Harry Potter Và Bảo Bối Tử Thần - Tập 7

Chương Mười Tám: Chuyện đời và chuyện xạo của Albus Dumbledore

Mặt trời sắp mọc: bầu trời bao la trong lành vô sắc trải rộng trên đầu nó, thờ ơ với nó lẫn nỗi đau của nó. Harry ngồi xuống giữa cửa lều và hít một hơi sâu không khí trong lành.

Chỉ cần được sống để nhìn mặt trời mọc lên trên sườn đồi phủ tuyết lấp lánh lẽ ra đã là kho báu lớn nhất trên đời, nhưng nó lại không thưởng thức được điều đó: cảm giác của nó đã bị chai tịt vì thảm họa mất cây đũa phép. Nó nhìn ra thung lũng đang đắp tấm mền tuyết, chuông nhà thờ xa xa ngân nga trong yên ắng diễm lệ.

Nó không nhận ra đang bấu chặt những ngón tay vào bắp tay mình như thể đang cố chống cự lại một cơn đau thể xác. Nó đã từng đổ máu nhiều lần đến mức không đếm nổi; có lần nó đã mất toàn bộ xương cánh tay phải; chuyến đi này cũng đã để thẹo trên ngực nó và cánh tay nó để nhập bọn với cái thẹo trên trán và mu bàn tay, nhưng chưa bao giờ, cho đến lúc này, nó lại thấy mình yếu đuối chết người như thế, mong manh và trần trụi, như thể phần ưu việt nhất của sức mạnh pháp thuật mà nó có đã bị tước đi. Nó biết nếu nó bày tỏ điều này, chính xác Hermione sẽ nói gì: cây đũa phép chỉ giỏi bằng phù thủy. Nhưng cô nàng sai, trường hợp của nó khác hẳn. Hermione chưa từng cảm nhận được hiện tượng cây đũa phép xoay như cây kim la bàn rồi phóng ra những tia lửa vàng rực vào kẻ thù. Nó đã mất sự bảo vệ của những lõi đũa phép sinh đôi, và chỉ bây giờ, khi cây đũa phép mất đi rồi, nó mới nhận ra nó đã từng cậy dựa biết bao vào cây đũa.

Nó rút hai khúc của cây đũa phép gãy ra khỏi túi áo và nhét chúng vào cái túi bùa của bác Hagrid cho mà nó đang đeo quanh cổ. Cái túi bùa bây giờ đã đầy nhóc những thứ hư bể và vô tích sự đến nỗi không thể chứa thêm gì nữa. Bàn tay Harry chạm phải trái banh Snitch qua làn da chuột chũi, và trong một thoáng nó đã kháng cự lại ý muốn móc trái banh ra liệng đi. Không hiểu thấu được, không giúp gì được, không dùng gì được như mọi thứ khác cụ Dumbledore đã để lại cõi đời…

Và cơn giận cụ Dumbledore lúc này nổ tràn trong lòng nó như dung nham núi lửa, đốt cháy ruột gan nó, làm tiêu hết mọi cảm xúc khác. Chẳng qua vì tuyệt vọng mà tụi nó tự thuyết phục mình tin rằng lời giải đáp nằm ở Thung lũng Godric, tự thuyết phục mình là nên trở về đó, rằng đó là tất cả của một con đường bí mật nào đó mà cụ Dumbledore đã vạch ra cho tụi nó; mà chẳng có bản đồ, chẳng có kế hoạch gì ráo. Cụ Dumbledore đã để mặc tụi nó dò dẫm trong bóng tối, một mình và không được trợ giúp, vật lộn với những nỗi kinh hoàng chưa từng biết đến và không mơ thấy nổi: chẳng có điều gì được giải thích, chẳng có điều gì được cho không, chúng nó đã chẳng có gươm, và giờ đây, Harry còn không có cả đũa. Nó lại còn làm rớt mất tấm hình của tên trộm, và giờ đây chắc chắn Voldemort sẽ dễ dàng tìm ra kẻ đó là ai… Giờ đây Voldemort đã có tất cả thông tin…

“Harry?”

