ÁO CÁO
Thành phố OXY 15.4.1207, 8 giờ 99.
Thu được một cuộc điện đàm trên sóng 6.17:
“July lên tiếng đi em … July lên tiếng đi em.”
Đã chặn sống ở khu vực A – B. Kết quả việc tầm sóng: phát tại khoảng đen giữa các thành phố phục vụ và B.
CHỈ THỊ
Tiếp tục tiến hành những cuộc tầm sóng khác!
Khi có kết quả lập tức báo cáo!
BÁO CÁO
Thành phố OXY 15.4.1207, 9 giờ 71.
Trên làn sóng 6,17 không bắt được làn sóng điện đài.
12. NGÀY ĐẠI LỄ MÙA XUÂN
Rồi cũng có lúc người ta có thể quen dần với việc không còn cảm giác về thời gian.
Ở đây không có ngày hôm qua và cũng không có ngày mai. Không có mặt trời mọc và cũng không có mặt trời lặn. Chỉ có sự thay đổi về cường độ sáng, tăng lên hoặc giảm đi. Có rất nhiều quảng trường bằng bê tông và ghế xi măng. Trên dó có những sinh vật giống người mặc áo liền quần, đeo ống hô hấp, tay cầm đồ chơi luyện kiên nhẫn. Hòn bi phải lăn vào một cái lỗ, sau đó lại một hòn bi nữa. Khi bi đã vào hết lại cầm món đồ lắc lên và bắt đầu lại từ đầu. Nhưng thường họ không chơi lại lần thứ hai chỉ nghỉ giải lao được vài phút. Những sinh vật này phải lập tức trở lại phòng máy. Nếu nghỉ tay quá lâu họ sẽ không nhận được đủ lượng Oxy cần dùng. Trên các quảng trường rất nóng. Trái lại, trong các xưởng máy mát hơn và dễ chịu hơn. Hết giờ giải lao, những người mang vòi lại nối đuôi nhau chui vào các khối nhà hình hộp, và quay các bánh xe, lại kéo các cánh tay đòn, lại bấm vào các nút, sang trái, sang phải, sang trái, sang phải … Họ cứ làm như thế hàng giờ, không hề ngẩng đầu lên. Tất cả công việc này phải làm để khỏi bị thiếu hụt Oxy.
Từ lúc hai người đã cảm thông với nhau, Peter và ON không lúc nào rời nhau. Rất may mắn là chiếc máy sản xuất Oxy bỏ túi của Peter làm việc tuyệt vời nên luôn luôn nạp đầy bình chứa Oxy của họ. Nhờ đó hai người chỉ phải lao động theo sự bố trí thời gian của mình để khỏi bị buồn chán. Họ tự thấy phải làm một cái gì đó, nếu không, suốt ngày ngồi trên chiếc ghế dài, lắc lắc cái đồ chơi luyện kiên nhẫn thì đầu óc họ trở nên đần độn. ON tiếp tục ghi chép các tư liệu chăm chỉ. Anh hoàn chỉnh tấm bản đồ và ghi chú lên chiếc khăn của mình. Từ lúc được cung cấp dồi dào khí Oxy, anh luôn luôn phát hiện được thêm nhiều chi tiết. Còn Peter luôn luôn quan sát xem có một tia sóng nào phát tới không? Nhưng anh chỉ thấy im lặng như tờ. Trong thế giới của những khối bê tông. Những sinh vật với chiếc ống hô hấp luôn luôn bao quanh anh nhưng dửng dưng với mọi việc. Trong thế giới này chỉ có ON là sinh vật duy nhất có trí nhớ. Không tìm thấy một trung tâm, một văn phòng hay một cơ quan chính quyền nằm chỗ nào.
Có những ngày chính Peter cũng gần như mất hết hy vọng và trở thành dửng dưng. Những lúc ấy anh cảm thấy mình như một người đi biển đắm tàu, phải chấp nhận suốt đời trong cảnh xám xịt và câm lặng này.
