Lăng đến bầu bạn với tôi, cùng lắm

chỉ nói chút chuyện vui cho tôi cười vì theo thái y dặn dò, chàng không

nên ngủ lại trong cung của tôi. Thay vào đó, chàng hay ở chỗ của Hoa phi hoặc ở chỗ của Thuần nhi, thỉnh thoảng cũng triệu hạnh phi tần khác.

Châu ngọc lụa là các loại lúc nào cũng được đưa tới cung của tôi khiến

cho Tiểu Duẫn Tử thường đùa: “Hoàng thượng mà ban vật gì xuống dưới,

đừng nói nô tài chúng ta làm việc trôi chảy, ngay cả trong cung cũng

không thể lơ là được.” Vì thế tôi chỉ lấy ra vài vật lưu trữ ngắm cảnh

mà tôi đặc biệt yêu thích, ấn vị phân thì đem tặng hoàng hậu phi tần,

còn lại cố ý để Lục Hiên tạm thời làm nơi chứa đồ.

Hôm nay thời tiết sáng sủa tươi đẹp, mới gội đầu còn chưa khô, tôi tự

dưng nghĩ ra cách chỉ dùng một đôi trâm tử thủy tinh tân nguyệt để cài

đầu. Sau khi dùng keo liền sẹo của Lăng Dung đã tặng để bôi lên vết

thương, tôi lấy một tấm khăn lụa mỏng để che mặt. Khăn lụa kín đáo, có

thể che gió lại không sợ bị thứ gì khác dính vào vết thương.

Tôi sai người đem ghế quý phi tới tàng cây lê sau đường, nhàn nhã ngồi

thêu cái yếm trẻ con, cây lựu đỏ cùng hoa hạnh màu hồng ở cạnh nhau,

thêu ra trăm tử trăm phúc đa dạng, mỗi một đường chỉ là tôi lại gửi gắm

niềm vui của người sắp làm mẹ tới đứa con trong bụng. Thêu được mấy

đường, khoé miệng tôi bất giác cong lên mỉm cười một cách vui sướng.

Thêu tới lúc mệt, tôi đưa mắt nhìn hoa lê nở rộ như mây trắng bồng

bềnh, những nụ hoa cùng đoá hoa trắng như tuyết trên cành trông rất đẹp, ánh lên vải lụa đỏ rực của xiêm y tôi đang mặc tạo ra một tia màu hồng

dị thường loá mắt. Mỗi lần gió thổi qua là những đóa hoa đó liền lay

động như bướm trắng phiêu diêu bay lại, toả ra mùi hương qua mũi, dừng

lại trên áo, giống như một hạt tuyết đọng vậy.

Có đứa bé đang dần lớn lên từng ngày ở trong bụng khiến trong lòng tôi

vui vẻ bội phần, ngay cả màu sắc trên xiêm y cũng đã thay đổi. Trước đây tôi thích màu nhẹ nhàng, tao nhã nhưng nay lại thích màu đỏ, như là

niềm vui không che giấu.

Rượu có thể giải sầu, lúc này tự dưng tôi có hứng nên gọi Cận Tịch: “Đi lấy rượu đến.”

Cận Tịch bưng tới “rượu lê hoa” và cười nói: “Biết nương nương muốn uống rượu nên mấy ngày trước đã không cho nương nương uống rượu, nay vẫn lại phải lơi là. Đây là trích lê hoa cất từ năm trước, ủ trong chum thanh

hoa đến ngày hôm trước vừa lúc một năm, nương nương nếm thử đã.”

Có “rượu lê hoa” băng thanh ngọc khiết từ hoa lê trước mắt, thật sự không gì có thể hơn, tôi nâng chén uống một hơi cạn sạch.

Cận Tịch mỉm cười rời đi, còn lại một mình tôi tự uống tự rót.

Trong cung viện yên tĩnh, hoa nở hoa tàn không tiếng động nhưng trong lòng tôi lại khó được yên tĩnh. Vừa uống được vài chén, rượu đã chậm

rãi chảy trong toàn thân nên tôi đành xoay người, nhắm mắt dưỡng thần.

Có tiếng bước chân tới gần tôi, là tiếng chân của nam tử, không cần nhìn cũng biết là chàng. Ngoài chàng ra, hậu cung còn có nam tử nào có thể

bước chân tới cung của tôi một cách tiêu sái như vậy. Cố ý không đứng

dậy nghênh đón, tôi làm như đang ngủ để xem chàng phản ứng thế nào.

Chàng dặn Cận Tịch không cần lên tiếng thỉnh an, phất tay cho cô lui

xuống, một mình ngồi bên cạnh tôi. Gió nhẹ bay đến, thổi đám hoa lê rơi

bay đi như mưa. Hoảng hốt khi hoa lê rơi trúng lông mày, tôi nghe chàng

nhẹ nhàng “A” một tiếng, hơi thở ấm áp đó tới gần chân mày của tôi, khẽ

hôn khi lên cánh hoa rơi kia.

Chàng bỏ khăn che mặt trên mặt tôi xuống, hôn từ chân mày xuống tới môi, đem đóa hoa đặt lên cạnh miệng tôi, toả ra hương thơm trong veo động

lòng người. Chàng cúi đầu hôn lên bả vai loã lồ, đoá hoa lại lạnh, chạm

lên da mặt tạo ra cảm giác ngứa ngáy. Tôi không nhịn được nữa đành mở

mắt cười khẽ ra tiếng: “Tứ lang bắt nạt người ta…”

Trong mắt Huyền Lăng đều là ý cười, sờ lên mũi của tôi và nói: “Trẫm đã

sớm biết nàng giả bộ ngủ, giả bộ cũng không giống, chân mày nàng cứ động đậy.”

Tôi hờn dỗi: “Chỉ vì thần thiếp là người thật thà thôi, tứ lang cũng chỉ bắt nạt người thật thà.”

Chàng cẩn thận xem vết sẹo trên mặt tôi và cười: “Hình như sẹo đã mờ dần.”

Tôi mang lấy tay che lại, quay đầu sẵng giọng: “Nay thần thiếp đã biến thành Vô Diệm, Đông Thi, tứ lang đừng nhìn.”

Huyền Lăng cười nói: “Thuốc mỡ trẫm ban cho nàng dùng sao rồi? Chờ mấy

ngày nữa sẽ liền lại như lúc ban đầu. Nét mặt tuyệt thế của Huyên Huyên

không biết trên đời này có sánh bằng nàng?”

Trong lòng tôi có nét bướng bỉnh, cười nói: “Huyên Huyên có một muội

muội tên là Ngọc Nhiêu, có thể nói quốc sắc, tuyệt không thua kém thần

thiếp.”

“Vậy sao?” Huyền Lăng toát ra vẻ rất có hứng thú, hỏi: “Còn có có thể so sánh với Huyên Huyên? Trẫm cần phải nhìn xem.”

Tôi làm bộ như tình thế cấp bách: “Thần thiếp không cho. Tứ lang mà nhìn thấy sắc đẹp của muội muội, chắc chắn sẽ nạp muội ấy làm phi tử! Đến

lúc đó trong lòng sẽ không còn Huyên Huyên.”

Chàng thấy tôi sốt ruột, trên mặt nghiền ngẫm sắc càng đậm: “Xem nàng

ghen tuông như vậy, nhất định muội muội nàng là tuyệt đại giai nhân, xem ra trẫm thật sự phải nạp tân phi.À, nàng nói phong muội muội của nàng

làm gì thì được nào? Quý nhân? Quý tần? Hay là phong phi ngay lập tức

nhỉ?”