Hermione ngó bộ như sợ Harry có thể nguyền cô nàng bằng chính cây đũa phép của cô nàng. Gương mặt còn lem nhem nước mắt, cô nàng cúi lom khom bên cạnh Harry, hai tay run rẩy bưng hai tách trà và kẹp dưới nách cái gì đó bự bự.

“Cám ơn,” Harry nói khi cầm một tách trà. “Bồ có phiền không nếu tụi mình trò chuyện?” “Không,” nó nói vậy vì không muốn Hermione tự ái.

“Harry à, bồ muốn biết người trong tấm hình đó là ai. Thì đây… mình có cuốn sách.”

Hermione rụt rè đẩy cuốn sách lên đùi Harry, một cuốn Chuyện Đời và Chuyện Xạo của Albus Dumbledore mới toanh.

“Ở đâu… Làm sao…?”

“Cuốn sách có trong phòng khách của bà Bathilda, nằm ngay đó… Miếng giấy này thò ra trên đầu cuốn sách.”

Hermione đọc lớn lên mấy dòng chữ viết tay kiểu cách màu xanh gắt:

“ ‘Bà Batty thân ái, Cám ơn sự giúp đỡ của bà. Đây là một bản của cuốn sách, hy vọng bà thích nó. Bà đã nói mọi điều, cho dù bà không nhớ. Rita.’ Mình nghĩ cuốn sách hẳn là được gởi đến khi bà Bathilda thật còn sống, nhưng có lẽ bà không còn đủ minh mẫn để đọc nó.”

“Không, có lẽ bà ấy đã không đọc.”

Harry nhìn xuống gương mặt cụ Dumbledore và nếm trải cảm giác khoái trá mọi rợ trào dâng trong lòng: giờ đây nó sẽ biết được tất cả những điều mà cụ Dumbledore không đời nào cho là đáng nói với nó, bất kể cụ muốn hay không muốn nó biết.

“Bồ vẫn còn giận mình lắm phải không?” Hermione nói; Harry ngước nhìn lên để thấy những giọt nước mắt mới tràn ra khỏi mắt cô bé, và biết là cơn giận của nó hẳn đã bộc lộ qua nét mặt.

“Không,” nó nói khẽ. “Không đâu, Hermione à, mình biết đó chỉ là tai nạn thôi mà. Bồ đã cố gắng cứu tụi mình sống sót ra khỏi chỗ đó, và bồ đã làm được điều kỳ diệu. Nếu không có bồ ở đó để giúp mình thì mình đã chết rồi.”

Nó cố gắng đáp lại nụ cười đầy nước mắt của cô bé, sau đó chuyển mối quan tâm sang cuốn sách. Gáy sách vẫn còn cứng, rõ ràng là sách chưa từng được mở ra trước đây. Nó lật nhanh qua các trang sách, tìm tấm hình. Gần như ngay tức thì, nó gặp đúng tấm hình cần tìm, chàng Dumbledore trẻ tuổi và người bạn đẹp trai đang cùng nhau cười vang vì một chuyện tếu lâm đã bị lãng quên từ đời nào. Harry hướng mắt ngay vào dòng chú thích ảnh:

Albus Dumbledore, không lâu sau cái chết của mẹ, cùng với bạn ông là Gellert Grindelwald

Harry há hốc nhìn chữ cuối cùng một hồi lâu. Grindelwald. Bạn của ông, Grindelwald. Nó quay sang bên cạnh nhìn Hermione, cô bé cũng đang ngó cái tên như thể không sao tin được chính con mắt mình. Hermione từ từ ngước mắt lên nhìn Harry.

“Grindelwald sao?”