Những lần khác, anh hoảng hốt, nổi khùng lên một cách vô lý, không thể kiềm chế được. Lúc đó anh đi lang thang tìm kiếm July. Có thể cả cô ấy cũng hạ cánh xuống đây. Có thể việc ta bị tai nạn không phải là tình cờ mà là do một quyền lực xấu xa muốn bắt giữ ta. Nó đang thả lỏng ta ở đây tuy vẫn có sự canh gác và quan sát. Biết đâu ON đã không nói sự thật mà có thể chàng ta lại chính là người đại diện của quyền lực xa lạ này … Không, vô lý. Chính ta đã phát hiện ra ON, chính ta đã chủ động bắt chuyện với anh ta và yêu cầu anh ta dẫn mình tới khoảng tối đen. Ta phải cùng ON đến gặp những người có trí nhớ và ta phải thoát khỏi cái cuốn kẹp khổng lồ bằng bê tông này … Ta phải hết sức gần gũi ON. Rất có thể những người bạn của chàng trai này sẽ giúp đỡ ta được nhiều …
ON tiếp tục làm công việc ghi chép, vẽ bản đồ và cố gắng giải thích cho Peter những điều anh làm. Anh cũng nhắc đến những khó khăn mà hai người sẽ gặp phải và giải thích cho Peter rõ ràng anh không được hòa mình vào giống người bị mê hoặc và ru ngủ trong ngày Đại Lễ Mùa Xuân.
Lúc này ngày Đại Lễ Mùa Xuân đã tới gần. Trên các giá sách của các cửa hàng tự nhiên các loại sách khác biến mất và chỉ còn một tập nói về ngày Đại Lễ Mùa Xuân. Peter lấy một cuốn từ trên giá sách xuống và dở xem.
Nó nói về phép lạ trên trời, nói về sự ban ơn và về niềm vui của tình ái, nhưng nội dung không rõ ràng và rối rắm. Anh nhận thấy càng ngày càng có nhiều người đeo vòi ngồi ngỉ trên quảng trường cầm xem tập sách này và ở màn ảnh trên trần các phòng ngủ xuất hiện những phim ảnh màu nhiều hơn có kèm theo nhạc kích động. Còn các món ăn thì càng ngày càng được nhỏ thêm nhiều giọt thuốc bí mật. Nhưng ON đã báo cho Peter biết trước điều này. Peter lấy một vài giọt kem nấm đưa vào máy phân tích của anh. Nhưng máy chỉ xác nhận sự có mặt của một hợp chất hữu cơ hết sức rối rắm, không rõ công thức cấu tạo.
Rồi đến một ngày kia, mọi người thức dậy trong những âm thanh nhịp nhàng và kỳ lạ, nhịp độ ngày càng nhanh hơn, cường độ ngày càng lớn hơn và kéo dài suốt ngày. Những âm thanh này giống với tiếng trống và tiếng chuông. Những người mang vòi ngày càng tỏ ra lo lắng. Trong các giàn máy chỉ có ít người làm việc. Peter và ON ngồi vào một chiếc máy tự động trong thời gian ngắn. Những việc Oxy trả cho công việc của họ đề chứa thêm một chất ma túy. ON đã báo cho Peter biết trước điều này. Lúc này họ phải cẩn thận, họ không được ăn những thức ăn và thở hít Oxy của nơi đây trong những ngày này. Vì những thứ này đều được tẩm thuốc.
Họ cảm thấy có một chính quyền tối cao, bí mật chuẩn bị cho đám đông để tham gia đám rước cho ngày Đại Lễ. Những ngày này, các thức ăn có chứa Hoóc môn sinh dục và chất kích thích. Âm nhạc nổi lên khắp nơi, trong các phòng ngủ và các nhà ăn, trong các của hàng và cả trên quảng trường. Rồi bầu trời trên đầu họ đột nhiên sáng hơn, giống như mặt trời rẽ những đám may để hiện ra. Mặt trời sáng chói đến mức Peter phải lấy tay che mắt. Lúc này họ đang ở một quảng trường. Các sinh vật chung quanh họ đột nhiên quỳ rạp xuống đất và hô lớn “Bạn ơi! Bạn ơi! Đấng Ban Ơn đã tới! Mùa xuân đây rồi! Mùa xuân đây rồi!”
ON nắm cánh tay Peter nhắc:
- Bạn phải hết sức cẩn thận, đừng để bị lôi cuốn vào dòng người. Chúng ta sẽ đứng tránh sang một bên.