Tôi thật sự nhịn không được, cười đến ngửa tới ngửa lui, vất vả lắm mới

ngưng được cười: “Muội muội của Huyên Huyên năm nay mới bảy tuổi, hy

vọng bệ hạ có thể vui lòng nhận cho.”

Huyền Lăng làm ra bộ dáng như vừa bừng tỉnh, ôm lấy người tôi và cắn lên vành tai của tôi, nói: “Vật nhỏ bỡn cợt này!”

Tôi cười cuộn thành một vòng và trốn khỏi chàng: “Đừng làm nháo loạn, thái y nói lúc tĩnh dưỡng không được tùy ý động đâu.”

Chàng đặt tôi lên ghế quý phi rồi cúi xuống, dán mặt lên bụng tôi, xem

như có vẻ nghe ngóng điều gì. Đây đúng là tình cảnh ấm áp, chàng chính

như là một phu quân yêu thương thê nhi. Tôi kìm lòng không được mà vuốt

ve cổ áo chàng. Hương hoa mới nở, tôi thoáng nghĩ, năm tháng bình an

chính là như thế này.

Khóe miệng tôi bất giác mỉm cười, nhẹ nhàng nói: “Hiện tại đâu có nghe thấy được gì đâu?”

Chàng đột nhiên đứng dậy, ôm chầm lấy tôi vào lòng khiến tôi choáng váng cả đầu, chàng cất tiếng cười to: “Huyên Huyên, Huyên Huyên! Nàng mang

thai đứa nhỏ của chúng ta, nàng không biết trẫm vui thế nào đâu!”

Tôi “khanh khách” cười, tiếng cười vang dội làm đóa hoa trắng như tuyết

bay tán loạn, mùi hương toả khắp vách tường. Tôi gắt gao ôm lấy cổ

chàng, uyển chuyển nói: “Được rồi, thần thiếp cũng vui lắm.”

Chàng tiện tay nhặt lên đoá hoa vừa rơi trên giường, giơ lên trước trán

tôi mà nói: “Hoa lê thanh khiết có thể sánh với tuyết, hoa rơi vào giữa

lông mày cũng không thấy màu, chứng tỏ da dẻ Huyên Huyên trắng còn hơn

tuyết.”

Tôi mỉm cười trước ngực chàng, nắm lấy một bông hoa lê trong lòng bàn

tay, quả nhiên màu nhạt như không, mỉm cười nói: “Nữ nhi của Võ đế thời

Nam Tống- Thọ Dương công chúa- ngày ngày nhàn nhã nằm trong Hàm Chương

điện, hồng mai nở rộ trước sân, lúc đó có một đóa bay xuống chính giữa

lông mày, năm cánh hoa xoè ra, hình dạng rất đẹp, cung nhân lau không

hết, ba ngày sau mới được. Bởi vậy trong cung nữ tử sau này thấy đều cảm thấy đẹp, bắt chước làm theo, toàn đeo trang sức có hình hoa mai lên

trán, gọi là ‘hoa mai trang’. Nhưng mà màu sắc của hoa lê không đủ nổi

bật để làm trang sức, thật tiếc.”

Huyền Lăng nói: “Nếu muốn thành trang sức kỳ thật cũng không khó.” Nói

xong kéo tay tôi đến sau đường, ngồi trước gương, lấy một đóa hoa lê đặt trên trán rồi tôi, dùng màu son đỏ sẫm vẽ xung quanh rồi lấy bột bạc

làm nhụy hoa, sau đó cười nói: “Huyên Huyên thấy thế nào?”

Tôi nhìn vào gương thì thấy quả nhiên màu sắc rất đẹp, yểu điệu nhiều

vẻ, mềm mại và đẹp hơn hẳn những hình xăm cứng ngắc thì cười nói: “Đẹp

lắm, nhưng mà hoa lê màu trắng, dùng phấn má phác để vẽ thì không giống

thật lắm.”

Chàng im lặng một lát rồi nói: “Việc này trẫm cũng hết cách, đành phải

như vậy. Nhưng chính vì hoa màu trắng nên không thể làm trang sức, có

thể thấy được khó có thể vẹn đôi đường.”

Tôi mỉm cười: “Mọi việc đều không thể vẹn cả đôi đường, đẹp là được rồi.”

Huyền Lăng cũng nói: “Nếu đẹp là được rồi, bắt chước không cần phải

giống thật. Cách trang điểm này trẫm gọi là ‘giảo lê trang’, nàng thấy

thế nào?”

Tôi nhìn quanh, tươi cười vui thú: “Tứ lang vẽ, tứ lang đặt tên, thật là phong nhã.”

Chàng cũng vui mừng tự đắc đáp: “Vậy nàng hãy ngâm một câu về hoa lê đi.”

Sau giờ ngọ cửa cung đã đóng, tôi chăm chú nhìn hoa lê ngoài cửa sổ, chưa kịp nghĩ nhiều, miệng đã nói ra luôn:

“Tịch mịch không đình xuân dục vãn.

Lê hoa mãn địa bất khai môn.”

(Dịch:

Lặng lẽ sân vắng bóng người, xuân đang muốn hết.

Hoa lê rụng đầy mặt đất, cửa vẫn cài then.)

Miệng vừa đọc xong tôi liền lập tức thấy kinh hãi, khó tránh khỏi có

chút không tự nhiên, âm thầm tự hối hận mình đã nói lỡ. Trước mặt quân

vương đâu có thể nào đàm luận câu thơ ai oán như vậy, huống chi đó là

tâm tình của một phi tần bị thất sủng, tôi lại đột ngột đọc như vậy,

thật sự là có chút không hợp.

Nhưng mà Huyền Lăng không phản ứng gì mà chỉ nói: “Mùa xuân, cửa cung

đóng chặt, lê hoa nở nhiều, nhưng trẫm đang cùng nàng bầu bạn, sao lại

có thể nói là tịch mịch? Tuy hợp với tình cảnh nhưng không hợp thời, nên trẫm phạt nàng.” Chàng quay đầu thì thấy phía trước cửa sổ có chum

“rượu lê hoa” chưa uống hết liền mang ra lệnh cho tôi: “Phạt nàng uống

một ly rượu.” Tôi đưa tay đón lấy, cười khanh khách đưa miệng uống một

ngụm, hai mắt nhìn chàng và nói: “Nghi ngôn uống rượu…”

Chàng lập tức tiếp lời: “… cùng tử giai lão.” Nói xong đưa tay nắm lấy tay tôi.

Trên mặt chàng mang ý cười, nói với tôi: “Cạn chén.”

Thâm cung vắng vẻ, nguyên cũng không phải tất cả đều tịch mịch, nhưng sự tịch mịch này là thời gian để điềm tĩnh. Lòng tôi tràn đầy ngọt

ngào, rượu uống chưa ngấm, giờ lại uống tiếp khiến hai gò má tự ửng

hồng, nhìn trong gương như mặt trời mới mọc hoặc hoa đào mới nở.

Tôi nửa nằm nửa ngồi trên giường, cười với chàng: “Thần thiếp đã ngâm

hai câu thơ, bây giờ đến lượt tứ lang. Nhớ phải có hai chữ ‘hoa lê’

nha.”