Không bận tâm đến những tấm hình còn lại, Harry dò tìm trong những trang xung quanh tấm hình sự tái xuất hiện của cái tên đáng sợ đó. Nó tìm được ngay và ham hố đọc, nhưng rồi đọc không hiểu: cần phải trở lại nhiều trang trước mới hiểu hết được ý nghĩa, và cuối cùng nó đành phải về phần mở đầu của một chương có tiêu đề “Lợi Ích Lớn Lao Hơn”. Nó và Hermione cùng đọc:

Giờ đây gần đến sinh nhật thứ mười tám, Dumbledore rời trường Hogwarts trong vinh quang lẫy lừng – Thủ khoa nam, Huynh trưởng, Người đoạt giải thưởng Barnabus Finkley dành cho Phép hô Thần chú Xuất chúng, Đại biểu Thanh niên Anh quốc trong Hội nghị Thuật giả kim Thế giới tại Cairo. Kế đến, Dumbledore dự định làm một chuyến Du hành Lớn với Elphias ‘Dogbreath’ Doge, một người bạn nối khố tận tụy nhưng đần độn mà cậu ta vớ được ở trường.

Hai chàng trai trẻ đang trọ tại quán Cái Vạc Lủng ở Luân Đôn, chuẩn bị khởi hành đến Hy Lạp vào sáng hôm sau thì cú đến đưa tin về cái chết của bà mẹ Dumbledore. ‘Dogbreath’ Doge, người từ chối phỏng vấn cho cuốn sách này, đã hiến cho công chúng một phiên bản rất mủi lòng về những việc xảy ra sau đó. Ông đã miêu tả cái chết của bà Kendra như một đòn bi thảm, và quyết định bỏ dở cuộc phiêu lưu của Dumbledore như một hành động tự hy sinh cao cả.

Đương nhiên Dumbledore trở lại Thung lũng Godric ngay lập tức, để gọi là “chăm sóc” em trai và em gái. Nhưng cậu đã thực sự dành cho họ bao nhiêu sự chăm sóc?

“Thằng Aberforth ấy, nó là một thằng khùng,” theo lời Enid Smeek, người có gia đình sống ở vùng ven Thung lũng Godric vào thời đó. “Lêu lổng. Đành rằng nó chết cha chết mẹ rồi thì mình cũng nên thương hại nó, nhưng nó cứ chọi cứt dê vô đầu tôi. Tôi không tin Albus lại thèm bận tâm về thằng đó. Mà đằng nào tôi cũng chẳng bao giờ thấy hai người đó ở bên nhau”.

Vậy Albus làm gì, nếu không khuyên giải người em trai lêu lổng? Câu trả lời, có vẻ là, để bảo đảm tiếp tục giam cầm cô em gái. Bởi vì mặc dù cai ngục thứ nhất của cô đã chết, vẫn không có gì thay đổi cho tình trạng đáng thương của Ariana Dumbledore. Sự tồn tại của cô vẫn tiếp tục được rất ít người ngoài biết đến, những người ngoài được coi là tin vào câu chuyện ‘sức khỏe yếu kém’ của cô, như ‘Dogbreath’ Doge chẳng hạn.

Một người bạn dễ tính như vậy của gia đình Dumbledore là bà Bathilda Bagshot, sử gia pháp thuật nổi tiếng, người đã sống ở Thung lũng Godric nhiều năm. Dĩ nhiên bà Kendra đã dứt khoát từ chối bà Bathilda khi bà này lần đầu thử đến chào mừng gia đình họ về làng. Tuy nhiên, nhiều năm sau, nhà biên sử đã gởi một cú đến Albus ở trường Hogwarts, vì có ấn tượng tốt đẹp trước bài viết về Biến Hình giữa Các Loài trong tạp chí Biến Hình Ngày Nay. Mối giao tiếp đầu tiên này đã đưa tới sự quen biết với cả gia đình Dumbledore. Vào thời điểm bà Kendra qua đời, bà Bathilda là người duy nhất ở Thung lũng Godric còn qua lại chuyện trò với bà mẹ của Dumbledore.