Peter cảm thấy như vừa qua một giấc mơ tỉnh dậy. Mặc dù những lời báo trước của ON, mặc dù anh không uốn phải một thứ thuốc nào, Peter vẫn cảm thấy say sưa thực sự và suýt nữa thì đã bị lôi cuốn vào dòng người nhấp nhô và điên khùng này. Đám đông những sinh vật màu xám đeo các ống hô hấp này như từ lòng đất tuôn ra, đổ đầy các quảng trường. Tầm mắt nhìn xa tới đâu cũng vẫn thấy người. Dòng người đổ xô tới một chùm tia sáng chói. Họ giơ tay hướng lên trời và cử động theo các điệu trống nhịp nhàng vang xa với nhịp bước ngày càng nhanh dần. Họ vừa kiêu vũ và gần như vừa chạy.
ON ép Peter và một bức tường bê tông bảo:
- Chúng ta phải chờ cho tới hết đám rước. Chúng ta không được xen lẫn vào dòng người. Nếu không tất cả hy vọng của chúng ta đều tiêu tan. Chúng ta chờ cho họ đi hết rồi mới đi.
Có lẽ phải hàng giờ. Cho tới khi dòng người sống động ấy đi qua hết. ON và Peter đi sau cùng đám rước. Nhưng họ vẫn tiếp tục phải chú ý. Vì dọc đường từ các khối nhà lại tiếp tục có người tuôn ra. Khi đến ven thành phố, tất cả tiếp tục vọt đi. Peter nhận ra phong cảnh, địa hình lúc trước không thể đi qua được nay lại hiện ra một con đường rộng … tràn đầy ánh sáng. Họ đi theo con đường đó. Từng tốp khá đông người màu xám vẫn tiếp tục từ thành phố kéo ra nối đuôi sau đám rước.
Đám rước dừng lại ở một quảng trường bê tông hết sức rộng lớn. Ở đây, bức màn trời mở ra, lớp sương mù trên đầu họ mở ra y như một tấm màn lớn trong rạp hát và trên đầu họ là bầu trời trong xanh xán lạn.
- Khí Oxy! Khí Oxy! Hơi thở của Chúa!
- Khó Oxy thật – Peter cũng kêu lên.
- Không phải đâu bạn ơi – ON đáp – Đó chỉ là một sự lừa dối, một ảo ảnh được chiếu lên. Ở đây cũng chưa có Oxy đâu.
Bây giờ trên bức màn trời màu xanh hiện ra trẻ con, vô vàn là trẻ con. Có tới hàng trăm ngàn, hàng triệu những sinh vật nhỏ, đáng yêu với đôi mắt sáng ngời đang chạy tới. Âm nhạc nổi lên rộn rã. Đám đông lại hô:
- Đấng Ban Ơn! Đấng Ban Ơn!
Nhưng đó không phải là những đứa trẻ thực mà chỉ là phim ảnh. Một sự ghép hình, một sự lừa dối con mắt. Tiếp đó, bức màn trời lại khép lại và bây giờ ở phía xa, tuốt đầu đám rước khổng lồ, họ thấy một cửa hang mở ra. Hang này đặc biệt rộng rãi, mỗi lần có thể tới hai ba trăm người kéo vào hang. Ánh sáng từ trong đó chiếu ra ngoài. Cả đoàn người vừa chạy vừa dồn vào trong.
- Ở đó có cái gì? – Peter hỏi.
ON đáp:
- Chúng ta có thể nhìn vào trong để xem nhưng tuyệt đối không được bước chân vào. Bạn nhớ lấy rằng nếu chúng ta đặt chân vào là chúng ta thua cuộc.