Chàng ngẫm nghĩ, trên mặt dần dần hiện ra nét tươi cười, chậm rãi nói:

“Uyên ương bị lí thành song dạ,

Nhất thụ lê hoa áp hải đường…”

(Dịch: Chăn uyên ương ấy một đêm,

Hoa lê một nhánh đè lên hải đường!)

Tôi nghe xong thì xấu hổ đến nóng bừng cả mặt, cười trách chàng: “Chẳng đứng đắn gì cả!”

Chàng cố nén cười hỏi: “Thế nào?”

“Thập bát tân nương, bát thập lang,

Thương thương bạch phát đối hồng trang.

Uyên ương bị lí thành song dạ,

Nhất thụ lê hoa áp hải đường!”

(Dịch: Gái xoan lấy lão làm chồng,

Tóc sương lại có má hồng kề bên.

Chăn uyên ương ấy một đêm,

Hoa lê một nhánh đè lên hải đường! *)

Chàng đáp: “Trẫm nguyện cùng sống chết với nàng. Nếu Huyên Huyên dung

nhan không thay đổi mà trẫm lại già đi, đó chính là tóc sương lại có má

hồng kề bên sao?” Chàng ôm lấy tôi lấy, nhẹ nhàng đặt lên giường. Tôi

hiểu ra ý đồ của chàng, gạt tay chàng ra và nói: “Không được làm chuyện

xấu!”

Chàng cúi đầu, ý cười dày đặc: “Vừa rồi lấy chuyện của muội muội nàng

trêu đùa trẫm, để giờ xem trẫm thu thập tiểu xấu xa như nàng thế nào…”

Tôi gượng cười trốn tránh chàng: “Ai ai! Sao tứ lang lại thù dai như vậy nha?”

Chàng bắt được hai tay của tôi và nắm lấy: “Quân tử báo thù, mười năm không muộn.”

Rèm gấm đã được vén lên một nửa, đối diện chúng tôi là ánh trăng cùng

hoa lê trắng ngoài cửa sổ. Nhiều loại hoa cùng tơ liễu không tiếng động

dây dưa trong làn mưa bay. Tôi mơ hồ nhớ rõ hình dáng của nhuỵ hoa lê,

đỏ rực, như băng ngọc nhẹ nhàng khoan khoái đi vào lòng người, kỳ thật

rất giống hoa hạnh khi Huyền Lăng với tôi gặp nhau.

Ánh nước từ từ chảy trên nhánh hoa, đóa hoa trắng ngần nở kinh tâm động

phách. Ngoài cửa sổ gió thổi không tiếng động, khiến cho hoa lê rơi

xuống không tiếng động, trong cửa sổ cũng không tiếng động, động tác của chàng nhẹ nhàng mà dịu dàng, sợ ảnh hưởng tới đứa nhỏ trong bụng. Dương quang ấm áp yên tĩnh, gió thoang thoảng thổi qua, đóa hoa lặng lẽ đung

đưa, tôi ôm lấy thân thể chàng một lúc, tưởng chừng đã bình yên đi vào

giấc ngủ. Ngày xuân, ngủ sâu như biển, hoa lê như tuyết.

Sau khi lâm triều, Huyền Lăng liền tới đây, còn tôi vừa uống thuốc

dưỡng thai nên lười biếng nằm trong chăn. Ban đêm, mùi hương ngọt lịm

của cây bồ đề trong phòng còn chưa dứt, rèm trướng lúc rủ xuống lúc đung đưa theo gió, trên được thêu vạn tự như ý, trang bị thiến hồng lưu tô

tiêu ti trướng, thấy thế nào hương vị cũng hương diễm thung tán.

Huyền Lăng một mình thong thả tiến vào, vừa hạ hướng thay xiêm y, chỉ

mặc trường bào điền kim thêu lụa bạc, càng phát ra vẻ mục như điểm nước

sơn, diện mạo hiên ngang. Chàng thấy tôi tóc tai bù xù ngủ thì cười nói: “Càng ngày càng lười, mặt trời đã lên cao mà còn nằm đó.”

Tôi đáp: “Người ta tuân nghe lời người cùng thái hậu phải an dưỡng cho

tốt, lại còn nói người ta lười. Thần thiếp còn ngại suốt ngày nằm sẽ

sinh ra buồn chán.” Nói xong làm bộ đứng dậy sẽ hành lễ, chàng ngăn lấy

mà cười: “Quên đi, trẫm đùa một câu mà nàng lại tưởng thật, nằm đó đi.”

Tôi buồn cười: “Đây chính là lời hoàng thượng đã nói, đừng có nói thần thiếp không biết phải trái.”

Chàng nhéo mũi của tôi, cởi giày để lộ ra đôi tất bình kim tú kim long

giáp, chui vào chăn cười hì hì nói: “Trẫm cũng nằm cùng nàng một lát.”

Tôi đem một cái gối để gối dưới đầu chàng, thuận thế gối đầu lên tay

chàng, nhìn đôi tất kia mà nói :“Công phu nhìn có vẻ rất tinh tế, như là tay nghề của An muội muội.”

Chàng cúi đầu nhìn kỹ một hồi mới đáp: “Trẫm cũng không nhớ rõ, hình như là vậy. Công phu kim chỉ của nàng ta đúng là không tệ.”

Tôi không biết nên nói gì, vì thế chỉ hỏi: “Hoàng thượng mới vừa từ đâu tới đây?”

Chàng thuận miệng nói: “Đi thăm Trầm dung hoa.”

Tôi mỉm cười: “Nghe nói tỷ tỷ đã có thể đi lại, một ngày hai lần phái người đến gặp thần tiếp.”

Chàng có chút kinh ngạc: “Phải không? Lúc trẫm tới nàng ta đâu có thể đứng dậy nghênh giá đâu?”

Lòng tôi đột nhiên hồ nghi, hôm qua lúc Thải Nguyệt tới đã nói Mi Trang

có thể xuống giường đi lại, nhưng không thể ra ngoài mà thôi. Nghĩ đến

đó, tôi cho rằng tỷ ấy vì chuyện bị cấm chừng nên vẫn có chút oán hận

Huyền Lăng, vì vậy không đứng dậy nghênh giá. Lại nói: “Tỷ tỷ lại đổ

bệnh cũng là chuyện có thể, bệnh dịch dù sao cũng chưa được chữa khỏi

hẳn.”

Chàng “ừ” một tiếng cũng không nói gì, sau một lúc lâu mới nói: “Nói tới bệnh dịch, làm trẫm nghĩ tới một chuyện phiền lòng.”

Tôi nhẹ giọng nói: “Hoàng thượng trước đừng nóng giận, không biết có thể kể cho thần thiếp nghe được không.”

Ngón cái cùng ngón trỏ của chàng túm lấy góc áo ngủ bằng gấm, chậm rãi

nói: “Ngày trước trẫm nghe Kính phi nói Giang Mục Dương cùng Giang Mục Y hai người họ trị liệu bệnh dịch tuy rằng rất hiệu quả nhưng đã lén nhận không ít hối lộ của cung nữ nội giam, có tiền thì khám chữa, không có

tiền thì khinh thường bỏ mặc, để người đó tự sinh tự diệt. Thật là to

gan!”

Tôi trầm tư một lát, nói lên ý nghĩ của mình: “Lương y như từ mẫu, hành

động như vậy thật sự là có tài mà không có đức. Thần thiếp rất xem

thường những kẻ như vậy.” Tôi yên lặng một chút mới nói tiếp: “Hoàng

thượng còn nhớ ngày xưa bọn họ hãm hại Trầm dung hoa không?”