Không may, sự thông tuệ mà bà Bathilda phô bày sớm sủa trong đời bà giờ đây đã cùn lụt. “Lửa còn cháy, nhưng vạc đã rỗng rồi,” như Ivor Dillonsby nói với tôi,

hay, bằng lời lẽ có phần phàm tục hơn của Enid Smeek: “Bả quái dị như sóc ị”. Dù vậy, kết hợp những kỹ thuật làm báo thử-và-nghiệm khiến tôi có thể chiết xuất đủ vàng ròng từ những sự thật rành rành để xâu lại với nhau thành cả câu chuyện đầy tai tiếng.

Giống như bao người khác trong thế giới pháp thuật, bà Bathilda coi cái chết yểu của bà Kendra là do “bùa phản phé”, một câu chuyện được Albus và Aberforth lặp lại nhiều năm về sau. Bà Bathilda cũng nói theo thông tin của gia đình Dumbledore về Ariana, gọi cô bé là “mong manh” và “nhạy cảm”. Tuy nhiên, có một đề tài mà bà Bathilda đáng cho tôi bõ công kiếm cho được bùa Dẫn dụ Nói thật, bởi vì bà, và chỉ một mình bà, biết toàn bộ câu chuyện về bí mật được giữ kín nhất của cuộc đời Albus Dumbledore. Giờ đây, lần đầu tiên được tiết lộ, câu chuyện này đặt lại nghi vấn về tất cả những gì của Dumbledore mà những người hâm mộ ông đã tin tưởng: cái gọi là lòng căm ghét Nghệ thuật Hắc ám của ông ta, sự chống đối của ông ta đối với việc áp bức dân Muggle, kể cả sự tận tụy của ông ta đối với chính gia đình mình.

Vào đúng mùa hè mà Dumbledore – giờ đã mồ côi và là chủ gia đình – trở về nhà ở Thung lũng Godric, bà Bathilda đã đồng ý nhận vào gia đình bà người cháu họ, Gellert Grindelwald.

Cái tên Grindelwald nổi tiếng một cách chính đáng: trong một danh sách Những Phù thủy Hắc ám Nguy hiểm nhất của Mọi Thời đại, hắn chỉ văng ra khỏi vị trí đầu bảng khi Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy, một thế hệ sau đó, xuất hiện để tiếm ngôi. Tuy nhiên, vì Grindelwald chưa bành trướng chiến dịch khủng bố của hắn đến nước Anh, những chi tiết về sự trồi lên chiếm quyền lực của hắn không được biết đến rộng rãi ở xứ này.

Học hành ở Durmstrang, một trường mà ngay lúc đó đã nổi tiếng vì sự dung túng Nghệ thuật Hắc ám, Grindelwald đã chứng tỏ tài năng thần đồng như Dumbledore. Thế nhưng, thay vì hướng năng khiếu của mình vào mục tiêu giành những cuộc thi, giải thưởng, Gellert Grindelwald lại dốc sức mình theo đuổi những mục tiêu khác. Khi hắn mười sáu tuổi, ngay cả trường Durmstrang cũng không thể tiếp tục làm ngơ trước những thí nghiệm lắt léo của Gellert Grindelwald, và hắn bị đuổi học.

Đến tận ngày nay, tất cả những gì người ta biết được về hoạt động sau đó của Grindelwald chỉ là “đi du lịch vài tháng”. Giờ đây mới lộ ra là Grindelwald đã quyết định đi thăm bà dì ở Thung lũng Godric, và chính ở đó, mặc dầu chuyện này sẽ gây chấn động dữ dội đối với nhiều người nghe được, hắn đã kết tình bằng hữu với chính Dumbledore chứ không phải ai khác.

“Tôi thấy nó có vẻ là một đứa dễ thương,” bà Bathilda lảm nhảm, “bất kể sau này nó trở thành gì đi nữa. Đương nhiên là tôi giới thiệu cho nó quen với Albus đáng thương, y đang thiếu bạn bè cùng trang lứa. Tụi nó kết nhau ngay tức thì.”