Hai người rất cẩn thận đi theo hàng sau cùng của đám rước tới trước cửa hang. Nhưng giữa đường lại có những tốp người nối đuôi thêm vòa. Hai người vội bước ra khỏi dòng người và đứng phía bên ngoài quan sát. Nhưng vì đứng ngoài họ chỉ nhìn thấy một phía nhỏ của cuộc truy hoan thô tục đang diễn ra. Mỗi người bước tới cửa hang đều tháo ống hô hấp ra vì ben trong là một bầu không khí chứa Oxy thật tinh khiết làm cho họ say sưa. Trên vòm và hai bên tường có nhiều hình ảnh màu sắc sặc sỡ. Những người đang tiếp tục đi vào tưởng mình đang ở trong một khu rừng cành lá xum xê. Trong vương quốc của các cây dừa và cây chà là, những cây dái ngựa và cây bạch đàn khổng lồ. Các dây leo chằng chịt và rêu mọc xanh rì. Ngay cả nền trong hang cũng có cỏ xanh thay cho chất bêtông rắn. Người ta có cảm giác cỏ mượt như nhung dưới chân. Các sinh vật bước vào đó, trong giây lát tự động lột hết quần áo, ôm lấy nhau và lăn ra đất. Từng đoạn một, hang lại nới rộng ra. Ở các đoạn phình ra đó có để những thức uống có vị giống mật ong gây sự sảng khoái cho đám đông. Cứ như thế, đám rước nhích về phía trước, vừa hát, vừa uống và biến thành một cơn say ái tình không gì ngăn cản nổi. Trước khi đuôi của đám đông rất dài lọt vào cửa hang thì những hàng đầu tiên đã tuôn ra cửa hang đàng kia cách cửa vào không quá một dặm. Nhưng con đường chạy quanh co trong hang nên độ dài của nó tới vài dặm. Điều đặc biệt là ở hai bên thành hang có những cửa trượt tự mở ra lại tự đóng vào, nuốt đi một số người trong đám đông. Nhưng tuyệt đại đa số lại trở ra lòng hang gần nơi họ đã bước vào. Họ vẫn còn nửa say nửa tỉnh và lại được đưa dần tới cửa ra khỏi hang. Ở đó họ lại nhận được những bộ đồ lao động áo liền quần và những máy hô hấp, chỉ khác là lần này các bình chứa đã được nạp Oxy. Sau cuộc du hí chỉ kéo dài vỏn vẹn vài tiếng đồng hồ, tất cả lại quay trở lại thành phố của những khối nhà bê tông. Ở đó họ lại kéo dài cuộc sống cần cù phẳng lặng và buồn tẻ cho đến Đại Lễ Mùa Xuân lần sau.
Peter và ON đứng xem một lúc, theo dõi đoàn người say sưa, từ từ tuồn vào hang. Peter hỏi:
- Ngày Đại Lễ này có tác dụng gì?
- Hệ thống hang hốc này chứa một máy tính điện tử, một máy xử lý khổng lồ. Hàng năm, tất cả người dân hành tinh Oxy đều phải qua nó một lần. Hình thức là tự nguyện. Nếu có người nào đó không bước vào thì cũng chẳng ai quan tâm tới người đó. Như vậy, không có gì xảy ra với anh ta. Nhưng qua một năm làm việc buồn tẻ, ai cũng muốn được qua đây và đó là điều mơ ước, là nỗi nhớ nhung, là ý nghĩa của cuộc sống, là điều duy nhất mà người ta đã để họ nhớ được và ham muốn. Trong hang, không khí chứa dồi dào Oxy được pha lẫn hương liệu và các thuốc kích thích. Trong sự mê ly ngây ngất trước việc được thở đầy lồng ngực với điệu nhạc kích thích các loại thuốc ma túy, họ cởi bỏ hết quần áo, làm tình, ăn và uống. Trong thời gian họ lưu lại ở trong hang, có các máy tính tự động làm các công việc đo lường, đánh giá và phân loại từng người hết sức nhanh. Họ được phân loại và chọn lọc. Các cửa trượt mở ra và đóng vào. Ở bẫy trượt thứ nhất, các thanh niên nam nữ được phát hiện là thích hợp cho Thành phố của những người có trí nhớ. Đó là thế giới của các nhà bác học. Những người dược đưa lên đó là những người đã được máy móc phát hiện những khả năng đặc biệt trong bộ não: năng khiếu lôgic, năng khiếu toán học, tài năng về vẽ v… v … Từ các bẫy trượt học được chuyển vào những con đường trượt kiểu băng tải. Cũng theo các này, trước đây tôi cũng đã được tới Thành phố của những người có trí nhớ. Còn trong một bẫy trượt khác, máy móc lựa những người nhanh nhẹn đặc biệt và khéo tay. Ở cửa trượt thứ ba là những người có xu hướng nghệ thuật. Còn một cửa nữa chọn những người có cuộc sống cảm giác đặc biệt mạnh. Cách cửa ra một đoạn, các thiếu phụ đã làm tình xong được thăm dò xem họ đã thụ thai chưa.
Peter hỏi:
- Đối với những người có thai thì sao?