Huyền Lăng cau mày, lại không thể nề hà: “Trẫm không có quên… nhưng mà nay bệnh dịch chưa dứt, chưa thể giết bọn chúng.”

Tôi hơi hơi ngẩng người, nói: “Thần thiếp tiến cử một người có thể trị liệu bệnh dịch, đó là thái y Ôn Thực Sơ.”

Chàng “À” một tiếng, trong mắt nháy mắt đã lộ rõ vẻ vui mừng: “Nàng nói tiếp đi.”

“Ôn thái y trị bệnh dịch cho tỷ tỷ rất có hiệu quả, hơn nữa thần thiếp

từng nghe nói đơn thuốc của Giang Mục Dương và Giang Mục Y chính là do

một tay Ôn thái y viết ra.” Tôi nhẹ giọng nói: “Hoàng thượng nghĩ lại

xem, Giang Mục Dương và Giang Mục Y sở trường là về phụ khoa, sao đột

nhiên lại có thể tìm được cách trị bệnh dịch. Tuy nói là học y, nhưng về lĩnh vực không học qua thì chỉ có thể biết sơ sơ chứ không thể tinh

thông, mà Ôn thái lại am hiểu về bệnh dịch.”

Huyền Lăng lẳng lặng suy nghĩ thật lâu mới nói: “Trẫm muốn gặp Ôn Thực

Sơ này. Nếu đúng như lời nàng nói thì Giang Mục Dương với Giang Mục Y

không cần phải giữ lại nữa.”

Tôi nằm ở trước ngực chàng, nhẹ giọng thủ thỉ: “Hoàng Thượng nói cực kỳ

đúng. Nhưng là lúc này bệnh dịch trong cung mới có chuyển biến tốt,

người trong cung đều cho rằng đây là công lao của họ. Nếu lúc này vì

việc nhận hối lộ mà giết hai người này thì e rằng không chỉ người trong

cung nói hoàng thượng vì chuyện nhỏ mà không để ý tới đại cục, mà cả bên ngoài ngôn quan cũng sẽ nghe dị nghị không hay. Hoàng thượng nghĩ sao?”

“Dù sao hai người bọn họ cũng là người của Hoa phi, trẫm cũng không thể

không nể mặt nàng ta.” Chàng cười lạnh: “Nếu thật muốn giết vẫn còn

nhiều biện pháp. Nhất định sẽ không để cho bọn chúng hoành hành.”

Thân là quân vương, càng dễ dàng tha thứ thì khắc chế càng nhiều, oán

khí về sau sẽ càng thêm cường đại, bởi vì bọn họ tự tôn tự phụ cũng

không thể thắng được người thường. Tôi thấy mục đích đã đạt thì nhợt

nhạt cười, lấy tay lỗ tai lắc đầu sẵng giọng: “Cái gì mà giết hay không

giết, thần thiếp nghe thấy sợ quá. Hoàng thượng không được nói nữa.”

Chàng vỗ vỗ bả vai của tôi: “Được rồi, chúng ta không nói việc này nữa.

Mười hai tháng tư là sinh nhật mười bảy tuổi của nàng, chiến sự tây nam

lại liên tục đại thắng, nàng thì có mang, để trẫm kêu lễ bộ chuẩn bị một buổi tiệc trọng đại cho nàng được không?”

Tôi uyển chuyển ngoái đầu nhìn lại chàng, liếc mắt một cái, mềm giọng đáp: “Hoàng thượng tự quyết định đi.”

Chàng lại trầm tư, chậm rãi phun ra hai chữ: “Hoa phi…”, lại không hề nói tiếp.

Lòng tôi bỗng nhiên vừa chấn động, nói: “Hoàng thượng hay ở chỗ Hoa phi mà sao nàng ta vẫn chưa có tin vui vậy?”

Chàng đắm chìm trong suy tư của chính mình, thuận miệng nói: “Nàng ta sẽ không có thai đâu.”

Tôi kinh ngạc hỏi: “Thần thiếp nghe nói Hoa phi từng bị sinh non, vì vậy mà bị thương tổn tới thân thể sao?”

Chàng như vừa phát hiện mình nói lỡ miệng nên không trả lời tôi, chỉ cười một tiếng, hỏi tôi một chút về tình hình ăn uống.

Huyền Lăng lẳng lặng nhìn tôi một lúc rồi đi thăm Đỗ lương viện. Tôi

nhìn chàng đi rồi, vội vàng đứng dậy, Cận Tịch hầu tôi uống một chén

nước mơ cho tỉnh hẳn, nhẹ nhàng hỏi: “Nương nương nói chuyện của nhị vị

thái y họ Giang cho hoàng thượng biết có phải là nóng vội quá không?”

Tôi lạnh lùng cười, từ từ ngắm nghía chén ngọc và nói: “Không vội. Ta đã nói qua với ngươi, lần trước ở trong cung của hoàng hậu có người cố

tình muốn cho ta đẩy ngã Đỗ lương viện, mặc dù không biết là ai nhưng có thể thấy lòng dạ thâm sâu thế nào. Nay ta có mang, ắt sẽ thành cái đinh trong mắt bọn họ. Trong chuyện bệnh dịch này hai tên họ Giang có được

không ít công lao, phát triển an toàn ở thái y viện. Ôn đại nhân lại ở

chỗ Trầm dung hoa, Chương Di là người thành thật, làm tay chân cho hai

tên họ Giang, chẳng phải là chúng ta đang ngồi chờ chết sao, chi bằng

chấm dứt cho sớm.” Tôi chậm rãi nói tiếp: “Kỳ thật hoàng thượng cũng đã

nhẫn nại lâu, nếu không phải vẫn đang dùng bọn chúng thì đã đem giết từ

lâu rồi.”

Khoé miệng Cận Tịch cười một chút thản nhiên: “Kính phi nương nương góp

lời với hoàng thượng thật đúng thời điểm. Bất quá cũng muốn Giang Mục

Dương và Giang Mục Y hai người họ phải đền tội.”

Tôi mỉm cười: “Nhưng loại người tham tài này chỉ cần có người cho thêm

tiền thì chuyện gì cũng có thể làm. Hoàng thượng chỉ tạm thời làm ngơ

cho bọn chúng, thế mà bọn chúng lại đắc ý vênh váo, thật sự là tự tìm

đường chết.”

Hai ngày sau, ngoài cung truyền đến tin Giang Mục Dương cùng Giang

Mục Y đac bị cường đạo sát hại trên đường từ cung về nhà, ngay cả đầu

cũng bị chặt đi không biết tung tích. Hoàng đế niệm tình hai người đã

đóng góp nhiều sức chữa trị bệnh dịch nên đã ban thưởng cho gia quyến

hai trăm lượng bạc trắng trăm để làm tang sự, lại mệnh cho thái y Ôn

Thực Sơ tiếp quản điều trị bệnh dịch. Trong lúc nhất thời trong cung

ngoài cung đều giai truyền đương kim thánh thượng thương xót thần tử,

hoàng thượng càng thêm tiếng nhân hậu.

Tin tức truyền đến khi tôi đang ngắm nhìn hoa hạnh mới nở, nghe vậy chỉ

lạnh nhạt cười. Ôn Thực Sơ hiện giờ được phụ trách việc chữa bệnh dịch,

coi như là công thành danh toại, mà tôi cũng đã có thể báo ân việc hắn

đã giúp tôi.