Họ đúng là kết nhau. Bà Bathilda cho tôi xem một lá thư mà bà cất giữ do Albus Dumbledore gởi Gellert Grindelwald vào giữa đêm hôm khuya khoắt.

“Ừ, mặc dù tụi nó đã bỏ cả ngày để tranh luận – cả hai đều là những chàng trai tài hoa lỗi lạc, ăn ý như vạc với lửa ấy – đôi khi tôi vẫn nghe có tiếng cú gõ lên cửa sổ phòng ngủ của Gellert để đưa thư của Albus! Chắc là y nảy ra một ý tưởng và phải cho Gellert biết ngay tức thì!”

Mà những ý tưởng đó là gì? Những người ngưỡng mộ Dumbledore dù sao cũng sẽ thấy hết sức kinh hoàng, đây là tư tưởng của người anh hùng mười bảy tuổi, được chuyển tiếp cho người bạn ruột mới thân. (Một bản sao nguyên văn bức thư này có thể đọc ở trang 463.)

Gellert,

Quan điểm của anh về địa vị thống trị của phù thủy là VÌ LỢI ÍCH CỦA CHÍNH DÂN MUGGLE – điều này, tôi nghĩ, là quan điểm cốt yếu. Đúng, chúng ta đã được phú cho quyền lực và, đúng, quyền lực đó cho chúng ta quyền thống trị, nhưng nó cũng giao cho chúng ta trách nhiệm đối với những người bị trị. Chúng ta phải nhấn mạnh điểm này, nó sẽ là viên đá tảng để dựa lên đó chúng ta xây dựng. Ở đâu chúng ta bị phản đối, và chắc chắn chúng ta sẽ bị phản đối, thì ở đó quan điểm này phải là căn bản cho những phản biện của chúng ta. Chúng ta nắm quyền cai trị VÌ LỢI ÍCH LỚN LAO HƠN. Và theo sau quan điểm này là ở đâu chúng ta gặp sự kháng cự, thì ở đó chúng ta sẽ phải dùng duy nhất thứ vũ lực cần thiết và không hơn nữa. (Đây là sai lầm của anh ở trường Durmstrang! Nhưng tôi không phàn nàn đâu, bởi vì nếu anh không bị đuổi học thì chúng ta đã chẳng bao giờ được gặp nhau.)

Albus.

Cho dù nhiều người ngưỡng mộ ông sẽ ngạc nhiên và hoảng sợ, chính lá thư này đã là bằng chứng cho thấy một Albus Dumbledore từng mơ tới việc lật đổ Đạo luật về Bí mật và thiết lập sự thống trị của giới pháp thuật đối với dân Muggle. Đúng là một vố nặng cho những ai đã luôn miêu tả Dumbledore như người bênh vực vĩ đại nhất cho những phù thủy gốc Muggle! Những diễn văn đề cao Muggle quyền nghe ra rỗng tuếch biết bao khi được soi bằng ánh sáng của chứng cớ tội trạng mới toanh này! Albus Dumbledore tỏ ra đáng khinh biết bao, khi mà lẽ ra thương khóc mẹ và chăm sóc em gái, ông ta lại bận bịu âm mưu vươn tới quyền lực!

Chắc chắn những kẻ quyết tâm duy trì Dumbledore trên cái bệ đổ nát sẽ kêu be be rằng ông ta, rốt cuộc, đâu có thực hiện những kế hoạch đó, rằng ông ta ắt hẳn đã trải qua một cuộc thay đổi trong lòng, rằng ông ta đã tỉnh ngộ. Tuy nhiên, sự thật dường như nhìn chung còn đáng kinh hãi hơn nhiều.

Chỉ non hai tháng kết tình bằng hữu vĩ đại mới mẻ này, Dumbledore và Grindelwald đã chia tay, không bao giờ gặp lại cho đến khi họ đối đầu nhau trong trận chiến tay đôi huyền thoại (để biết thêm, xem chương 22). Cái gì đã gây ra sự đổ vỡ này? Có phải Dumbledore đã tỉnh ngộ? Có phải ông ta bảo Grindelwald là ông ta không muốn góp phần vào kế hoạch nữa? Ái chà, không đâu.