- Máy móc đưa những người đã thụ thai đến những trại rộng lớn ở gần Thành phố của những người có trí nhớ. Ở đó họ sinh con và chăn nuôi con cho tới ngày Đại Lễ Mùa Xuân năm sau. Khi đó người ta tách những đứa con ra khỏi những người mẹ. Những người mẹ lập tức được đưa trở lại một trong những Thành phố của những người phục vụ. Còn các hài nhi thì được nuôi cho đến năm lên sáu. Sau đó những đứa nhỏ được đưa đến các Thành phố phục vụ nuôi nấng dạy dỗ trong những khối nhà có mang số hai cho đến khi chúng lớn lên và biết tham gia vào ngày Đại Lễ Mùa Xuân. Khi đó các máy móc sẽ quyết định số phận chúng.
- Thế còn các bà mẹ, họ có được trả lại con không?
- Không – ON ảm đạm trả lời – Các bà mẹ thì khóc than và la hét. Nhưng máy móc và bẫy trượt là những vật vô tri, vô giác, không biết thương xót. Các thiết bị ru ngủ: Họ bị phun thuốc an thần, rút mất Oxy, cho thêm chất ngủ đông. Và cứ thế họ xỉu đi gần như ngất hẳn. Sau đó học được đưa vào xóa trí nhớ và đưa trở xuống các Thành phố phục vụ.
- Thế không có khả năng nào khác để các bà giữ lấy con mình à?
- Muốn như vậy, ta phải gặp may mắn, ví dụ như trường hợp tôi. Khi tôi được biết mối nguy hiểm nào đang đe dọa thì tôi cố gắng mọi cách để bảo vệ trí nhớ của tôi. Tôi đã làm thân được với anh bạn ORO và anh đã bí mật giúp tôi. Trước khi bị đưa vào xử lý xóa trí nhớ, anh đã lót vào sọ tôi một miếng bảo hộ mỏng, các tia xóa trí nhớ bị hút vào đấy. Ngoài ra anh còn cho tôi nhiều thứ thuốc để vô hiệu hóa các chất độc ngăn trở sự trao đổi chất giữa Oxy và Aciđe Rubonnucleic. Khi tôi đã vượt qua được điều khủng khiếp nhất thì tôi đã bắt đầu ghi chép lại những gì cần thiết … Và số phận may mắn lại run rủi cho tôi gặp anh, một người bạn tốt như ORO trên đường đi của tôi.
- Khi nãy anh nói rằng, những người mẹ sẽ quên hết tất cả? Như vậy là việc thu hẹp trí nhớ của họ hoàn tất đến mức họ không thể nhớ được cả con của mình hay sao?
- Những người mẹ không còn nhớ được gì nữa: Có lẽ chỉ có đến ngày Đại Lễ Mùa Xuân, khi học bắt buộc rơi vào cơn say ái tình và lại có thể có mang nữa.
- Thế ai dạy dỗ những đứa trẻ. Nếu không có mẹ, chúng có những người bảo mẫu hay người thầy?
- Khi còn nhỏ chúng được giao cho những người bảo mẫu. Họ tập cho chúng những cử chỉ và những nhiệm vụ đầu tiên. Khi đã lớn hơn, chúng chỉ học qua người máy và phim đen chiếu. Chúng được xem phim về cách đeo mặt nạ hô hấp, về cách chăm sóc vệ sinh cơ thể và về cách ăn uống. Các đồ chơi của trẻ em phần lớn là các mẫu nhỏ của máy móc. Ví dụ có những chiếc bánh xe nhỏ và những nút bấm. Nếu chúng khéo tay trong khi chơi thì bình chứa Oxy nhỏ của chúng cũng được nạp đầy Oxy. Như vậy đến khi lớn lên, chúng đã học được những điều chúng cần biết. Và em nào không học được những điều đó sẽ không được sử dụng – ON nói nhỏ nhẹ đều đều.
Peter giọng run run hỏi:
- Anh có thể nói về những điều tàn bạo khủng khiếp đơn giản như vậy sao?
- Nói cách nào thì sự thực cũng không thay đổi nếu chính mắt chúng ta chưa nhìn thấy được nó. Nhưng bây giờ, anh Peter thân mến ạ, tôi nghĩ rằng, điều cần nhất đối với chúng ta là phải làm được cái mà gần như không thể làm được: Theo tôi thì Con đường mòn cũ phải bắt đầu ở phía bên trái cách đây chừng nửa dặm.