______

*lời dịch của câu thơ đó ta lấy bên trang http://huyhoang.thuhoavn.com/tho-van-suu-tap/tho-van-trung-quoc/duong-luat/nhat-thu-le-hoa-to-dong-pha/ nhé ^^

Tập này Chân Huyên vs Huyền Lăng tình cảm quá đi, tiếc là sóng gió còn ở phía trước! Các nàng đón chờ tuần sau nhé hihi :”>

gọc lụa là các loại lúc nào cũng được đưa tới cung của tôi khiến cho

Tiểu Duẫn Tử thường đùa: “Hoàng thượng mà ban vật gì xuống dưới, đừng

nói nô tài chúng ta bàn đắc thủ nhuyễn, chính là trong cung cũng không

bỏ xuống được.” Vì thế tôi chỉ lấy ra vài vật lưu trữ ngắm cảnh mà tôi

đặc biệt yêu thích, ấn vị phân thì đem tặng hoàng hậu phi tần, còn lại

cố ý mở ẩm lục hiên để tạm thời làm nơi chứa đồ.

Hôm nay thời tiết sáng sủa tươi đẹp, mới gội đầu còn chưa khô, tôi tùy ý nghĩ ra cách chỉ dùng một đôi trâm tử thủy tinh tân nguyệt để cài đầu.

Sau khi dùng keo liền sẹo của Lăng Dung đã tặng để bôi lên vết thương,

tôi lấy một tấm khăn lụa mỏng để che mặt. Khăn lụa kín đáo, có thể che

gió lại không sợ bị thứ gì khác dính vào vết thương.

Tôi sai người đem ghế quý phi tới tàng cây lê sau đường, nhàn nhã ngồi

thêu cái yếm trẻ con, cây lựu đỏ cùng hoa hạnh màu hồng ở cạnh nhau,

thêu ra trăm tử trăm phúc đa dạng, mỗi một đường chỉ là tôi lại gửi gắm

niềm vui của người sắp làm mẹ tới đứa con trong bụng. Thêu được mấy

đường, khoé miệng tôi bất giác cong lên mỉm cười một cách vui sướng.

Thêu tới lúc mệt, tôi đưa mắt nhìn hoa lê nở rộ như mây trắng bồng

bềnh, những nụ hoa cùng đoá hoa trắng như tuyết trên cành trông rất đẹp, ánh lên vải lụa đỏ rực của xiêm y tôi đang mặc tạo ra một tia màu hồng

dị thường loá mắt. Mỗi lần gió thổi qua là những đóa hoa đó liền lay

động như bướm trắng phiêu diêu bay lại, toả ra mùi hương qua mũi, dừng

lại trên áo, giống như một hạt tuyết đọng vậy.

Có đứa bé đang dần lớn lên từng ngày ở trong bụng khiến trong lòng tôi

vui vẻ bội phần, ngay cả màu sắc trên xiêm y cũng đã thay đổi. Trước đây tôi thích màu nhẹ nhàng, tao nhã nhưng nay lại thích màu đỏ, như là

niềm vui không che giấu.

Rượu có thể giải sầu, lúc này tự dưng tôi có hứng nên gọi Cận Tịch: “Đi lấy rượu đến.”

Cận Tịch bưng tới “lê hoa râm” và cười nói: “Biết nương nương muốn uống

rượu nên mấy ngày trước đã không cho nương nương uống rượu, nay vẫn là

lại phải lơi là. Đây là trích lê hoa cất từ năm trước, ủ trong chum

thanh hoa đến ngày hôm trước vừa lúc một năm, nương nương nếm thử đã.”

Có “lê hoa râm” băng thanh ngọc khiết từ hoa lê trước mắt, thật sự không gì có thể hơn, tôi nâng chén uống một hơi cạn sạch.

Cận Tịch mỉm cười rời đi, còn lại một mình tôi tự uống tự rót.

Trong cung viện yên tĩnh, hoa nở hoa tàn không tiếng động nhưng trong lòng tôi lại khó được yên tĩnh. Vừa uống được vài chén, rượu đã chậm

rãi chảy trong toàn thân nên tôi đành xoay người, nhắm mắt dưỡng thần.

Có tiếng bước chân tới gần tôi, là tiếng chân của nam tử, không cần nhìn cũng biết là chàng. Ngoài chàng ra, hậu cung còn có nam tử nào có thể

bước chân tới cung của tôi một cách tiêu sái như vậy. Cố ý không đứng

dậy nghênh đón, tôi làm như đang ngủ để xem chàng phản ứng thế nào.

Chàng dặn Cận Tịch không cần lên tiếng thỉnh an, phất tay cho cô lui

xuống, một mình ngồi bên cạnh tôi. Gió nhẹ bay đến, thổi đám hoa lê rơi

bay đi như mưa. Hoảng hốt khi hoa lê rơi trúng lông mày, tôi nghe chàng

nhẹ nhàng “di” một tiếng, hơi thở ấm áp đó tới gần chân mày của tôi, khẽ hôn khi lên cánh hoa rơi kia.

Chàng bỏ khăn che mặt trên mặt tôi xuống, hôn từ chân mày xuống tới môi, đem đóa hoa đặt lên cạnh miệng tôi, toả ra hương thơm trong veo động

lòng người. Chàng cúi đầu hôn lên bả vai loã lồ, đoá hoa lại lạnh, chạm

lên da mặt tạo ra cảm giác ngứa ngáy. Tôi không nhịn được nữa đành mở

mắt cười khẽ ra tiếng: “Tứ lang khi dễ người ta…”

Trong mắt Huyền Lăng đều là ý cười, sờ lên mũi của tôi và nói: “Trẫm đã

sớm biết nàng giả bộ ngủ, giả bộ cũng không giống, chân mày nàng cứ động đậy.”

Tôi hờn dỗi: “Chỉ vì thần thiếp là người thật thà thôi, tứ lang cũng chỉ khi dễ người thật thà.”

Chàng cẩn thận xem vết sẹo trên mặt tôi và cười: “Dường như đã mờ dần.”

Tôi mang lấy tay che lại, quay đầu sẵng giọng: “Nay thần thiếp đã biến thành Vô Diệm, Đông Thi, tứ lang đừng nhìn.”

Huyền Lăng cười nói: “Thuốc mỡ trẫm ban cho nàng dùng sao rồi? Chờ mấy

ngày nữa sẽ liền lại như lúc ban đầu. Nét mặt tuyệt thế của Huyên Huyên

không biết trên đời này có sánh bằng nàng?”

Trong lòng tôi có nét bướng bỉnh, cười nói: “Huyên Huyên có một muội

muội tên là Ngọc Nhiêu, có thể nói quốc sắc, tuyệt không thua kém thần

thiếp.”

“Vậy sao?” Huyền Lăng toát ra vẻ rất có hứng thú, hỏi: “Còn có có thể so sánh với Huyên Huyên? Trẫm cần phải nhìn xem.”

Tôi làm bộ như tình thế cấp bách: “Thần thiếp không cho. Tứ lang mà nhìn thấy sắc đẹp của muội muội, chắc chắn sẽ nạp muội ấy làm phi tử! Đến

lúc đó trong lòng sẽ không còn Huyên Huyên.”

Chàng thấy tôi sốt ruột, trên mặt nghiền ngẫm sắc càng đậm: “Xem nàng

ghen tuông như vậy, nhất định muội muội nàng là tuyệt đại giai nhân, xem ra trẫm thật sự phải nạp tân phi. Ân, nàng nói phong muội muội của nàng làm gì thì được nào? Quý nhân? Quý tần? Hay là phong phi ngay lập tức

nhỉ?”