“Chỉ vì bé Ariana tội nghiệp đang hấp hối, tôi nghĩ, đó là lý do,” bà Bathilda nói. “Chuyện đó đến như một cú sốc dễ sợ. Gellert có mặt trong nhà đó khi việc xảy ra, và nó trở lại nhà tôi run rẩy toàn thân, nói với tôi là nó muốn về nhà ngày hôm sau. Buồn khủng khiếp, cô hiểu chứ. Vậy là tôi sắp đặt một Khóa cảng và đó là lần cuối cùng tôi thấy nó.”

“Albus không tự kiềm chế được mình trước cái chết của Ariana. Chuyện đó quá khủng khiếp đối với hai người anh. Họ đã mất hết mọi người thân, chỉ còn lại hai anh em mà thôi. Cũng không lạ nếu tâm trạng mọi người có hơi mất bình tĩnh. Aberforth trách cứ Albus, cô biết đấy, như người ta vẫn cư xử như vậy trong những tình huống tồi tệ. Nhưng Aberforth luôn luôn nói năng điên khùng, tội nghiệp thằng nhỏ. Nhưng đằng nào cũng vậy, đấm gãy mũi Albus trong đám ma thì không được nhã nhặn rồi. Bà Kendra ắt là tan nát cõi lòng khi nhìn các con trai mình đánh nhau như vậy, đánh nhau trên xác đứa con gái của bà. Thằng Gellert xấu hổ quá không thể nào ở lại dự đám tang… nếu nó dự thì ít nhất cũng đã an ủi cho Albus…”

Trận cãi lộn khủng khiếp này bên cỗ quan tài, chỉ một số ít ỏi những người dự đám tang Ariana mới biết, đã đặt ra nhiều câu hỏi. Lý do chính xác Aberforth Dumbledore trách cứ Albus về cái chết của cô em gái là gì? Phải chăng, như “Batty” giả bộ, chỉ là cơn bùng phát đau thương? Hay có thể còn những lý do cụ thể hơn để y nổi giận? Grindelwald, bị đuổi khỏi trường Durmstrang vì những đòn tấn công chí tử vào bạn học của hắn, đã chuồn ra khỏi nước vài tiếng đồng hồ sau cái chết của cô gái, và Albus (vì hổ thẹn hay sợ hãi?) chẳng bao giờ gặp lại hắn, cho đến khi buộc phải đối đầu hắn theo sự khẩn cầu của thế giới pháp thuật.

Cả Dumbledore lẫn Grindelwald dường như không bao giờ nhắc tới tình bạn ngắn ngủi của thời trai trẻ này trong quãng đời về sau của họ. Tuy nhiên, chắc chắn Dumbledore đã trì hoãn, trong suốt năm năm loạn lạc, chết chóc, mất tích, rồi mới tấn công Gellert Grindelwald. Có phải đó là do tình cảm dằng dai đối với hắn hay nỗi sợ bị phơi trần sự thật từng là bạn chí cốt với hắn đã khiến cho Dumbledore dùng dằng? Có phải Dumbledore đã bất đắc dĩ lên đường tìm bắt kẻ mà ông ta đã từng sung sướng được gặp gỡ?

Và cô Ariana bí ẩn ấy đã chết như thế nào? Có phải cô ta chỉ là nạn nhân xui xẻo của một trò Hắc ám nào đó? Có phải cô ta đã táy máy cái gì đó mà lẽ ra cô ta chớ nên làm, khi hai gã trai trẻ ngồi thực hành nỗ lực của họ để đạt tới vinh quang và thống trị? Liệu có khi nào Ariana Dumbledore lại là kẻ đầu tiên chết “vì lợi ích lớn lao hơn”?

Chương sách kết thúc ở đây và Harry ngước nhìn lên. Hermione đã đọc hết trang sách trước nó. Cô bé giật cuốn sách ra khỏi tay Harry, có vẻ hơi cảnh giác trước vẻ mặt của Harry, và gấp sách lại mà không thèm nhìn, như thể giấu đi cái gì đồi bại lắm.

“Harry à…”

Nhưng Harry lắc đầu. Một niềm tin vững chắc nào đó đã bị đập nát trong lòng nó; cảm giác y hệt như khi Ron bỏ đi. Nó đã tin tưởng cụ Dumbledore, tin tưởng cụ là hiện thân của điều thiện và sự khôn ngoan. Tất cả thành tro tàn rồi: nó còn có thể mất mát thêm bao nhiêu nữa? Ron, cụ Dumbledore, cây đũa phép…

“Harry à…” Hermione dường như nghe được suy nghĩ của nó. “Nghe mình nói nè…

Đọc… đọc nó chẳng hay ho gì đâu…”

“Ừ, bồ có thể nói vậy…”

“… nhưng đừng quên, Harry à… đây là tác phẩm của Rita Skeeter.” “Bồ có đọc bức thư gởi cho Grindelwald mà, đúng không?”
“Ừ, mình… mình có đọc,” Hermione ngập ngừng, tỏ vẻ buồn bực, ủ hai bàn tay lạnh cóng quanh tách trà. “Mình nghĩ đó là cái bỉ ổi nhất. Mình biết bà Bathilda nghĩ đó chẳng qua chỉ là nói miệng vậy thôi, nhưng ‘Vì Lợi Ích Lớn Lao Hơn’ đã trở thành khẩu hiệu của Grindelwald, thành cái để biện hộ cho tất cả sự bạo tàn mà hắn đã phạm phải sau này. Và… vì vậy… có vẻ như thầy Dumbledore đã gợi ý cho hắn. Người ta nói ‘Vì Lợi Ích Lớn Lao Hơn’ thậm chí còn được khắc ở cổng ra vào Nurmengard.”

“Nurmengard là cái gì?”

“Nhà tù mà Grindelwald đã xây lên để nhốt đối thủ của hắn. Cuối cùng chính hắn bị tống vô đó, khi thầy Dumbledore bắt được hắn. Nhưng dù sao chăng nữa, thiệt là khủng khiếp khi nghĩ rằng chính ý kiến của thầy Dumbledore đã giúp cho Grindelwald nổi lên giành quyền lực. Nhưng mặt khác, ngay cả Rita cũng không thể không thấy rằng hai người ấy chỉ quen biết nhau không quá vài tháng vào một mùa hè khi cả hai đều còn rất trẻ, và…”

“Mình đã đoán là bồ sẽ nói vậy,” Harry nói. Nó không muốn để cho cơn giận của nó trút vào Hermione, nhưng thực khó mà giữ cho giọng nói được đều đều. “Mình đã nghĩ là bồ thể nào cũng nói ‘họ còn trẻ’. Họ bằng tuổi hai đứa mình lúc này. Và tụi mình hiện giờ đang liều mạng chiến đấu chống lại Nghệ thuật Hắc ám, và ông ta, trong cơn bồng bột với người bạn mới, lại âm mưu nổi lên thống trị dân Muggle.”

Cơn giận của nó không thể kiềm giữ lâu hơn nữa: nó đứng dậy, bước đi loanh quanh, cố gắng tống bớt cục giận ra ngoài.

“Mình không cố gắng bênh vực những gì thầy Dumbledore viết,” Hermione nói. “Tất cả đồ rác rưởi ‘quyền thống trị’ ấy, chỉ là lặp lại khẩu hiệu ‘Pháp Thuật là Quyền Lực’ mà thôi. Nhưng Harry à, lúc đó mẹ của thầy vừa mới mất, thầy bị kẹt ở nhà một mình…”

“Một mình hả? Ổng đâu có một mình! Ổng có em trai, em gái để bầu bạn, cô em gái á phù thủy mà ổng tiếp tục nhốt…”