Tôi thật sự nhịn không được, cười đến ngửa tới ngửa lui, vất vả lắm mới

ngưng được cười: “Muội muội của Huyên Huyên năm nay mới bảy tuổi, hy

vọng bệ hạ có thể vui lòng nhận cho.”

Huyền Lăng làm ra bộ dáng như vừa bừng tỉnh, ôm lấy người tôi và cắn lên vành tai của tôi, nói: “Vật nhỏ bỡn cợt này!”

Tôi cười cuộn thành một vòng và trốn khỏi chàng: “Đừng làm nháo loạn, thái y nói lúc tĩnh dưỡng không được tùy ý động đâu.”

Chàng đặt tôi lên ghế quý phi rồi cúi xuống, dán mặt lên bụng tôi, xem

như có vẻ nghe ngóng điều gì. Đây đúng là tình cảnh ấm áp, chàng chính

như là một phu quân yêu thương thê nhi. Tôi kìm lòng không được mà vuốt

ve cổ áo chàng. Hương hoa mới nở, tôi thoáng nghĩ, năm tháng bình an

chính là như thế này.

Khóe miệng tôi bất giác mỉm cười, nhẹ nhàng nói: “Hiện tại đâu có nghe thấy được gì đâu?”

Chàng đột nhiên đứng dậy, ôm chầm lấy tôi vào lòng khiến tôi choáng váng cả đầu, chàng cất tiếng cười to: “Huyên Huyên, Huyên Huyên! Nàng mang

thai đứa nhỏ của chúng ta, nàng không biết trẫm vui thế nào đâu!”

Tôi “khanh khách” cười, tiếng cười vang dội làm đóa hoa trắng như tuyết

bay tán loạn, mùi hương toả khắp vách tường. Tôi gắt gao ôm lấy cổ

chàng, uyển chuyển nói: “Được rồi, thần thiếp cũng vui lắm.”

Chàng tiện tay nhặt lên đoá hoa vừa rơi trên giường, giơ lên trước trán

tôi mà nói: “Hoa lê thanh khiết có thể sánh với tuyết, hoa rơi vào giữa

lông mày cũng không thấy màu, chứng tỏ da dẻ Huyên Huyên trắng còn hơn

tuyết.”

Tôi mỉm cười trước ngực chàng, nắm lấy một bông hoa lê trong lòng bàn

tay, quả nhiên màu nhạt như không, mỉm cười nói: “Nữ nhi của Võ đế thời

Nam Tống- Thọ Dương công chúa- ngày ngày nhàn nhã nằm trong Hàm Chương

điện, hồng mai nở rộ trước sân, lúc đó có một đóa bay xuống chính giữa

lông mày, năm cánh hoa xoè ra, hình dạng rất đẹp, cung nhân lau không

hết, ba ngày sau mới được. Bởi vậy trong cung nữ tử sau này thấy đều cảm thấy đẹp, bắt chước làm theo, toàn đeo trang sức có hình hoa mai lên

trán, gọi là ‘hoa mai trang’. Nhưng mà màu sắc của hoa lê không đủ nổi

bật để làm trang sức, thật tiếc.”

Huyền Lăng nói: “Nếu muốn thành trang sức kỳ thật cũng không khó.” Nói

xong kéo tay tôi đến sau đường, ngồi trước gương, lấy một đóa hoa lê đặt trên trán rồi tôi, dùng màu son đỏ sẫm vẽ xung quanh rồi lấy bột bạc

làm nhụy hoa, sau đó cười nói: “Huyên Huyên thấy thế nào?”

Tôi nhìn vào gương thì thấy quả nhiên màu sắc rất đẹp, yểu điệu nhiều

vẻ, mềm mại và đẹp hơn hẳn những hình xăm cứng ngắc thì cười nói: “Đẹp

lắm, nhưng mà hoa lê màu trắng, dùng phấn má phác để vẽ thì không giống

thật lắm.”

Chàng im lặng một lát rồi nói: “Việc này trẫm cũng hết cách, đành phải

như vậy. Nhưng chính vì hoa màu trắng nên không thể làm trang sức, có

thể thấy được khó có thể vẹn đôi đường.”

Tôi mỉm cười: “Mọi việc đều không thể vẹn cả đôi đường, đẹp là được rồi.”

Huyền Lăng cũng nói: “Nếu đẹp là được rồi, bắt chước không cần phải

giống thật. Cách trang điểm này trẫm gọi là ‘giảo lê trang’, nàng thấy

thế nào?”

Tôi nhìn quanh, tươi cười vui thú: “Tứ lang vẽ, tứ lang đặt tên, thật là phong nhã.”

Chàng cũng vui mừng tự đắc đáp: “Vậy nàng hãy ngâm một câu về hoa lê đi.”

Sau giờ ngọ cửa cung đã đóng, tôi chăm chú nhìn hoa lê ngoài cửa sổ, chưa kịp nghĩ nhiều, miệng đã nói ra luôn:

“Tịch mịch không đình xuân dục vãn.

Lê hoa mãn địa bất khai môn.”

(Dịch:

Lặng lẽ sân vắng bóng người, xuân đang muốn hết.

Hoa lê rụng đầy mặt đất, cửa vẫn cài then.)

Miệng vừa đọc xong tôi liền lập tức thấy kinh hãi, khó tránh khỏi có

chút không tự nhiên, âm thầm tự hối hận mình đã nói lỡ. Trước mặt quân

vương đâu có thể nào đàm luận câu thơ ai oán như vậy, huống chi đó là

tâm tình của một phi tần bị thất sủng, tôi lại đột ngột đọc như vậy,

thật sự là có chút không hợp.

Nhưng mà Huyền Lăng không phản ứng gì mà chỉ nói: “Mùa xuân, cửa cung

đóng chặt, lê hoa nở nhiều, nhưng trẫm đang cùng nàng bầu bạn, sao lại

có thể nói là tịch mịch? Tuy hợp với tình cảnh nhưng không hợp thời, nên trẫm phạt nàng.” Chàng quay đầu thì thấy phía trước cửa sổ có chum “lê

hoa râm” chưa uống hết liền mang ra lệnh cho tôi: “Phạt nàng uống một ly rượu.” Tôi đưa tay đón lấy, cười khanh khách đưa miệng uống một ngụm,

hai mắt nhìn chàng và nói: “Nghi ngôn uống rượu…”

Chàng lập tức tiếp lời: “… đồng tử giai lão.” Nói xong đưa tay nắm lấy tay tôi.

Trên mặt chàng mang ý cười, nói với tôi: “Cạn chén.”

Thâm cung vắng vẻ, nguyên cũng không phải tất cả đều tịch mịch, nhưng sự tịch mịch này là thời gian để điềm tĩnh. Lòng tôi tràn đầy ngọt

ngào, rượu uống chưa ngấm, giờ lại uống tiếp khiến hai gò má tự ửng

hồng, nhìn trong gương như mặt trời mới mọc hoặc hoa đào mới nở.

Tôi nửa nằm nửa ngồi trên giường, cười với chàng: “Thần thiếp đã ngâm

hai câu thơ, bây giờ đến lượt tứ lang. Nhớ phải có hai chữ ‘hoa lê’

nha.”