“Mình không tin chuyện đó,” Hermione nói. Cô bé cũng đứng dậy. “Cho dù cô gái đó có bị gì đi nữa, mình cũng không tin cô ta là một á phù thủy. Thầy Dumbledore mà tụi mình biết không bao giờ, không bao giờ cho phép…”

“Thầy Dumbledore mà tụi mình tưởng là tụi mình biết không muốn chế ngự dân Muggle bằng vũ lực!” Harry hét lên, giọng của nó vang vọng qua những đỉnh đồi trống trải, và nhiều con quạ bỗng vọt lên không, kêu quàng quạc và bay theo hình xoắn ốc trên nền trời ngà ngà sáng.

“Thầy đã thay đổi, Harry à, thầy đã thay đổi mà! Chuyện đơn giản vậy thôi! Có thể thầy đã từng tin những điều đó khi thầy mười bảy tuổi, nhưng toàn bộ quãng đời còn lại của thầy đã được cống hiến cho cuộc chiến chống lại Nghệ thuật Hắc ám! Thầy Dumbledore là người đã ngăn chặn Grindelwald, là người luôn luôn ủng hộ sự bảo vệ dân Muggle và quyền lợi của phù thủy gốc Muggle, là người đã chiến đấu chống Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đó ngay từ đầu, và là người đã chết trong lúc tìm cách tiêu diệt hắn!”

Cuốn sách của Rita nằm trên mặt đất giữa tụi nó, do vậy gương mặt của cụ Albus Dumbledore mỉm cười buồn bã với cả hai đứa tụi nó.

“Harry à, mình xin lỗi, nhưng mình nghĩ lý do thực sự khiến bồ tức giận chẳng qua là vì thầy Dumbledore đã không tự thầy nói cho bồ nghe những điều này.”

“Có lẽ!” Harry rống lên, và nó quăng hai tay lên ôm lấy đầu, khó mà biết là nó đang cố gắng kiềm giữ cơn phẫn nộ của nó hay để bảo vệ chính nó dưới sức nặng của sự vỡ mộng. “Hermione, thử nghĩ coi những điều mà ông ta đòi hỏi nơi mình! Liều mạng mày đi, Harry! Và liều nữa! Và liều nữa! Và đừng mong tao giải thích gì hết, chỉ cần bịt mắt mà tin tao, tin rằng tao biết tao đang làm gì, tin tao cho dù tao không tin mày! Không bao giờ nói hết sự thật! Không bao giờ!”

Giọng nó vỡ ra vì uất nghẹn, hai đứa nó đứng đó nhìn nhau trong cảnh trắng xóa và trống vắng, và Harry cảm thấy tụi nó cũng tầm thường như côn trùng dưới bầu trời bao la kia.

“Thầy thương bồ mà,” Hermione thì thầm. “Mình biết thầy thương bồ.” Harry buông thõng hai tay.

“Mình không biết ai là người được ổng thương, Hermione à, nhưng chưa bao giờ người đó là mình. Cái đống hỗn độn mà ổng giao lại cho mình không phải là tình thương. Ổng chia sẻ suy nghĩ của ổng với Grindelwald nhiều quá cha những gì ổng chia sẻ với mình.”

Harry lượm lên cây đũa phép của Hermione mà nó đã làm rớt xuống tuyết, rồi ngồi xuống ngay lối vào lều.

“Cám ơn về chén trà nhé. Mình sẽ gác hết phiên. Bồ trở vô trong lều cho ấm đi.” Hermione ngập ngừng, nhưng rồi nhận ra Harry đuổi mình. Cô bé lượm cuốn sách
lên và rồi quay lại, đi ngang Harry để vào trong lều, nhưng khi đi qua như thế, cô bé đưa tay xoa nhẹ đầu Harry. Harry nhắm mắt lại khi Hermione chạm vào nó, và nó căm ghét chính mình vì đã ước ao điều mà Hermione nói là đúng: rằng nó thực sự được thầy Dumbledore thương yêu.