Chàng ngẫm nghĩ, trên mặt dần dần hiện ra nét tươi cười, chậm rãi nói:

“Uyên ương bị lí thành song dạ,

Nhất thụ lê hoa áp hải đường…”

(Dịch: Chăn uyên ương ấy một đêm,

Hoa lê một nhánh đè lên hải đường!)

Tôi nghe xong thì xấu hổ đến nóng bừng cả mặt, cười trách chàng: “Chẳng đứng đắn gì cả!”

Chàng cố nén cười hỏi: “Thế nào?”

“Thập bát tân nương, bát thập lang,

Thương thương bạch phát đối hồng trang.

Uyên ương bị lí thành song dạ,

Nhất thụ lê hoa áp hải đường!”

(Dịch: Gái xoan lấy lão làm chồng,

Tóc sương lại có má hồng kề bên.

Chăn uyên ương ấy một đêm,

Hoa lê một nhánh đè lên hải đường! *)

Chàng đáp: “Trẫm nguyện cùng sống chết với nàng. Nếu Huyên Huyên dung

nhan không thay đổi mà trẫm lại già đi, đó chính là tóc sương lại có má

hồng kề bên sao?” Chàng ôm lấy tôi lấy, nhẹ nhàng đặt lên giường. Tôi

hiểu ra ý đồ của chàng, gạt tay chàng ra và nói: “Không được làm chuyện

xấu!”

Chàng cúi đầu, ý cười dày đặc: “Vừa rồi lấy chuyện của muội muội nàng

trêu đùa trẫm, để giờ xem trẫm thu thập tiểu xấu xa như nàng thế nào…”

Tôi gượng cười trốn tránh chàng: “Ai ai! Sao tứ lang lại thù dai như vậy nha?”

Chàng bắt được hai tay của tôi và nắm lấy: “Quân tử báo thù, mười năm không muộn a.”

Rèm gấm đã được vén lên một nửa, đối diện chúng tôi là ánh trăng cùng

hoa lê trắng ngoài cửa sổ. Nhiều loại hoa cùng tơ liễu không tiếng động

dây dưa trong làn mưa bay. Tôi mơ hồ nhớ rõ hình dáng của nhuỵ hoa lê,

đỏ rực, như băng ngọc nhẹ nhàng khoan khoái đi vào lòng người, kỳ thật

rất giống hoa hạnh khi Huyền Lăng với tôi gặp nhau.

Ánh nước từ từ chảy trên nhánh hoa, đóa hoa trắng ngần nở kinh tâm động

phách. Ngoài cửa sổ gió thổi không tiếng động, khiến cho hoa lê rơi

xuống không tiếng động, trong cửa sổ cũng không tiếng động, động tác của chàng nhẹ nhàng mà dịu dàng, sợ ảnh hưởng tới đứa nhỏ trong bụng. Dương quang ấm áp yên tĩnh, gió thoang thoảng thổi qua, đóa hoa lặng lẽ đung

đưa, tôi ôm lấy thân thể chàng một lúc, tưởng chừng đã bình yên đi vào

giấc ngủ. Ngày xuân, ngủ sâu như biển, hoa lê như tuyết.

Sau khi lâm triều, Huyền Lăng liền tới đây, còn tôi vừa uống thuốc

dưỡng thai nên lười biếng nằm trong chăn. Ban đêm, mùi hương ngọt lịm

của cây bồ đề trong phòng còn chưa dứt, rèm trướng lúc rủ xuống lúc đung đưa theo gió, trên được thêu vạn tự như ý, trang bị thiến hồng lưu tô

tiêu ti trướng, thấy thế nào hương vị cũng hương diễm thung tán.

Huyền Lăng một mình thong thả tiến vào, vừa hạ hướng thay xiêm y, chỉ

mặc trường bào điền kim thêu lụa bạc, càng phát ra vẻ mục như điểm nước

sơn, diện mạo hiên ngang. Chàng thấy tôi tóc tai bù xù ngủ thì cười nói: “Càng ngày càng lười, mặt trời đã lên cao mà còn nằm đó.”

Tôi đáp: “Người ta tuân nghe lời người cùng thái hậu phải an dưỡng cho

tốt, lại còn nói người ta lười. Thần thiếp còn ngại suốt ngày nằm sẽ

sinh ra buồn chán.” Nói xong làm bộ đứng dậy sẽ hành lễ, chàng ngăn lấy

mà cười: “Quên đi, trẫm đùa một câu mà nàng lại tưởng thật, nằm đó đi.”

Tôi buồn cười: “Đây chính là lời hoàng thượng đã nói, đừng có nói thần thiếp không biết phải trái.”

Chàng nhéo mũi của tôi, cởi giày để lộ ra đôi tất bình kim tú kim long

giáp, chui vào chăn cười hì hì nói: “Trẫm cũng nằm cùng nàng một lát.”

Tôi đem một cái gối để gối dưới đầu chàng, thuận thế gối đầu lên tay

chàng, nhìn đôi tất kia mà nói :“Công phu nhìn có vẻ rất tinh tế, như là tay nghề của An muội muội.”

Chàng cúi đầu nhìn kỹ một hồi mới đáp: “Trẫm cũng không nhớ rõ, hình như là vậy. Công phu kim chỉ của nàng ta đúng là không tệ.”

Tôi không biết nên nói gì, vì thế chỉ hỏi: “Hoàng thượng mới vừa từ đâu tới đây?”

Chàng thuận miệng nói: “Đi thăm Trầm dung hoa.”

Tôi mỉm cười: “Nghe nói tỷ tỷ đã có thể đi lại, một ngày hai lần phái người đến gặp thần tiếp.”

Chàng có chút kinh ngạc: “Phải không? Lúc trẫm tới nàng ta đâu có thể đứng dậy nghênh giá đâu?”

Lòng tôi đột nhiên hồ nghi, hôm qua lúc Thải Nguyệt tới đã nói Mi Trang

có thể xuống giường đi lại, nhưng không thể ra ngoài mà thôi. Nghĩ đến

đó, tôi cho rằng tỷ ấy vì chuyện bị cấm chừng nên vẫn có chút oán hận

Huyền Lăng, vì vậy không đứng dậy nghênh giá. Toại nói: “Tỷ tỷ lại đổ

bệnh cũng là chuyện có thể, bệnh dịch dù sao cũng chưa được chữa khỏi

hẳn.”

Chàng “ừ” một tiếng cũng không nói gì, sau một lúc lâu mới nói: “Nói tới bệnh dịch, làm trẫm nghĩ tới một chuyện phiền lòng.”

Tôi nhẹ giọng nói: “Hoàng thượng trước đừng nóng giận, không biết có thể kể cho thần thiếp nghe được không.”

Ngón cái cùng ngón trỏ của chàng túm lấy góc áo ngủ bằng gấm, chậm rãi

nói: “Ngày trước trẫm nghe Kính phi nói Giang Mục Dương cùng Giang Mục Y hai người họ trị liệu bệnh dịch tuy rằng rất hiệu quả nhưng đã lén nhận không ít hối lộ của cung nữ nội giam, có tiền thì khám chữa, không có

tiền thì khinh thường bỏ mặc, để người đó tự sinh tự diệt. Thật là hạ

tác!”

Tôi trầm tư một lát, nói lên ý nghĩ của mình: “Lương y như từ mẫu, hành

động như vậy thật sự là có tài mà không có đức. Thần thiếp rất xem

thường những kẻ như vậy.” Tôi yên lặng một chút mới nói tiếp: “Hoàng

thượng còn nhớ ngày xưa bọn họ hãm hại Trầm dung hoa không?”

Huyền Lăng cau mày, lại không thể nề hà: “Trẫm không có quên… nhưng mà nay bệnh dịch chưa dứt, chưa thể giết bọn chúng.”

Tôi hơi hơi ngẩng người, nói: “Thần thiếp tiến cử một người có thể trị liệu bệnh dịch, đó là thái y Ôn Thực Sơ.”

Chàng “nga” một tiếng, trong mắt nháy mắt đã lộ rõ vẻ vui mừng: “Nàng nói tiếp đi.”

“Ôn thái y trị bệnh dịch cho tỷ tỷ rất có hiệu quả, hơn nữa thần thiếp

từng nghe nói đơn thuốc của Giang Mục Dương và Giang Mục Y chính là do

một tay Ôn thái y viết ra.” Tôi nhẹ giọng nói: “Hoàng thượng nghĩ lại

xem, Giang Mục Dương và Giang Mục Y sở trường là về phụ khoa, sao đột

nhiên lại có thể tìm được cách trị bệnh dịch. Tuy nói là học y, nhưng về lĩnh vực không học qua thì chỉ có thể biết sơ sơ chứ không thể tinh

thông, mà Ôn thái lại am hiểu về bệnh dịch.”

Huyền Lăng lẳng lặng suy nghĩ thật lâu mới nói: “Trẫm muốn gặp Ôn Thực

Sơ này. Nếu đúng như lời nàng nói thì Giang Mục Dương với Giang Mục Y

không cần phải giữ lại nữa.”

Tôi nằm ở trước ngực chàng, nhẹ giọng thủ thỉ: “Hoàng Thượng nói cực kỳ

đúng. Nhưng là lúc này bệnh dịch trong cung mới có chuyển biến tốt,

người trong cung đều cho rằng đây là công lao của họ. Nếu lúc này vì

việc nhận hối lộ mà giết hai người này thì e rằng không chỉ người trong

cung nói hoàng thượng vì chuyện nhỏ mà không để ý tới đại cục, mà cả bên ngoài ngôn quan cũng sẽ nghe dị nghị không hay. Hoàng thượng nghĩ sao?”

“Dù sao hai người bọn họ cũng là người của Hoa phi, trẫm cũng không thể

không nể mặt nàng ta.” Chàng cười lạnh: “Nếu thật muốn giết vẫn còn

nhiều biện pháp. Nhất định sẽ không để cho bọn chúng hoành hành.”

Thân là quân vương, càng dễ dàng tha thứ thì khắc chế càng nhiều, oán

khí về sau sẽ càng thêm cường đại, bởi vì bọn họ tự tôn tự phụ cũng

không thể thắng được người thường. Tôi thấy mục đích đã đạt thì nhợt

nhạt cười, lấy tay lỗ tai lắc đầu sẵng giọng: “Cái gì mà giết hay không

giết, thần thiếp nghe thấy sợ quá. Hoàng thượng không được nói nữa.”

Chàng vỗ vỗ bả vai của tôi: “Được rồi, chúng ta không nói việc này nữa.

Mười hai tháng tư là sinh nhật mười bảy tuổi của nàng, chiến sự tây nam

lại liên tục đại thắng, nàng thì có mang, để trẫm kêu lễ bộ chuẩn bị một buổi tiệc trọng đại cho nàng được không?”

Tôi uyển chuyển ngoái đầu nhìn lại chàng, liếc mắt một cái, mềm giọng đáp: “Hoàng thượng tự quyết định đi.”

Chàng lại trầm tư, chậm rãi phun ra hai chữ: “Hoa phi…”, lại không hề nói tiếp.

Lòng tôi bỗng nhiên vừa chấn động, nói: “Hoàng thượng hay ở chỗ Hoa phi mà sao nàng ta vẫn chưa có tin vui vậy?”

Chàng đắm chìm trong suy tư của chính mình, thuận miệng nói: “Nàng ta sẽ không có thai đâu.”

Tôi kinh ngạc hỏi: “Thần thiếp nghe nói Hoa phi từng bị sinh non, vì vậy mà bị thương tổn tới thân thể sao?”

Chàng như vừa phát hiện mình nói lỡ miệng nên không trả lời tôi, chỉ cười một tiếng, hỏi tôi một chút về tình hình ăn uống.

Huyền Lăng lẳng lặng nhìn tôi một lúc rồi đi thăm Đỗ lương viện. Tôi

nhìn chàng đi rồi, vội vàng đứng dậy, Cận Tịch hầu tôi uống một chén

nước mơ cho tỉnh hẳn, nhẹ nhàng hỏi: “Nương nương nói chuyện của nhị vị

thái y họ Giang cho hoàng thượng biết có phải là nóng vội quá không?”

Tôi lạnh lùng cười, từ từ ngắm nghía chén ngọc và nói: “Không vội. Ta đã nói qua với ngươi, lần trước ở trong cung của hoàng hậu có người cố

tình muốn cho ta đẩy ngã Đỗ lương viện, mặc dù không biết là ai nhưng có thể thấy lòng dạ thâm sâu thế nào. Nay ta có mang, ắt sẽ thành cái đinh trong mắt bọn họ. Trong chuyện bệnh dịch này hai tên họ Giang có được

không ít công lao, phát triển an toàn ở thái y viện. Ôn đại nhân lại ở

chỗ Trầm dung hoa, Chương Di là người thành thật, làm tay chân cho hai

tên họ Giang, chẳng phải là chúng ta đang ngồi chờ chết sao, chi bằng

chấm dứt cho sớm.” Tôi chậm rãi nói tiếp: “Kỳ thật hoàng thượng cũng đã

nhẫn nại lâu, nếu không phải vẫn đang dùng bọn chúng thì đã đem giết từ

lâu rồi.”

Khoé miệng Cận Tịch cười một chút thản nhiên: “Kính phi nương nương góp

lời với hoàng thượng thật đúng thời điểm. Bất quá cũng muốn Giang Mục

Dương và Giang Mục Y hai người họ phải đền tội.”

Tôi mỉm cười: “Nhưng loại người tham tài này chỉ cần có người cho thêm

tiền thì chuyện gì cũng có thể làm. Hoàng thượng chỉ tạm thời làm ngơ

cho bọn chúng, thế mà bọn chúng lại đắc ý vênh váo, thật sự là tự tìm

đường chết.”

Hai ngày sau, ngoài cung truyền đến tin Giang Mục Dương cùng Giang

Mục Y đac bị cường đạo sát hại trên đường từ cung về nhà, ngay cả đầu

cũng bị chặt đi không biết tung tích. Hoàng đế niệm tình hai người đã

đóng góp nhiều sức chữa trị bệnh dịch nên đã ban thưởng cho gia quyến

hai trăm lượng bạc trắng trăm để làm tang sự, lại mệnh cho thái y Ôn

Thực Sơ tiếp quản điều trị bệnh dịch. Trong lúc nhất thời trong cung

ngoài cung đều giai truyền đương kim thánh thượng thương xót thần tử,

hoàng thượng càng thêm tiếng nhân hậu.

Tin tức truyền đến khi tôi đang ngắm nhìn hoa hạnh mới nở, nghe vậy chỉ

lạnh nhạt cười. Ôn Thực Sơ hiện giờ được phụ trách việc chữa bệnh dịch,

coi như là công thành danh toại, mà tôi cũng đã có thể báo ân việc hắn

đã giúp tôi.